Lý thuyết Ngữ văn 10 bài: Củng cố, mở rộng bài 7 KNTT
Chúng tôi xin giới thiệu bài Lý thuyết Ngữ văn lớp 10 bài: Củng cố, mở rộng bài 7 được VnDoc sưu tầm và tổng hợp lí thuyết và bài tập có đáp án đi kèm nằm trong chương trình giảng dạy môn Ngữ văn lớp 10 sách Kết nối tri thức. Mời quý thầy cô cùng các bạn tham khảo tài liệu dưới đây.
Bài: Củng cố, mở rộng bài 7
1. Người kể chuyện ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba
- Người kể chuyện ngôi thứ nhất là người kể xưng "tôi" hoặc một hình thức tự xưng chuyện ngôi thứ nhất có thể là nhân vật chính, nhân vật phụ, người chứng kiến, người kể lại câu chuyện được nghe từ người khác hay xuất hiện với vai trò tác giả “lộ diện".
- Người kể chuyện ngôi thứ ba là người kể chuyện ẩn danh, không trực tiếp xuất hiện trong tác phẩm như một nhân vật, không tham gia vào mạch vận động của cốt truyện và chỉ được nhận biết qua lời kể. Người kể chuyện ngôi thứ ba có khả năng nắm bắt tất cả những gì diễn ra trong câu chuyện, kể cả những biểu hiện sâu kín trong nội tâm nhân vật, do vậy có khả năng trở thành người kể chuyện toàn tri.
- Quyền năng của người kể chuyện thể hiện ở phạm vi miêu tả, phân tích, lí giải và mức độ định hướng đọc trong việc cắt nghĩa, đánh giá sự kiện, nhân vật được khắc họa trong tác phẩm văn học.
2. Ôn tập viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm văn học
Các yêu cầu khi viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm văn học
- Giới thiệu được những thông tin khái quát về tác giả, tác phẩm.
- Nêu được nhận xét khái quát về giá trị của tác phẩm.
- Nêu được nét riêng về chủ đề của tác phẩm.
- Phân tích được mối quan hệ gắn kết giữa chủ đề và các nhân vật trong tác phẩm (chủ đề đã chi phối sự lựa chọn, miêu tả nhân vật như thế nào, nhân vật đã phát triển và khơi sâu chủ đề ra sao,...).
- Đánh giá khái quát về thành công hay hạn chế của tác phẩm nhìn từ mối quan hệ giữa chủ đề và nhân vật.
- Phát biểu được tác động của chủ đề tác phẩm, nhân vật trong tác phẩm đối với bản thân.
3. Bài tập minh họa
Bài tập: Em hãy viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá phần kết của đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền - Vích-to Huy-gô SGK Ngữ văn 10 Kết Nối Tri Thức.
Hướng dẫn giải:
- Đọc lại phần kết văn bản Người cầm quyền khôi phục uy quyền - Vích-to Huy-gô SGK Ngữ văn 10 Kết Nối Tri Thức
- Chú ý hình ảnh biểu tượng gương mặt Phăng-tin lúc chết
- Tham khảo các tư liệu sách báo, internet để hiểu hơn về đoạn kết văn bản
- Kết hợp những hiểu biết, trải nghiệm của bản thân để bài viết chân thực hơn
Lời giải chi tiết:
Một không khí thiêng liêng được thể hiện qua sự im lặng gần như tuyệt đối của không gian căn phòng nơi Phăng tin chết. Đồng thời sự thiêng liêng đó cũng được thể hiện qua các hành vi của Giăng Van-giăng trong tư thế ngồi, nét mặt, dáng điệu. Ngay cả Gia-ve cũng không dám làm gì khi đó và bà xơ Xem- pli-xơ cũng chỉ là chứng nhân bất động. Mọi hoạt động lúc đó gắn liền với Giăng Van-giăng, song cũng không ồn ào mà hết sức lặng lẽ, ngay cả khi nói với người đã chết thì âm thanh ở đây cũng chỉ đủ mức cho hai người nghe, cũng chỉ là thì thầm. Đây là một kiểu không gian đặc trưng khác thường mà nghệ thuật lãng mạn thường quan tâm khai thác và xây dựng.
Trước hết, cái đẹp phi thường được thể hiện qua lời kể của nhà văn:
Các câu hỏi liên tiếp được đưa ra đầy nghi vấn, càng không hề có chút gì mỉa mai. Các câu hỏi đó đều được giải đáp bằng chi tiết bà xơ Xem-pli-xơ, người độc nhất chứng kiến ấy, là người đã trông thấy một nụ cười không sao tả được hiện trên đôi môi nhợt nhạt. Có thể coi đây là một thực tế vô lí. Song, tác giả đã nhấn mạnh là bà xơ Xem- pli-xơ không bao giờ biết nói dối, bà chỉ nói sự thật, sự thật của mắt thấy tai nghe.
Đọc câu văn có những ảo tưởng cảm động, có thể là những sự thực cao cả, ta thấy đưa ra cách lí giải hợp lí ở đây cần chú ý là không chỉ có nụ cười trên môi mà còn có cả nụ cười trong đôi mắt xa xăm, đầy ngỡ ngàng của Phăng-tin nữa. Tất nhiên đây là đôi mắt của người đã chết, song trong không gian thiêng liêng ấy, qua cách nhìn của bà xơ, cái ảo tưởng này có thể giải thích được.
Tiếp đó là các hành vi mà Giăng Van-giăng thực hiện với người đã khuất. Các động tác sửa soạn lại tư thế cuối cùng cho Phăng-tin của Giăng Van-giăng. So sánh các động tác ấy với động tác của người mẹ chăm con, người đọc hiểu thêm tình người sâu sắc của ông. Các động tác của Giăng Van-giăng chậm rãi, không gấp gáp mà tuần tự để đi tới động tác cuối cùng: Rồi ông vuốt mắt cho chị . Điều gì đã xảy ra? “Lúc ấy gương mặt Phăng-tin như sáng rỡ lên một cách lạ thường. Đây cũng là biểu hiện độc đáo của nghệ thuật lãng mạn, hướng tới cái khác thường, phi thường trong hoàn cảnh khác thường.
Động tác Giăng Van-giăng quỳ xuống trước bàn tay buông thõng ngoài giường của Phăng-tin cũng rất đặc biệt: Giăng Van-giăng quỳ trước bàn tay người phụ nữ vốn đã phải làm cái nghề bán thân nuôi miệng ấy ta thấy sự khác biệt giữa hai cách nhìn về con người này: một của Giăng Van-giăng, một của Gia-ve. Và từ đó ta thấy rõ tình cảm nhân đạo, tình người bao la của tác giả. Các động tác ở đây cũng nhẹ nhàng, tình cảm và tuần tự. Động tác cuối cùng của Giăng Van-giăng là đặt vào bàn tay ấy một nụ hôn.
Đọc câu văn sau đây, ta hiểu thêm quan niệm của tác giả về cái chết: Chết tức là đi vào bầu ánh sáng vĩ đại. Đây cũng là một cách nhìn lãng mạn, không giống như quan niệm bình thường, thể hiện niềm tin bất diệt vào thế giới cái thiện. Cái thiện bao giờ cũng gắn với ánh sáng, cái ác bao giờ cũng gắn với bóng tối.
------------------------------
Như vậy, VnDoc.com đã gửi tới các bạn Lý thuyết Ngữ văn 10 bài: Củng cố, mở rộng bài 7 KNTT. Ngoài ra, các em học sinh có thể tham khảo môn Hóa 10 Kết nối tri thức, Lý 10 Kết nối tri thức và Toán 10 Kết nối tri thức tập 1, Sinh 10 Kết nối tri thức đầy đủ khác.