Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Phân tích Bài ca ngắn đi trên bãi cát hay chọn lọc

Phân tích bài thơ Bài ca ngắn đi trên bãi cát vừa được VnDoc.com sưu tập và xin gửi tới bạn đọc để bạn đọc cùng tham khảo có thêm tài liệu học tập. Mời các bạn cùng tham khảo và tải về tại đây.

1. Dàn ý phân tích Bài ca ngắn đi trên bãi cát

I. Mở bài:

- Những nét chính về tác giả Cao Bá Quát: Một tác giả trung đại có cuộc đời bất hạnh nhưng hào hùng. Ông mang đến thơ văn sự độc đáo mới mẻ theo hướng bám sát hiện thực.

- Giới thiệu Bài ca ngắn đi trên bãi cát: được sáng tác trên đường tác giả đi thi Hội. Bài thơ thể hiện tâm tư của một sĩ tử trên đường danh lợi.

II. Thân bài:

1. Bốn câu đầu

- Tiếng khóc cho cuộc đời dâu bể.

+ “Bãi cát dài lại bãi cát dài”: Điệp từ gợi lên hình ảnh những bãi cát nối tiếp nhau đến vô tận. ⇒ Hình ảnh bãi cát dài mênh mông, nối tiếp nhau tượng trưng cho môi trường xã hội, con đường đời đầy chông gai, gian khổ, nhọc nhằn.

+ “Đi một bước lùi một bước”: sự vất vả, khó nhọc của người đi đường, đây vừa là cảnh thực vừa là tượng trưng cho con đường công danh gập ghềnh của tác giả.

+ “Mặt trời đã lặn chưa dừng được”: Mặt trời lặn mà vẫn còn đi, nước mắt rơi lã chã, tâm trạng đau khổ.

+ “Lữ khách trên đường nước mắt rơi”: Cảnh tượng một người đi trong không gian mù mịt, mênh mông, khó xác định được phương hướng.

⇒ Hình ảnh bãi cát dài mênh mông, nối tiếp nhau, hình ảnh con đường như bất tận, mờ mịt, tình cảnh của người đi đường khó khăn, bất lợi.

⇒ Nhà thơ nhìn thấy con đường danh lợi đáng buồn, đầy chông gai

2. Tám câu tiếp

- “Không học …lội suối, giận khôn vơi!”: sử dụng điển tích, tác giả giận mình vì không có khả năng như Hạ Hầu Ấn có thể nhắm mắt mà vẫn bước đều khi leo suối, lội nước ⇒ oán giận con đường công danh.

- “Xưa nay… đường đời”: sự cám dỗ của cái bả công danh đối với người đời, danh lợi khiến con người “tất tả”.

⇒ sự chán ghét, khinh bỉ của Cao Bá Quát đối với danh lợi, ông không muốn sa vào con đường ấy, nhưng vẫn chưa tìm ra hướng đi khác cho mình,

- “Đầu gió … tỉnh bao người”: chuyện mưu cầu danh lợi cũng hấp dẫn như thưởng thức rượu ngon, làm say người, ít ai có thể tránh được sự cám dỗ. ⇒ ông nhận ra sự cám dỗ của danh lợi đối với con người.

- “Bãi cát dài…nhiều, đâu ít?”: Nhận ra sự cám dỗ công danh, nhà thơ như trách móc, giận dữ nhưng cũng chính đang tự hỏi bản thân. Ông nhận ra tính chất vô nghĩa của lối khoa cử đương thời nhưng cũng vẫn đang bước trên con đường ấy ⇒ Tâm trạng băn khoăn, day dứt, bế tắc, bước trên con đường công danh thì mù mịt mà “đường ghê sợ” thì nhiều không ít.

- “Khúc đường cùng”: nghĩa biểu tượng, đây là bài ca về con đường cùng của chính tác giả, về sự bế tắc, tuyệt vọng của mình trước cuộc đời.

3. Ba câu cuối

“Phía Bắc núi Bắc núi muôn trùng

Phía Nam núi Nam sóng dào dạt”

+ Tả thực: khung cảnh gợi cảm giác ngột ngạt, bó buộc.

⇒ Thiên nhiên phía Bắc, phía Nam đều đẹp hùng vĩ nhưng cũng đầy khó khăn hiểm trở, đi mà chỉ thấy phía trước là núi là biển mênh mông mịt mờ.

+ Biểu tượng cho ý niệm: cuộc đời bế tắc, ngột ngạt.

⇒ Nghĩa ẩn dụ, tượng trưng: con đường đời đầy chông gai mà kẻ sĩ như Cao Bá Quát phải dấn thân để mưu cầu công danh.

- “Anh còn đứng làm chi trên bãi cát”: tiếng kêu bi phẫn, bế tắc, tuyệt vọng.

⇒ Tư thế dừng lại nhìn bốn phía mà hỏi vọng lên trời cao, lại hỏi chính lòng mình thể hiện khối mâu thuẫn lớn đang đè nặng trong tâm trí nhà thơ.

4. Nghệ thuật

- Sử dụng thơ cổ thể, hình ảnh có tính biểu tượng.

- Thủ pháp đối lập, sáng tạo trong dùng điển tích.

III. Kết bài:

- Khẳng định lại những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật.

- Khúc bi ca mang đậm tính nhân văn của một con người cô đơn, tuyệt vọng trên đường đời thể hiện qua hình ảnh bãi cát dài, con đường cùng và hình ảnh người đi cùng.

2. Phân tích Bài ca ngắn đi trên bãi cát mẫu 1

Cao Bá Quát là một trong những nhân tài hiếm hoi trong xã hội phong kiến triều Nguyễn. Ông là một người có bản lĩnh, có cá tính mạnh mẽ, là một nhà thơ có tài năng, được nhiều người ca ngợi. Thơ của ông hướng về xã hội phong kiến trì trệ với thái độ phê phán mạnh mẽ, phản ánh nhu cầu đổi mới xã hội Việt Nam. Thế nhưng, ông gần như không thể cống hiến được tài năng của mình bởi nhiều lần đi thi mà không đỗ. Bài thơ "Bài ca ngắn đi trên bãi cát" của ông là một trong những sáng tác của ông viết về con đường danh lợi gập ghềnh mà ông chán ghét nhưng buộc phải theo đuổi và sự bế tắc của xã hội phong kiến đương thời.

Bài thơ “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” của Cao Bá Quát được viết theo thể hành, là một thể thơ tự do, tình chất phóng khoáng. Có lẽ chính vì thế mà nó đã bộc lộ hết được những suy tư, trăn trở của nhà thơ trước thời cuộc và chính cuộc đời của mình.

Mở ra trước mắt người đọc là hình ảnh của một bãi cát dài, trắng mênh mông, vô tận cùng hình ảnh người khách lữ hành đang lang thang vô định giữa miền cát vô tận ấy.

"Bãi cát dài lại bãi cát dài

Đi một bước như lùi một bước

Mặt trời đã lặn, chưa dừng được

Lữ khách trên đường nước mắt rơi"

Bốn câu thơ đầu của bài thơ như là tiếng thở dài, tiếng khóc đầy nghẹn ngào của Cao Bá Quát trước cuộc đời đầy gian truân của mình. Mở ra trước mắt ông là hình ảnh chỉ mênh mông là cát ngút ngàn tầm mắt, không có một phương hướng hay chỉ đường. Đây là hình ảnh chân thực trong những lần ông vượt qua các tỉnh miền Trung để lên kinh đô thi Hội, nó đã in đậm vào tâm trí ông. "Bãi cát" hay chính là môi trường xã hội, con đường mưu cầu danh lợi mà ông đang đi, khó khăn, vất vả, cứ đi miết mà không tìm thấy đích đến. Câu thơ là một tiếng thở dài đầy ngao ngán "bãi cát lại bãi cát dài" của ông bởi đi bao lâu cũng chỉ thấy là cát mà chẳng thấy một lối ra, một ốc đảo xanh tươi để dừng lại ngơi nghỉ. Những bước chân nặng nề trên cát, "đi một bước như lùi một bước" tức là người đi như đang giậm chân tại chỗ, chẳng thể tiến lên thêm một bước nào.

Hai câu thơ như lời ẩn dụ cho con đường danh lợi ông đang cố theo đuổi với đầy những khó khăn, trắc trở, lại mênh mông chẳng thấy hướng ra. Bao lần ông lên kinh thi Hội là bấy nhiêu lần tìm lại sự thất vọng, mệt mỏi, chán chường. Bãi cát kia là con đường công danh ông theo đuổi hay cũng chính là cái vòng luẩn quẩn của xã hội phong kiến triều Nguyễn đang bế tắc, quẩn quanh?

Vậy mà giữa mênh mông biển cát ấy, vẫn có một người lữ khách đang mải miết bước đi. Mặt trời đã về núi, vậy mà người lữ khách kia vẫn chưa dừng bước chân, vẫn đang tiếp tục tiến về phía trước. Thế nhưng, người khách đường dài kia chẳng hề thấy vui vẻ, mà lại đau khổ khôn cùng "nước mắt rơi". Dường như người lữ khách đang muốn nghỉ ngơi, muốn rời bỏ con đường đi mênh mông phía trước mà chẳng thể được.

"Mặt trời đã lặn, chưa dừng được

Lữ khách trên đường, nước mắt rơi"

Phải chăng đây chính là tâm trạng, hình ảnh của Cao Bá Quát trên con đường mưu cầu danh lợi của bản thân mình? Ông bước đi trên đó với sự cô đơn, đau khổ, sự chán ghét, lạc lõng, vô phương hướng mà lại chẳng thể dừng chân, rời đi, tìm một hướng đi mới. Ông mệt mỏi tới cùng cực trên con đường tìm kiếm công danh phù phiếm mà ông buộc lòng phải theo đuổi. Hình ảnh "bãi cát" dài nối tiếp nhau như là ẩn dụ cho con đường đời mù mịt, bất tận của chính tác giả "người lữ khách". Người lữ khách ấy cứ mải miết đi, mải miết bước dù có mệt mỏi, kể cả khi bóng tối đã bao trùm.

Bốn câu thơ đầu là lời thở dài đầy ngao ngán của nhà thơ trước con đường công danh mà ông đang phải theo đuổi. Trên con đường ấy, ông như người lữ khách giữa biển cát mênh mông, cô đơn, lạc lõng vô cùng. Không chỉ cô đơn, mỏi mệt, lẫn trong đó là tiếng khóc nghẹn ngào, đầy sự bế tắc của ông về cuộc đời bể dâu, về công danh, lợi lộc, muốn tìm kiếm hướng ra nhưng lại mịt mờ, chẳng rõ.

Ai oán là thế, nhưng người lữ khách Cao Bá Quát lại không thể rời bỏ con đường mưu cầu danh lợi mà mình chán ghét được. Ông muốn được như Hạ Hầu Ấn, có thể vừa ngủ vừa đi, không cần nghỉ ngơi mà vẫn bước đi đều đặn. Bởi con đường của ông có quá nhiều chông gai, quá nhiều "non", nhiều "suối", ông phải băng qua, thật mệt mỏi biết bao. Ông cũng muốn được như "tiên ông ngủ", đi mà vẫn ngủ, chẳng cần nghỉ ngơi. Đây cũng là lời oán hận của Cao Bá Quát với cuộc đời, với xã hội bất công luôn bắt ông phải cố gắng hết mình mà vẫn mãi chẳng đạt tới danh lợi phù phiếm kia.

Chiêm nghiệm lại cuộc đời từ xưa tới nay, ông nhận ra rằng, con người chưa bao giờ bỏ được danh lợi xa hoa ấy. Con người luôn phải "tất tả", vội vã, bon chen để đạt tới mục đích cuối cùng trên con đường danh lợi phù phiếm và chính ông cũng đang như vậy.

"Xưa nay phường danh lợi

Tất tả trên đường đời".

Họ "tất tả", ngược xuôi vì danh lợi cũng là điều đương nhiên thôi, bởi vì có ai cưỡng lại được công danh, lợi lộc được cơ chứ? Cũng như con người chẳng mấy ai có thể cưỡng được hương vị thơm của rượu ngon nơi "đầu gió" cả. Danh lợi như một chum rượu ngon, khiến bao người phải "say", phải tìm tới. Có mấy ai tỉnh táo mà nhận ra sự phù phiếm của nó hay chăng?

Câu hỏi "tỉnh bao người" như là lời tự hỏi chính bản thân mình của Cao Bá Quát. Liệu ông có phải là người "tỉnh" trong "quán rượu" ngon kia chăng? Hay ông cũng chỉ là một trong vô số những người đang say trong hương rượu nồng? Câu hỏi cũng như lời tự than bất lực của ông trước vòng xoáy danh lợi ông đang theo đuổi, bất lực trước cả thời cuộc, xã hội nữa.

Đến đây, người ta có thể nhận ra sự mệt mỏi, chán chường của ông trước cuộc đời như thế nào. Ông băn khoăn trước con đường mình chọn.

"Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!

Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt

Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít?"

Hình ảnh "bãi cát" lại một lần nữa được nhắc tới trong bài thơ. Vẫn là tiếng thở dài đầy ngao ngán trước cuộc đời, trước con đường mình chọn đang mờ mịt không có lối ra. Ông tự hỏi "tính sao đây?", tính sao trước cuộc sống đầy chán chường, bế tắc này? Đường đi "bằng" phẳng thì "mờ mịt", không thấy hướng, còn những con đường gập ghềnh "ghê sợ" kia thì sao? Chúng cũng "đâu ít" gì? Cao Bá Quát tự hỏi chính mình, ông "tính sao" trước thời cuộc này, trước sự bế tắc của xã hội này?

Lời thơ như lời trách móc, giận dữ chính bản thân mình khi chính ông cũng đang lao đầu vào chính những cám dỗ ấy. Ông nhận ra cái vô nghĩa của những khoa thi cử đương thời, khi mà người tài lại chẳng được trọng dụng, chẳng thể giúp đổi mới cho một xã hội bảo thủ, trì trệ.

Và giờ đây, ông đứng giữa "bãi cát" mênh mông ấy, cất lên khúc ca về sự tuyệt vọng, chán chường của bản thân mình. "Khúc đường cùng" hay chính là khúc ca cuối cùng của Thánh Quát, con người cả một đời phải theo đuổi con đường công danh mà mình chán ghét, ghê sợ?

Chán chường, tuyệt vọng là thế, đến cuối cùng, ông vẫn phân vân tự hỏi với chính bản thân mình.

"Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng

Phía nam trời Nam, sóng dào dạt

Anh đứng làm chi trên bãi cát?".

Người lữ khách – Cao Bá Quát đứng giữa bãi cát mênh mông nhìn ra xung quanh bốn phía. Phía bắc là núi non trùng trùng điệp điệp, phía nam là sóng cao biển sâu, chẳng hướng nào có thể vượt qua được. Một khung cảnh thiên nhiên đẹp hùng vĩ đến vậy nhưng lại nguy hiểm, trắc trở vô cùng. Người lữ khách chơi vơi giữa "bãi cát" mênh mông ấy chẳng thể tiến, chẳng thể lùi, chẳng biết nên đi về hướng nào. Phải chăng, Cao Bá Quát đang muốn hướng tới cái xã hội phong kiến tù túng, ngột ngạt trong bế tắc kia và cái con đường công danh ông theo đuổi cả đời cũng mãi mịt mờ, trắc trở như thế?

Câu cuối cùng của bài thơ là một câu hỏi, tác giả tự hỏi chính bản thân mình:

"Anh đứng làm chi trên bãi cát?"

Biết con đường ấy mịt mờ, đầy gồ ghề, lại bế tắc, chán ghét, vậy tại sao cả đời ông lại theo đuổi nó tới cùng? Câu hỏi ấy như là sự phân vân, bi phẫn đến tuyệt vọng của chính tác giả. Ông hiểu được sự bế tắc của xã hội, của con đường danh lợi ông theo đuổi, ông chán ghét nó tới cùng cực nhưng lại chẳng thể nào rời bỏ nó. Vậy rốt cuộc, ông đứng đây để làm chi, để chờ đợi điều gì? Một sự mâu thuẫn quá đỗi trong lòng của nhà thơ.

Bài thơ "Bài ca ngắn đi trên bãi cát" như là lợi tự bạch đầy chán chường của Cao Bá Quát trước con đường danh lợi tầm thường mà ông buộc phải theo đuổi xen lẫn trong đó là sự bất lực khi ông khao khát được đổi mới cuộc sống trong xã hội phong kiến triều Nguyễn bảo thủ, trì trệ, ngột ngạt, tù túng. Về nghệ thuật, bài thơ được viết theo thể hành, phóng khoáng, tự do, có sử dụng những hình ảnh với tính biểu tượng lớn. Cao Bá Quát cũng sử dụng rất tinh tế các điển tích, điển cố để làm diễn giải ý thơ của mình. Nhịp thơ tùy biến, nhanh chậm nhịp nhàng, đầy sáng tạo cũng là một phần góp lên thành công cho bài thơ khi miêu tả những suy tư của nhân vật trữ tình trên con đường danh lợi đầy trắc trở.

Bài thơ đã giúp cho chúng ta hiểu được sự chán ghét của một người trí thức đầy tài năng – Cao Bá Quát (Thánh Quát) với con đường mưu cầu danh lợi tầm thường trong một xã hội với những bế tắc, trì trệ, không lối thoát. Đây có lẽ chính là lý do lớn nhất giải thích vì sao mà ông lại đứng lên khởi nghĩa chống lại triều đình nhà Nguyễn. Bởi ông luôn khao khát được đổi mới cuộc đời của mình, đổi mới xã hội, được cống hiến cho nước nhà, được trở thành một con người có ích cho Tổ quốc.

3. Phân tích Bài ca ngắn đi trên bãi cát mẫu 2

Cao Bá Quát là một trong những nhà thơ nối tiếng sống trong một xã hội coi trọng người Nam hơn người Bắc. Chính điều này đã gây nên nhiều điều bất bình xảy ra trong nhà Nguyễn. Ông là người có bản lĩnh, có cá tính trong cuộc sống thời ấy. Bài thơ "Bài ca ngắn đi trên bãi cát có thể được tác giả làm trong khi đi thi Hội, là thời điểm ông rất muốn thi thố tài năng, thực hiện ý chí của mình. Nó biểu lộ sự chán ghét của một người trí thức đối với con đường danh lợi tầm thường đương thời và niềm khao khát thay đổi cuộc sống.

Bãi cát lại bãi cát dài,

Đi một bước như lùi một bước

Mặt trời đã lặn, chưa dừng được,

Lữ khách trên đường nước mắt rơi.

Không học được tiên ông phép ngủ,

Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!

Xưa nay, phường danh lợi,

Tất tả trẽn đường đời.

Đầu gió hơi men thơm quán rượu,

Người say vô số, tỉnh bao người?

Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!

Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt,

Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít?

Hãy nghe ta hát khúc "đường cùng",

Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng,

Phía nam núi Nam, sóng dào dạt.

Anh đứng làm chi trên bãi cát?

Mới vào bài thơ ta thấy cụm từ "bãi cát" được lặp lại hai lần: "Bãi cát lại bãi cát dài". Bãi cát ớ đây là hình ảnh được tác giả tả thực gợi lên một không gian khó khăn, dài thăm thẳm. Thông thường chúng ta đi trên cát rất khó, không giống như đi trên đường đất bình thường, chân bước tới cứ bị trượt về sau. Trên bãi cát ấy là một con đường rộng lớn, mờ mịt, rất khó mà xác định phương hướng như đứng ớ bên này nhìn qua bên kia chân trời. Đó không chỉ là ruột con đường thực, mà là con đường hiểu theo nghĩa tượng trưng cho một con đường xa xôi, mờ mịt. Để tìm được chân lí, tìm được cái đích thực sự có ý nghĩa cho cuộc đời thì con người phải vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ đầy thử thách.

Trên bãi cát ấy có hình ảnh một con người (tác giả), người đi trên bãi cát. Một con người nhỏ bé, lẻ loi, cô độc đi trên một bãi cát rộng, dài bao la, quanh quanh hình ảnh con người ấy. Bước chân của người đi cát rất khó khăn, như giậm chân tại chỗ "Đi một bước như lùi một bước". Ta thấy được nỗi chán nản, bất mãn của tác giả khi thấy mình hành hạ thân xác để theo đuổi con đường công danh.

"Bãi cát lại bãi cát dài,

Đi một bước như lùi một bước

Mặt trời đã lặn, chưa dừng được,

Lữ khách trên đường nước mắt rơi."

Người đi trên bài cát ở đây lòng ai oán vì con đường công danh của mình mãi chưa tới đích, không đành lòng làm một kẻ "ngủ quên" để có cớ mà rời bỏ đường di.

Không học được tiên ông phép ngủ,

Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!

Xưa nay, phường danh lợi,

Tất cả trên dường đời.

Đầu gió hơi men thơm quán rượu,

Người say vô số, tỉnh bao người?

Tác giả còn nói đến sự cám dỗ của công danh đối với người đời. Nhận định mang tính khái quát về những kẻ ham danh lợi đều phải chạy ngược chạy xuôi, hình ảnh đó được tác giả minh hoạ bằng những hình ảnh thực tế của cuộc sống là ở đâu có quán rượu ngon người nhậu đều đổ xô đến, có được máy ai tỉnh táo để thoát ra khỏi sự cám dỗ của rượu. Từ đó tác giả cũng muốn liên tường đến người đọc vấn đề danh lợi cũng là một thứ rượu dễ làm thay đổi lòng người. Ông khinh bỉ những phường danh lợi tầm thường kia, nhưng cũng nhận ra sự cô độc của mình. Phải chăng, con đường mà ông dấn thân vào, lí tưởng mà ông đeo đuổi, chỉ là điều vô ích, chẳng ai thèm để ý, quan tâm. Ông không có người ủng hộ, đồng hành. Niềm xúc động ấy đã đưa tác giả trở về với hiện thực. Điều này chuẩn bị cho kết luận của ông đó là cần phải thoát ra khỏi cơn say danh lợi vô nghĩa. Nếu đi tiếp thì rất có thể ông cũng chỉ là một trong phường danh lợi mà ông từng khinh miệt, phê phán. Nhưng nếu dừng lại, ông cũng không biết mình sẽ đi đâu. về đâu. Có cả một khối mâu thuẫn đang đè nặng lên tâm hồn của tác giả lúc này. Sự dằn vặt ấy là sự nuối tiếc vì đường đau khổ, mờ mịt nhưng lại quá đẹp đè, cao sang. Thôi thì đành đứng chôn chân trên bãi cát vậy.

Người đi trên cát bỗng nhiên dừng lại.

Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!

Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt,

Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít?

Hãy nghe ta hút khúc "đường cùng",

Phía bắc núi Bắc, núi muốn trùng,

Phía nam núi Nam, sóng dào dạt.

Anh đứng làm chi trên bãi cát?

Nỗi băn khoăn choáng váng lấp đầy tâm hồn. Và lần đầu tiên, người đã phân vân tự hỏi, vậy là thế nào, có nên đi tiếp, hay từ bỏ nó "Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt". Nếu đi tiếp, cũng không biết phải đi như thế nào. Bởi vì, "Đường bằng thì mờ mịt - Đường ghê sợ thì nhiều!" vì thế, có lẽ đã đến bước đường cùng? Nỗi bế tắc và tuyệt vọng phù trùm lên cả người đi, cả bãi cát dài. Người đi chỉ còn có thể cất lên tiếng hát về con đường cùng của mình, về sự tuyệt vọng của mình.

Tóm lại bài thơ "Bài ca ngắn đi trên cát" được thể hiện theo cách đa chiều. Khi thì được miêu tả như một khách thể, khi thì lại như một người đối thoại. Thậm chí tác giả còn cho ẩn chủ thể. Mục đích là nhằm có những tâm trạng khác nhau, thái độ khi đứng trước những hoàn cảnh khác nhau. Nó biểu lộ sự chán ghét của một người trí thức đối với con đường danh lợi và niềm khao khát thay đổi cuộc sống.

4. Phân tích Bài ca ngắn đi trên bãi cát mẫu 3

Cao Bá Quát tự là Chu Thần, hiệu là Cúc Đường, Mãn Hiên, người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc quận Long Biên, Hà Nội). Là người nổi tiếng học giỏi, có tài văn thơ và viết chữ Hán rất đẹp nên Cao Bá Quát được người đời tôn vinh là thánh (Thần Siêu, thánh Quát). Khí phách, bản lĩnh và hoài bão lớn lao của ông vượt khỏi khuôn khổ chật hẹp của chế độ phong kiến.

Cao Bá Quát sống ở giai đoạn nửa đầu thế kĩ XIX, khi nhà Nguyễn đã tiêu diệt Tây Sơn, thiết lập một chính quyền phong kiến chuyên chế hà khắc, sưu cao thuế nặng, không coi trọng tầng lớp trí thức Bắc Hà. Đây là thời kì có nhiều cuộc nổi dậy của nông dân;trong đó có cuộc khởi nghĩa ở Sơn Tây mà Cao Bá Quát đã tham gia. Thơ văn của ông thể hiện thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ và phản ánh nhu cầu đổi mới của xã hội Việt Nam trước nguy cơ bị xâm lược bởi thế lực thực dân phương Tây. Có người cho rằng hình tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân chính là bóng dáng của Cao Bá Quát.

Bài ca ngắn đi trên bãi cát được sáng tác sau những lần Cao Bá Quát vào kinh đô Huế thi hội. Hình ảnh những bãi cát trắng chạy dọc các tỉnh miền Trung khiến tác giả liên tưởng và hình dung ra con đường danh lợi nhọc nhằn đáng ghét mà ông buộc phải theo đuổi, cũng như sự ngột ngạt, bế tắc của xã hội đương thời. Một giả định khác là bài thơ ra đời khi Cao Bá Quát đã làm quan cho triều đình nhà Nguyễn, bắt đầu cảm thấy thất vọng về lí tưởng mà mình theo đuổi bấy lâu nay và âm thầm tìm kiếm một lí tưởng khác đúng đắn hơn.

Nội dung bài thơ phản ánh tình cảnh tù túng, không lối thoát của tầng lớp trí thức trong thời kì khủng hoảng của chế độ phong kiến. Đồng thời thể hiện niềm bi phẫn trước thực trạng xã hội, thái độ khinh bi phường danh lợi và khát khao của những kẻ sĩ chân chính muốn sống một cuộc sống thực sự có ý nghĩa.

Phiên âm chữ Hán của bài thơ như sau:

Trường sa phục trường sa,

Nhất bộ nhất hồi khước.

Nhật nhập hành vị dĩ,

Khách tử lệ giao lạc.

Quân bất học tiên gia mĩ thuỵ ông,

Đăng sơn thiệp thuỷ oán hà cùng!

Cổ lai danh lợi nhân,

Bôn tẩu lộ đố trung.

Phong tiổn tửu điếm hữu mĩ tửu,

Tĩnh giả thường thiểu tuý giả đổng.

Trường sa, trường sa nại cừ hà ?

Thản lộ mang mang uý lộ đả.

Thính ngã nhất xướng cùng đổ ca,

Bắc sơn chi bắc sơn vạn điệp,

Nam sơn chi nam ba vạn cấp,

Quân hổ vi hồ sa thượng lập?

Dịch thơ tiếng Việt:

Bãi cát lại bãi cát dài,

Đi một bước như lùi một bước.

Mặt trời đã lặn, chưa dừng được,

Lữ khách trên đường nước mắt rơi.

Không học được tiên ông phép ngủ,

Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!

Xưa nay, phường danh lợi,

Tất tả trên đường đời.

Đầu gió hơi men thơm quán rượu,

Người say vô số, tỉnh bao người?

Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!

Tính sao đây ? Đường bằng mờ mịt,

Đường ghê sợ còn nhiểu, đâu ít?

Hãy nghe ta hát khúc "đường cùng",

Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng,

Phía nam núi Nam, sóng dào dạt Anh đứng làm chi trên bãi cát?

Chủ đề bài thơ được tác giả thể hiện qua ba hình ảnh: bãi cát dài, con đường đi trên bãi cát và người đi trên bãi cát.

Bài thơ vẽ ra trước mắt người đọc hình ảnh bãi cát dài mênh mông không có điểm dừng, gợi ra một con đường bất tận, mờ mịt: Bãi cát lại bãi cát dài; ... Bãi cát dài, bãi cát dài ơi. Hình ảnh bãi cát dài có ý nghĩa nghệ thuật độc đáo vì nó mang tính sáng tạo, không vay mượn từ văn học Trung Quốc như nhiều hình tượng thơ khác mà được lấy từ hiện thực là những cồn cát trẳng hoang vu, rợn ngợp mà tác giả đã từng vượt qua nhiều lần trên con đường vào kinh ứng thí. Dải đất miền Trung, đặc biệt là hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị bề ngang rất hẹp, phía Tây là dãy Trường Sơn, phía Đông là biển. Trước mắt người đi chi thấy cát, núi và sóng biển mà thôi.

Cùng với hình ảnh bãi cát dài là hình ảnh những con đường: Đường bằng mờ mịt, Đường ghê sợ, đường cùng. Hai câu thơ: Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng, Phía nam núi Nam, sóng dào dạt vừa là hình ảnh thực, vừa mang ý nghĩa tượng trưng cho đường đời đầy gian nan, thử thách.

Tác giả cảm nhận rằng con đường vượt bãi cát dài có những nét tương đồng với con đường công danh khoa cử nhọc nhằn, thất bại thì nhiều, thành công thì ít, nhưng đã lỡ bước vào nên không biết tính sao đây?

Bản thân Cao Bá Quát đã nếm trải đủ mùi cay đắng của việc thi cử. Đi thi từ năm 13 tuổi (1822), đến lần thứ tư (1831) mới đậu cử nhân, lại bị đánh tụt xuống tận chót bảng. Sau đó ông còn lận đận thêm ba lần thi Hội nữa mà vẫn không đỗ. Ngay khi bước chân lên con đường danh lợi gắn với lí tưởng của tầng lớp Nho sĩ trong xã hội phong kiến, nhà thơ đã nhận thấy sự bế tắc và mâu thuẫn không giải quyết nổi. Nên đi tiếp hay dừng lại ? Dừng lại cũng không thể được. Còn đi tiếp thì không biết sẽ dẫn đến đâu ?

Hình ảnh con người đì trên bãi cát dài thật nhỏ bé và vất vả;

Đi một bước như lùi một bước.

Mặt trời đã lặn, chưa dừng được,

Lữ khách trên đường nước mất rơi.

Người đi đường có nhiều loại, mỗi loại mang một tâm trạng khác nhau. Vô số kẻ say vì men thơm quán rượu thoảng từ đầu gió. Phải chăng hơi men thơm tượng trưng cho sự lôi cuốn, dẫn dụ ghê gớm của công danh?! Trước ma lực ấy, liệu mấy người còn giữ được sự tỉnh táo, sáng suốt?!

Không học được tiên ồng phép ngủ,

Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!

Xưa nay, phường danh lợi,

Tất tả trên đường đời.

Đầu gió hơi men thơm quán rượu,

Người say vồ số, tĩnh bao người?

Câu thơ thấm đẫm cảm xúc tự oán. Nhà thơ chán nản vì nhận ra rằng mình đã tự hành hạ thân xác bằng cách theo đuổi công danh. Tại sao mình đã biết con đường công danh là gian nan, mờ mịt, là đường cùng mà vẫn phải cố từng bước, từng bước dấn thân, nhưng càng đi lại càng như thụt lùi. Theo điển tích về "phép ngủ" của tiên ông trong sách Thần tiên thập dị thì Hạ Hầu Ấn lúc leo núi hay lội nước vẫn cứ nhắm mắt ngủ say. Người bên cạnh nghe thấy tiếng ngáy mà ông vẫn bước đều không hề trượt vấp. Vì thế nên thiên hạ mới gọi ông là tiên ngủ. Cao Bá Quát ước ao có được phép ngũ như tiên ông, sống mà không nhìn thấy, nghe thấy gì hết trong cuộc đời.

Những câu thơ tiếp theo phần nào giải thích lí do vì sao người ta cứ phải trèo non, lội suối. Đó chính là do cái bả công danh cám dỗ. Những kẻ ham danh lợi xưa nay đều tất tả chạy ngược chạy xuôi, cũng giống như người đời thấy quán rượu ngon ở đâu là tranh nhau đổ xô đến, mấy ai tỉnh táo để thoát khỏi sự cám dỗ của rượu. Danh lợi cũng là một thứ rượu mê hoặc con người. Cao Bá Quát tỏ thái độ khinh rẻ phường danh lợi chi biết say sưa với bả vinh hoa phú quý và ông bắt đầu cảm thấy sẽ là vô nghĩa nếu vẫn tiếp tục đi trên con đựờng ấy. Những câu thơ chất chứa tâm trạng day dứt, băn khoăn: nên đi tiếp hay từ bỏ ? Mà câu trả lời thì không dễ dàng gì. Nhà thơ nhận rõ sự vô nghĩa của con đường công danh khoa cử trong hoàn cảnh thực tại, nhưng nếu đi tiếp thì sẽ phải đi như thế nào đây?

Người đi trên bãi cát dài bỗng nhiên dừng lại. Nỗi chán ngán, tuyệt vọng choán đầy tâm hồn bởi vì: Đường bằng mờ mịt, Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít? Có lẽ đã đến bước đường cùng? Nếu không đi tiếp thì đi đâu?! Tâm trạng bế tắc và tuyệt vọng bao phủ lên cả người đi, cả bãi cát dài. Bức xúc đến thế thì người đi chĩ còn cách là cất lên tiếng hát buồn thảm về con đường cùng của mình:

Hãy nghe ta hát khúc "đường cùng",

Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng,

Phía nam núi Nam, sóng dào dạt Anh đứng làm chi trên bãi cát?

Tâm trạng của tác giả khi đi trên bãi cát dài là nhận thức rõ con đường danh lợi đầy nhọc nhằn chông gai, cần phải thoát ra khỏi bãi cát cuộc đời ấy nhưng chưa thể tìm được một con đường nào khác. Người đi trên bãi cảt dài tự thấy sự vô nghĩa trong hành động của mình và ngao ngán đến cực độ: Bãi cát dài bãi cát dài ơi. Tỉnh sao đây đường bằng mờ mịt... và tự hỏi: Anh đứng làm chi trên bãi cát đó là cái cảm giác bất lực, tuyệt vọng, đành đứng chôn chân trôn bãi cát, chịu một khối mâu thuẫn lớn đè nặng lên tâm hồn. Hình tượng người lữ hành ấy vừa cô độc, vừa cả quyết lại vừa tuyệt vọng trên con đường đi tìm chân lí gian truân, mờ mịt. Tâm trạng phức tạp của nhân vật dự báo một hành động bứt phá, một sự phản kháng âm thầm với trật tự hiện hành. Tư tưởng tiến bộ của Cao Bá Quát thể hiện ở cho ông đã nhận rõ tính chất vô nghĩa của lối học khoa cử và con đường tiến thân theo lề lối cũ.

Trong bài thơ, tác giả đã đặt mình ở nhiều vị trí khác nhau để bộc lộ tâm trạng và đối thoại với chính mình. Cao Bá Quát sử dụng nhiều đại từ xưng hô khác nhau, Có khi ông dùng từ khách (khách là một danh từ đối lập với chủ), có khi lại dùng từ quân (anh, ông - đại từ nhân xưng ngôi thứ hai số ít), có chỗ lại dùng từ ngã (tôi, ta - đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất số ít). Tuy nhiên, tất cả đều để chi bản thần tác giả. Khi gọi là khách, nhà thơ nhìn mình như nhìn một người khác. Khi gọi là anh, nhà thơ như đối thoại với mình. Khi xưng ta, tác giả muốn trực tiếp thổ lộ tâm sự. Các cách xưng hô trên đều thể hiện thái độ trăn trở, bức xúc của nhà thơ trên con đường tạo lập công danh, sự nghiệp.

Vậy là hình tượng người đi trên bãi cát dài được tác giả thể hiện không đơn nhất mà đa chiều. Khi thì được miêu tả như một khách thể, khi lại như một người đối thoại, khi lại như một chủ thể tự thể hiện. Thậm chí có khi tác giả cho chủ thể ẩn đi. Mục đích là nhằm bày tỏ những tâm trạng, thái độ khác nhau, trước những hoàn cảnh khác nhau.

Nội dung Bài ca ngắn đi trên bãi cát phần nào lí giải nguyên nhân tại sao Cao Bá Quát đã đứng về phía nông dân khởi nghĩa chống lại triều đình phong kiến nhà Nguyễn.

Trước hết, bài thơ cho thấy thái độ chán ghét danh lợi và nhận thức đúng đắn của tác giả về sự bế tắc của lối học hành khoa cử theo kiểu cũ. Diễn biến tâm trạng của tác giả là từ băn khoăn, phân vân đến gay gắt tự hỏi: Anh đứng làm chi trên bãi cát.

Bài thơ là tâm sự chân thành của một kẻ sĩ có tầm tư tưởng lớn, ý thức rất rõ vể sự trì trệ, bế tắc của thời đại. Đây cũng là cảm giác thất vọng của tác giả trước lí tưởng mà mình tôn thờ. Sự bế tắc, tuyệt vọng trước đường cùng đã được đẩy đến đỉnh điểm.

Cao Bá Quát đã thể hiện những mâu thuẫn sâu sắc trong tư tưởng của bản thân và của xã hội đương thời một cách nghệ thuật. Đó là mâu thuẫn giữa khát vọng sống cao đẹp với hiện thực đen tối; giữa tinh thần dám xả thân của một kẻ sĩ chân chính với thói cẩu an hưởng lạc của người đời giữa lí tưởng phò vua giúp nước của một đấng nam nhi với những khó khăn gian khổ khó vượt qua trên con đường tiến thân.

Bài ca còn thể hiện cảm xúc bi phẫn và cảm quan nhạy bén của Cao Bá Quát về một thời đại đen tối, đầy nghịch cảnh đối với những bậc trí thức tài hoa; đồng thời đánh dấu sự thức tĩnh của một số kẻ sĩ trước con đường công danh truyền thống. Phải chăng điều đó đã gợi cho chúng ta một suy nghĩ và nhận xét: xã hội phong kiến đương thời không thể dung nạp được lí tưởng của Cao Bá Quát. Con người ấy nhất định không chịu đứng chôn chân trên bãi cát mà đang nung nấu thái độ phản kháng âm thầm nhưng quyết liệt với trật tự hiện hành. Cao Bá Quát đã nhận thấy cần phải làm một việc gì đó lớn lao hơn, có ích cho đời hơn. Đó cũng là lí do đưa ông đến với cuộc khởi nghĩa của nông dân, chọn con đường phản kháng chống lại triều đình nhà Nguyễn, để rồi cuối cùng phải chịu kết thúc bi thảm.

Bài thơ đứợc viết theo thể hành, khá tự do về kết cấu, vần và nhịp điệu. Các câu thơ dài ngắn khác nhau (câu 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ), nhịp ngắt của mỗi câu thơ cũng đa dạng phù hợp với việc phản ánh tâm trạng phức tạp đầy băn khoăn, dạy dứt của người đi trên bãi cát dài (nhịp 2/3 : Trường sa / phục trường sa; nhịp 3/5: Quàn bất học / tiên gia mĩ thụy ông nhip 4/3: Phong tiền tửu điếm / hữu mĩ tửu). Nhiều câu có ngữ điệu cảm thán: (Đăng sơn thiệp thủy oán hà cùng), ngữ điệu hỏi: (Trường sa, trường sa nại cừ hà? Quân hồ vi hồ sa thượng lập?).

Nhịp điệu của Bài ca ngắn đi trên cát là nhịp gập ghểnh, trúc trắc của những bước đi khó nhọc trên bãi cát dài, trên con đường công danh khoa cử gian nan, vất vả và đáng chán. Đặc biệt, câu thơ cuối cùng là một câu hỏi day dứt và ám ảnh. Lời ca mang âm hưởng u buồn, ngầm chứa thái độ phản kháng của tác giả đối với trật tự xã hội hiện hành và cảnh báo sự đổi thay tất yếu trong tương lai.

5. Phân tích Bài ca ngắn đi trên bãi cát mẫu 4

Cao Bá Quát xưa nay nổi tiếng vì thơ hay, chữ đẹp, càng nổi tiếng hơn vì tư tưởng tự do, phóng khoáng, bản lĩnh kiên cường trước cường quyền, vì lối sống thanh cao mạnh mẽ. Người đời thường ca ngợi ông: Văn như Siêu Quát vô tiền hán. Một trong những tác phẩm hay nhất mà gửi gắm tư tưởng, ý chí của Cao Bá Quát đó chính là bài Sa hành đoản ca.

Mở đầu bài thơ, mở ra hình ảnh không gian mênh mông, hoang vắng đến rợn ngợp:

"Bãi cát dài, lại bãi cát dài ơi

Đi một bước như lùi một bước

Mặt trời đã lặn chưa dừng được

Lữ khách trên đường ngước mắt rơi."

Người đi đường vất vả, trầy trật đi trên con đường cát cô đơn, mệt mỏi. Giữa thiên nhiên rộng lớn, hoang vu hình ảnh con người hiện lên nhỏ bé, cô đơn, đầy mệt nhọc. Hình ảnh bãi cát dài ấy là biểu tượng cho con đường công danh, sự nghiệp mà chính ông và bao nho sĩ đương thời tất tả theo đuổi, nhưng không phải ai cũng thành công và mỗi bước đi đều gặp sóng gió, cô đơn, khắc nghiệt: Lữ khách trên đường nước mắt rơi.

Sang đến những câu thơ tiếp theo, tác giả tiếp tục bộc lộ tâm sự u uất của mình:

"Không học được tiên ông phép ngủ

Trèo non lội suối giận khôn vơi."

Tác giả tự cảm thấy giận mình vì không có khả năng như người xưa, thờ ơ trước sự đời mà phải tự mình hành hạ mình trên con đường hoạn lộ. Từ đó, hé mở một tâm hồn thanh cao, có hoài bão, hùng tâm tráng chí, quyết không để mình trở thành kẻ nhàn rỗi, hèn hạ.

"Xưa nay phường danh lợi

Tất tả trên đường đời

Đầu gió hơi men say quán rượu

Kẻ say vô số tỉnh bao người."

Từ chuyện danh lợi, tác giả nhận ra được rằng con đường mưu cầu công danh đã bị gắn liền với danh lợi, và lòng tham làm mờ mắt, làm say sưa vô số kẻ, đánh mất đi tâm hồn thanh khiết, cao đẹp của chính mình, bị bùa bả công danh làm cho mê hoặc. Cũng chính vì lẽ đó, người đi đường càng cảm thấy buồn, cô đơn hơn khi không có ai cùng mình đi trên con đường dài đầy mù mịt. Sự bế tắc trào ra dâng lên trong lòng thi sĩ khúc ca đường cùng đầy bi phẫn:

"Hãy nghe ta hát khúc đường cùng

Phía Bắc núi Bắc núi muôn trùng

Phía nam núi Nam sóng dào dạt

Anh đứng làm chi trên bãi cát."

Khúc đường cùng, khúc cuồng ca bi phẫn tuyệt vọng. Thất vọng nhưng không đẻ thói đời đê mạt, đó là hình ảnh người đi đường trong khổ thơ kết. Câu hỏi cuối bài là câu hỏi đầy đau đớn, nhức nhối, hỏi chính lòng mình.

Bài ca thể hiện niềm thất vọng, bi phẫn của nhà thơ trước đường đời trắc trở và bế tắc vô vọng, phản ánh cảm quan của CBQ về một thời đại đen tối lúc bấy giờ. Bằng cách xây dựng hình tượng đặc sắc, ngôn ngữ hàm súc, giàu sức gợi, bài ca ngắn đi trên bãi cát thực sự đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

6. Phân tích Bài ca ngắn đi trên bãi cát mẫu 5

Cao Bá Quát là một trong những nhà thơ nổi tiếng bậc nhất nhà Nguyễn. Có tính cách cứng cỏi và tính tình phóng túng nên sau một thời gian làm quan, bất bình với triều đình về nhiều mặt, ông tham gia phong trào nông dân khởi nghĩa Lê Duy Cự, bị tử trận.

Thơ văn ông còn hơn một ngàn bài, nội dung thể hiện sự đồng cảm với người lao khổ, có cái nhìn tiến bộ và phê phán mạnh mẽ công việc triều chính đương thời. Bên cạnh các nội dung trên, ông còn một số bài hát nói, bài thơ nói lên tâm sự của mình, vừa có tính trữ tình, vừa có chiều sâu tư tưởng. Trong số đó, Sa hành đoản ca (Bài ca ngắn đi trên bãi cát) mang âm điệu u buồn, chứa đựng một sự phản kháng âm thầm đối với trật tự hiện hành, vừa thể hiện nỗi thất vọng và niềm bi phẫn của nhà thơ.

Năm 1831, Cao Bá Quát thi đậu cử nhân tại trường thi Hà Nội. Để thi tiến sĩ thì phải vào kinh đô Huế. Do vậy có thể ông đã ba lần đi Huế để thi Hội nhưng đều hỏng. Hành trình từ Hà Nội vào Huế qua nhiều tỉnh miền Trung - những vùng có nhiều bãi cát trắng mênh mông. Hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị đất hẹp, một phía là dãy Trường Sơn, một phía là biển Đông. Hình ảnh bãi cát dài có thể gợi lại những cồn cát mênh mông mà tác giả đã đi qua.

Đi trên cát đã khó, xét về không gian thì đường xa, xung quanh lại bị vây bởi núi, sông, biển; xét về thời gian thì mặt trời đã lặn mất mà vẫn phải tất tả vội vàng bước đi. Đây không chỉ là hình ảnh tả thực mà còn là hình ảnh tượng trưng cho đường đời bế tắc. Bế tắc về con đường đời, con đường công danh nhọc nhằn của tác giả và của biết bao trí thức đương thời. Cùng với bãi cát dài là hình ảnh con đường cùng. Đó là hình ảnh đường ghê sợ, đường cùng:

(Thản lộ mang mang úy lộ đa

Thính ngã nhất xướng cùng đồ ca

Bắc sơn chi Bắc, sơn vạn điệp

Nam sơn chi nam, ba vạn cấp)

Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít

Hãy nghe ta hát khúc "đường cùng",

Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng,

Phía nam núi Nam, sóng dào dạt.

Hình ảnh con đường cùng cũng là hình ảnh tượng trưng cho đường đời không lối thoát. Nếu đi tiếp cũng không biết phải đi như thế nào. Có lẽ ta đã đến bước đường cùng! Hình ảnh người đi đường trong bài thơ thật khốn khổ: Đi một bước như lùi một bước - Mặt trời đã lặn, chưa dừng được - Lữ khách trên đường nước mắt rơi.

Người đi đường có nhiều loại, có phường danh lợi - Tất tả trên đường đời, vô số người say vì hơi men., còn loại người tỉnh thì rất ít. Nhà thơ bắt đầu oán thán: Không học được tiên ông phép ngủ - Trèo non, lội suối, giận khôn vơi! Bãi cát dài, bãi cát dài ai! - Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt - Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít? Ông khinh phường danh lợi chỉ biết say sưa với bả vinh hoa phú quý và ông bắt đầu có suy nghĩ khác, cảm thấy sẽ là vô nghĩa nếu vẫn tiếp tục đi trên con đường ấy.

(Quân đồ vi hồ sa thượng lập?)

Anh đứng làm chi trên bãi cát?

Người đi trên bãi cát dài bỗng nhiên dừng lại. Nỗi băn khoăn choán đầy tâm hồn. Lần đầu tiên, người ấy đã phân vân tự hỏi, vậy là thế nào, có nên đi tiếp, hay từ bỏ nó, Tính sao đây? Bởi vì, Đường bằng thì mà mịt - Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít? Nếu không đi tiếp thì đi đâu? Nỗi bế tắc và tuyệt vọng phủ trùm lên cả người đi, cả bãi cát dài. Người đi chỉ còn có thể cất lên tiếng hát về con đường cùng của mình, về sự tuyệt vọng của mình.

Bài ca đã khắc họa hình ảnh người đi đường cô độc, nhỏ nhoi nhưng mạnh mẽ, vừa quả quyết vừa tuyệt vọng trên con đường đầy gian truân, mờ mịt. Lời ca có những âm thanh bi tráng, vừa mang âm điệu u buồn, như chứa đựng sự phản kháng âm thầm đối với trật tự hiện hành, cảnh báo một sự đổi thay tất yếu trong tương lai.

Lời ca còn thể hiện niềm thất vọng và bi phẫn của nhà thơ trước đường đời trắc trở và bế tắc, vô vọng, phản ánh cảm quan của Cao Bá Quát về một thời đại đen tối, đầy ghê sợ đối với những người trí thức tài hoa, đánh dấu sự thức tỉnh của một số trí thức trước con đường công danh truyền thống. Phải chăng sự thức tỉnh ấy đã khiến Cao Bá Quát chọn con đường phản kháng chống lại triều đình để rồi nhận một kết thúc bi thảm?

Nhà thơ sử dụng các đại từ xưng hô khác nhau như khách (người khách - một danh từ đối lập với chủ), quân (anh, ông - đại từ nhân xưng ngôi thứ hai số ít), ngã (tôi, ta - đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất số ít). Tất cả đều chỉ bản thân tác giả. Khi gọi là khách, nhà thơ nhìn mình như một người khác. Khi gọi là anh, nhà thơ như đối thoại với mình. Khi xưng ta, tác giả muốn trực tiếp thổ lộ. Các cách xưng hô thể hiện thái độ trăn trở, bức xúc trên con đường công danh sự nghiệp. Đồng thời, nhiều câu hỏi, câu cảm thán cũng được sử dụng, nêu những thất vọng, bi phẫn, cũng như những mâu thuẫn nội tâm của nhà thơ.

Như vậy, hình tượng người đi trên bãi cát dài được tác giả thể hiện không đơn nhất mà đa chiều. Khi thi miêu tả như một khách thể, khi lại như một người đối thoại, lúc lại như một chủ thể tự thể hiện. Thậm chí có khi là chủ thể ẩn. Tất cả nhằm trình bày những tâm trạng, thái độ khác nhau khi đứng trước những hoàn cảnh khác nhau.

Bài ca ngắn đi trên bãi cát thể hiện tâm trạng bi phẫn của kẻ sĩ trước đường đời bế tắc, hiểm trở, mù mịt, phản ánh một xã hội đen tối, đầy hiểm họa đối với người tài hoa, đánh dấu sự thức tỉnh, nhìn lại con đường công danh truyền thống. Nghệ thuật bài thơ có nhiều nét mới: nhiều cách xưng hô, nhiều câu cảm thán, câu hỏi thể hiện nỗi day dứt, dằn vặt khôn nguôi của người trí thức...

Trên đây VnDoc.com vừa giới thiệu tới các bạn Phân tích bài thơ Bài ca ngắn đi trên bãi cát, mong rằng qua bài viết này các bạn có thể học tập tốt hơn môn Ngữ văn 11 nhé. Mời các bạn cùng tham khảo thêm các môn Toán 11, tiếng Anh 11, đề thi học kì 1 lớp 11, đề thi học kì 2 lớp 11...

Để giúp bạn đọc có thể thuận tiện hơn trong việc chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm tài liệu học tập cũng như giảng dạy, VnDoc.com mời bạn đọc cùng tham gia nhóm Tài liệu học tập lớp 11 để có thêm tài liệu học tập nhé

Chia sẻ, đánh giá bài viết
1
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Ngữ văn lớp 11

    Xem thêm