Phân tích cảnh hạ huyệt cụ cố tổ trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
Phân tích cảnh hạ huyệt cụ cố tổ
Văn mẫu lớp 11: Phân tích cảnh hạ huyệt cụ cố tổ trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia gồm các bài văn mẫu hay cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.
1. Dàn ý phân tích cảnh hạ huyệt cụ cố tổ
I. Mở bài: Giới thiệu cảnh hạ huyệt trong Hạnh phúc của một tang gia.
Ví dụ:
Vũ Trọng Phụng là một nhà văn nổi tiếng, xuất sắc trong nền văn học của Việt Nam. Đa số các tác phẩm của ông nói về các mảnh đời bất hạnh trong cuộc sống hay phê phán những lối sống lệch lạc của con người. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông đó là Số đỏ, trong chương trình học phổ thông chúng ta được học một đoạn trích mang tên Hạnh phúc của một tang gia. Đoạn trích phê phán lối sống lệch lạc và đua đòi của một gia đình, nổi bật hiện lên trong đoạn trích là cảnh hạ huyệt, chúng ta cùng đi tìm hiểu cảnh này trong đoạn trích.
II. Thân bài: Phân tích cảnh hạ huyệt trong Hạnh phúc của một tang gia.
1. Nêu sơ lược về đoạn trích:
- Đoạn trích nói về một gia đình dòng tộc nhưng bị suy thoái đạo đức
- Mọi người trong gia đình lợi dụng cái chết của cụ cố tổ để thể hiện bản thân mình
- Sự chạy theo điều mới mẻ, văn minh đã đánh mất bản chất con người trong họ
2. Những con người trong cảnh hạ huyệt
- Cậu Tú Tân: được dịp tài nghệ chụp ảnh với cái máy ảnh
- Cụ Hồng: giả vờ ho khạc mếu máo, ngất đi, thể hiện sự ốm yếu
- Ông Phán mọc sừng: khóc to, suýt ngã, dúi vào tay Xuân đồng bạc, sự giả dối
- Xuân: đỡ ông Phán mọc sừng, giả bộ đau buồn.
3. Ý nghĩa về cảnh hạ huyệt:
- Thể hiện rõ sự bất hiếu của lũ con cháu
- Phê phán hiện thực xã hội
III. Kết bài: Nêu cảm nhận của em về cảnh hạ huyệt trong Hạnh phúc của một tang gia trích Số đỏ
Ví dụ:
Cảnh hạ huyệt đã thể hiện rõ tâm đồ và sự bất hiếu của những đứa con, đứa cháu, sự suy thoái đạo đức của con người.
2. Phân tích cảnh hạ huyệt cụ cố tổ trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia mẫu 1
Chương XV của tác phẩm với tiêu đề Hạnh phúc của một tang gia - miêu tả đám tang cụ cố tổ, giống như một chuỗi cười dài, một cuộc đưa tiễn tập thể, cuộc hành trình tới mộ của cả xã hội, cái xã hội tư sản thành thị Âu hóa rởm, văn minh rởm hết sức lố lăng, đồi bại đang hiện diện ở Việt Nam những năm 30 - 45 của thế kỉ XX. Mỗi tình huống truyện, mỗi nhân vật cứ tự nhiên làm bật ra tiếng cười. Tiếng cười mang nhiều sắc độ, liên tục không dứt. Nó kéo dài trong suốt thời gian đám tang, suốt cuộc hành trình đưa tiễn...
Đọc tên chương - Nguyên văn trong tác phẩm là: Hạnh phúc của một tang gia - một cái đám ma gương mẫu... chúng ta không khỏi bật cười bởi cách thông báo hóm hỉnh của nhà văn. Nội dung sự việc là một việc đau đớn, bất hạnh. Vậy mà tang gia lại có hạnh phúc! Việc tang là nghi lễ thiêng liêng, cần trang trọng, vậy mà ngôn từ dành cho cái việc đại hiếu của một gia đình như gia đình cụ cố Hồng lại hỗn độn, pha trộn tùy tiện chữ Hán, chữ Nôm, nào hạnh phúc, nào tang gia, nào văn minh, gương mẫu, cứ như chuyện đùa, chuyện vui vậy! Cái sự đùa vui ấy mở màn cho vở hài kịch mà trên sân khấu hiện thật rõ hai trạng huống nực cười: đám tang nhưng không phải là đám tang, nó là một đám.... rước. Có người nhưng không phải là con người mà là.... những hình nhân dị dạng, những quái vật.
Sau thời gian bối rối theo lẽ thường tình của một nhà có việc tang, khi ba người quan trọng nhất - ông cố Hồng, bà vợ và Văn Minh từ trên gác xuống dưới nhà cắt đặt mọi việc, thì cái gia đình có đại tang đó bừng lên một ngày hội. Lúc đưa đám thì cả bàn dân thiên hạ ở phố phường, ai cũng thấy đám ma được tổ chức linh đình, đủ kiểu cách, lễ nghi theo cả lối ta, Tây, Tàu. Đám ma đưa đến đâu làm huyên náo đến đấy. Cả thành phố nhốn nháo... Kèn ta, kèn Tây, kèn Tàu lần lượt thay nhau mà rộn lên. Tiếng khóc của những người trong tang gia xen lẫn tiếng thì thầm về chuyện vợ con, nhà cửa, may áo, sắm tủ, hoặc những tiếng nói thì thào của bọn đàn ông bình phẩm sắc đẹp của các cô gái, than thở việc vợ béo, chồng gầy. Vậy đấy, trên cái sân khấu hài hước, người đọc thấy được một khung cảnh pha tạp, hỗn độn, đồ vật và con người hỗn độn, âm thanh và màu sắc hỗn độn, việc vĩnh biệt một con người là việc đùa vui, tiếng khóc của nhiều người cũng hỗn độn. Đám rước mà như ở hội chợ. Đám tang hay đám rước? Bởi vì, như tác giả kể: Đám cứ đi rồi lại Đám cứ đi. Những lời văn bỡn cợt, lơ lửng, hóm hỉnh, chua chát. Và ông nhận xét: Thật đúng là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu.
Đỉnh cao màn kịch trào phúng của đám mà thì cảnh hạ huyệt lại là cao trào tập trung những mâu thuẫn đáng cười nhất. Tú Tân xuất hiện như nhà đạo diễn cuốn phim hài kiêm quay phim nhiếp ảnh, cùng bạn bè rầm rộ nhảy lên nhưng ngôi mả như muốn đánh thức những linh hồn chết kia trở dậy để chứng kiến đám tang linh đình về người ông của hắn. Hắn bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy hoặc gục đầu hoặc cong lưng... cho đúng mốt hoặc lau mắt như thế này, như thế nọ... hợp thời trang để làm nên những tấm ảnh giả về cái chết thật và những tấm ảnh thật về cái chết của nhân tính.
Chất bi hài của cảnh khiến người đọc cười ra nước mắt. Chỉ có một tiếng khóc lớn nhất bật lên là của ông Phán mọc sừng, ông oặt người đi, khóc mãi không thôi và tiếng khóc của ông thật đặc biệt. Nhưng thực ra đó là tiếng khóc nhằm che giấu nụ cười nên không ra khóc mà cùng chẳng ra cười. Cuối cùng chỉ là những âm thanh méo mó: Hứt! Hứt! Hứt!... Ông thương cho người đã khuất chăng? Không phải! Ông đang đóng kịch trước mắt mọi người. Thực ra ông ta rất mừng vì cụ Tổ chết và ông được chia phần khá nhiều, kể cả cái giá của bộ sừng mà vợ ông đã cắm lên đầu ông. Miệng khóc, tay ông dúi nhanh vào tay Xuân Tóc Đỏ tờ bạc năm đồng gấp làm tư để trả công cho hắn đã gọi ông là Phán mọc sừng trước người nhà vợ. Và cũng nhờ đó mà ông có thêm được món tiền lớn.
Đám ma trong Hạnh phúc của một tang gia của Vũ Trọng Phụng là đám ma có một không hai không chỉ nó to nhất Hà thành xưa nay mà vì những diễn biến của đám tang đó, những màn kịch đã xuất hiện. Ta như có cảm tưởng Vũ Trọng Phụng đang chứng kiến cái đám tang đó và tường thuật lại cho người đọc một cách chi tiết về nó với một nụ cười châm biếm mỉa mai. Ngòi bút Vũ Trọng Phụng đúng là sắc như dao. Đằng sau những lời nói như đùa, sự thật của đời sống cứ hiện ra lồ lộ trên đó nói lên hai điều lớn nhất: sự tàn nhẫn và sự dối trá.
3. Phân tích cảnh hạ huyệt cụ cố tổ trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia mẫu 2
(1) Đến huyệt, lúc hạ quan tài, cậu tú Tân luộm thuộm trong chiếc áo thụng trắng đã bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng, hoặc lau mắt như thế này, như thế nọ... để cậu chụp ảnh kỉ niệm lúc hạ huyệt. Bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mả khác mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau.
(2) Xuân Tóc Đỏ đứng cầm mũ nghiêm trang một chỗ, bên cạnh ông Phán mọc sừng. Lúc cụ Hồng ho khạc mếu máo và ngất đi, thì ông này cũng khóc to "Hứt!... Hứt!... Hứt! Ai cũng để ý đến ông cháu rể quý hoá ấy. Ông ta khóc quá, muốn lặng đi thì may có Xuân đỡ khỏi ngã. Nó chật vật mãi cũng không làm sao cho ông đứng hẳn lên được. Dưới cái khăn trắng to tướng, cái áo thụng trắng loè xoè, ông Phán cứ oặt người đi, khóc mãi không thôi: "Hứt!... Hứt!... Hứt!...".
(3) Ông Phán dúi vào tay nó một cái giấy bạc năm đồng gấp tư... Nó nắm tay cho khỏi có người nom thấy, rồi đi tìm sư cụ Tăng Phú lạc trong đám ba trăm người đương buồn rầu và đau đớn về những điều sơ suất của khổ chủ.
Với chi tiết (1), cần làm rõ tác dụng của bút pháp tự sự kết hợp với miêu tả, sử dụng biện pháp liệt kê, cách sử dụng các từ láy như luộm thuộm, rầm rộ,... để làm nổi bật hình ảnh cậu tú Tân và đám con cháu của cụ cố tổ trong giây phút hạ huyệt. Thông thường vào giây phút "tử biệt sinh li" ấy, đám con cháu của người chết khóc than để bày tỏ niềm thương tiếc đối với người đã mất, nhưng ở đây đám con cháu ấy lại giả vờ đau khổ, tiếc thương khi cố tình "tạo dáng" để chụp ảnh. Không những thế, đám bạn của cậu tú Tân còn "rầm rộ nhảy lên những ngôi mả khác mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau" (trong khi đó, việc nhảy hay trèo lên mồ mả là việc cấm kị). Tất cả những việc làm đó thể hiện thói giả nhân giả nghĩa của lũ con cháu bất hiếu.
Với chi tiết (2), học sinh nên tập trung phân tích hình ảnh ông Phán mọc sừng. Với giọng điệu "cảm thông", dưới ngòi bút của Vũ Trọng Phụng, tiếng khóc của ông Phán rất lạ, có một không hai và chưa từng có từ trước đến nay. Khi ông ta khóc, những âm thanh vô nghĩa bật ra khiến người nghe chẳng những không cảm thấy bùi ngùi và cảm động mà còn thấy buồn cười. Và chắc chắn, tiếng khóc đó không đi kèm với những giọt nước mắt tiếc thương người quá cố. Nó như là tiếng khóc sung sướng (bởi cụ cố tổ mất đi đã mang lại hạnh phúc cho cả một tang gia), nó khiến cho ông Phán "muốn lặng đi", "cứ oặt người đi" vì sung sướng. Và tiếng khóc ấy cũng như muốn gây sự chú ý đối với mọi người - bởi ai cũng biết để "tang gia" có được niềm "hạnh phúc" này, công của ông Phán mọc sừng là rất lớn.
Với chi tiết (3), Vũ Trọng Phụng tiếp tục đẩy mâu thuẫn trào phúng của đoạn trích lên đến đỉnh điểm. Nếu như ở chi tiết (2), ông Phán còn "khóc quá", "muốn lặng đi", "cứ oặt người đi" để gây sự chú ý của mọi người thì đến chi tiết này, ta không còn thấy "dáng điệu đau đớn" ấy của ông ta nữa. Thay vào đó là hành động trả ơn kịp thời đối với người có công mang lại "hạnh phúc" cho "tang gia" - Xuân Tóc Đỏ. Hành động "dúi" "cái giấy bạc năm đồng gấp tư" vào tay Xuân Tóc Đỏ cho thấy việc làm tưởng như sòng phẳng song rất mờ ám, đồi bại của ông Phán. Nhưng Xuân Tóc Đỏ cũng đồi bại không kém khi hắn "nắm tay cho khỏi có người nom thấy". Hắn đã được ông Phán dây thép thanh toán thêm một khoản tiền trong "phi vụ làm ăn" với ông này và để qua đám tang cụ tổ mà càng thêm danh tiếng: "Ông cụ già chết, danh dự của Xuân càng to thêm".
Tóm lại, chỉ bằng những chi tiết trào phúng, Vũ Trọng Phụng đã chộp được những khoảnh khắc rất "thần", qua đó bộc lộ được đúng bản chất giả dối, bất nhân bất nghĩa của những người tham gia đám tang cụ cố tổ, trong đó nhà văn chĩa ống kính của mình vào những đứa con, đứa cháu bất hiếu của cụ để thấy "hạnh phúc của tang gia" và cả những người ngoài tang quyến đã được trọn vẹn. Và khi đó, tiếng cười trào phúng được bật lên sảng khoái nhất nhưng cũng đau đớn nhất.
4. Phân tích cảnh hạ huyệt cụ cố tổ trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia mẫu 3
Khi tang lễ diễn ra ở một nơi nào đó, không cần biết đó là đám tang của ai, được tổ chức to hay nhỏ, đông hay vắng, nhưng một điều có thể khẳng định đó là một nỗi đau thương tan tóc bao trùm lên đám tang ấy đặc biệt là đối với thân nhân người đã khuất sau đó là đến tới những họ hàng, anh em, bạn bè đến đưa tiễn. Nhưng nghịch lí hoàn toàn xảy ra ở đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” của Vũ Trọng Phụng. Đám tang cụ cố tổ không những không có một chút đau đớn thực tâm nào mà còn là hạnh phúc của không biết bao nhiêu người đông thời còn nực cười cho thiên hạ. Mà điều đáng cho người ta cười ra nước mắt nhất chính là cảnh hạ huyệt cuối đoạn trích.
Trong một gia đình bê bối với đám con cháu người thì hám lợi, hám tài, hám danh, kẻ thì vô nhân, vô nghĩa, cái chết của cụ cố tổ như làm “nhẹ lòng” biết bao nhiêu con người đang mong chờ nhiều điều sau cái đám tang hay ho ấy. Không chỉ là vì tờ chúc thư được đi vào thực hành chứ không còn lí thuyết viển vông như trước nữa mà còn vì những sự mà con cháu ông ta muốn thể hiện ở “một cái đám ma to”. Thế là từ việc lo ma chay đến lúc làm lễ, rước quan tài đều trong những cảnh “rộn ràng” đến lố bịch, nhưng đỉnh cao của mọi trò vô nhân đạo được thể hiện một cách “kín đáo” không che đậy ở cảnh hạ huyệt.
Hạ huyệt chính là thao tác, công việc, là nghi lễ cuối cùng đối với người đã khuất. Sau khi hạ huyệt, người trong quan tài giống như đã yên vị tại “nơi ở mới” trong thanh thản. Người ta thường thực hiện nghi lễ bằng tất cả những gì trang nghiêm nhất, tôn trọng nhất và cả sự đau đớn khi từng nắm đất đổ xuống lấp đi chiếc quan tài có người thân mình đang yên nghỉ. Ấy vậy mà mọi sự khác biệt ở cảnh hạ huyệt của cụ cố tổ. Cậu Tú Tân “thấp thỏm” cả ngày nay chỉ để khoe cái máy ảnh mới cùng tài năng chụp ảnh siêu việt của mình. Và có lẽ cảnh hạ huyệt này chính là cảnh “đáng chụp nhất” trong đám tang, nên lúc hạ quan tài, cậu đã “bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng, hoặc lau mắt như thế này, như thế nọ,… để chụp ảnh kỉ yếu”. Thành ra mọi sự bi lụy đau buồn trông rất đạo mạo và đúng kiểu cách ấy cũng chỉ là những trò diễn cốt sao cho có tấm ảnh đẹp để làm kỉ niệm, để khoe thành tích.
Cụ cố Hồng thì không lộ liễu như vậy. Vẫn cái vẻ đau khổ như từ ngày cụ cố tổ đi, lúc nào khuôn mặt cụ cũng tỏ ra đúng mình là một đứa con trai đạo hiếu, thậm chí còn ho khạc, ngất đi trông đúng kiểu cách một đứa con có hiếu. Ông Phán mọc sừng còn tỏ ra nhiều sự tình hơn cả. Mỗi khi thấy cụ cố Hồng có vẻ muốn ngất là ông ta cũng đứng bên cạnh kêu: “Hứt!... Hứt!... Hứt!…” Làm cho ai cũng phải để ý đến ông cháu rể quý hóa ấy. Ông ta khóc đến nỗi đứng không vững muôn ngất đi khiến cho Xuân Tóc Đỏ đứng bên cạnh phải đỡ. Nhưng thực chất ông ta chỉ tiện cớ đó mà dúi vào tay Xuân một tờ giấy bạc năm đồng gấp tư. Ông này quả là một tay “có tính toán” ngay trong lúc huyệt được hạ mà ông ta còn “nhớ” ra chuyện phải “đền ơn Xuân” về phần tài sản được chia thêm do “có được cái sừng trên đầu”. Vô hình chung, chúng đã biến thời khắc hạ huyệt thiêng liêng thành nơi đổi chác, buôn bán trắng trợn. Tên Xuân là nguyên nhân trực tiếp gây ra cái chết của cụ cố tổ thì như trở thành anh hùng của cả cái đại gia đình tha hóa này. Đọc đến đây, ta nhận ra cái lỗ huyệt định đặt quan tài cụ cố tổ kia có lẽ là lỗ huyệt được đào cho cả gia đình này hay là đào cho cả một cái xã hội lố lăng, trắn trợn, vô tình này. Những lời khóc của ông Phán mọc sừng: “Hứt!... Hứt!... Hứt!…” kia như là tiếng lòng của tác giả đang dậy sóng, muốn hất tung cả cái xã hội chó để xuống huyệt mồ, mà một xã hội tha hóa đến cùng kiệt như vậy, sớm muộn cũng đi xuống mồ mà thôi. Đây rõ không chỉ là đám tang cụ cố tổ mà còn là đáng đưa cả một lớp xã hội hồn ma về với địa ngục!
Cảnh hạ huyệt được Vũ Trọng Phụng miêu tả ngắn gọn với những phác chính về con người nhưng nổi hẳn lên cả một xã hội lòng người rộng lớn và phê phán gay gắt một lũ người vô nhân tính, trào phúng một xã hội mà con người tự đào mồ cho mình để tự đi xuống cái mồ chết chóc thời đại ấy.
--------------------------
Trên đây VnDoc hướng dẫn các bạn học tốt bài Văn mẫu lớp 11: Phân tích cảnh hạ huyệt cụ cố tổ trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia. Ngoài ra các bạn có thể soạn bài Ngữ văn 11 được VnDoc sưu tầm, chọn lọc để học tốt môn Ngữ văn 11.
Mời bạn đọc cùng tham gia nhóm Tài liệu học tập lớp 11, Ôn thi khối C để có thêm tài liệu học tập nhé