So sánh hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và cháo cám trong Vợ nhặt
So sánh hình ảnh nồi cháo cám và bát cháo hành
- 1. Dàn ý so sánh hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và cháo cám trong Vợ nhặt mẫu 1
- 2. Dàn ý so sánh hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và cháo cám trong Vợ nhặt mẫu 2
- 3. So sánh hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và cháo cám trong Vợ nhặt mẫu 1
- 4. So sánh hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và cháo cám trong Vợ nhặt mẫu 2
- 5. So sánh hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và cháo cám trong Vợ nhặt mẫu 3
- 6. So sánh hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và cháo cám trong Vợ nhặt mẫu 4
- 7. So sánh hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và cháo cám trong Vợ nhặt mẫu 5
- 8. So sánh hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và cháo cám trong Vợ nhặt mẫu 6
- 9. So sánh hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và cháo cám trong Vợ nhặt mẫu 7
- 10. So sánh hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và cháo cám trong Vợ nhặt mẫu 8
- 11. So sánh hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và cháo cám trong Vợ nhặt mẫu 9
So sánh hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và cháo cám trong Vợ nhặt là tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Văn năm 2024 hay, giúp các bạn biết cách làm dạng đề so sánh văn học, đạt kết quả tốt trong bài thi quan trọng sắp tới. Mời các bạn cùng tham khảo thêm tại mục Ngữ văn 12 nhé.
1. Dàn ý so sánh hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và cháo cám trong Vợ nhặt mẫu 1
I. Mở bài:
- Giới thiệu Nam Cao, truyện Chí Phèo và chi tiết bát cháo hành
- Giới thiệu Kim Lân, Truyện Vợ nhặt và chi tiết bát cháo cám
Mở bài tham khảo:
Nam Cao và Kim Lân đều là những cây bút có sở trường truyện ngắn, có nhiều trang viết cảm động về đề tài nông thôn và người nông dân. Điểm chung của hai nhà văn là họ đều có những truyện ngắn giản dị nhưng chứa chan tinh thần nhân đạo.Hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và bát cháo cám trong Vợ nhặt đều là những hình ảnh đặc sắc, góp phần thể hiện rõ nét nội dung tư tường của các tác phẩm và tài năng của các nhà văn.
II. Thân bài: lần lượt phân tích ý nghĩa của hai hình ảnh, sau đó so sánh điểm giống và khác nhau
1. Hình ảnh bát cháo hành:
- Sự xuất hiện: Hình ảnh này xuất hiện ở phần giữa truyện. Chí Phèo say rượu, gặp Thị Nở ở vườn chuối. Khung cảnh hữu tình của đêm trăng đã đưa đến mối tình Thị Nở – Chí Phèo. Sau hôm đó, Chí Phèo bị cảm. Thị Nở thương tình đã về nhà nấu cháo hành mang sang cho hắn.
- Ý nghĩa:
- Thể hiện tình yêu thương của Thị Nở dành cho Chí phèo
- Là hương vị của hạnh phúc, tình yêu muộn màng mà Chí Phèo được hưởng
- Là liều thuốc giải cảm và giải độc tâm hồn Chí: gây ngạc nhiên, xúc động mạnh, khiến nhân vật ăn năn, suy nghĩ về tình trạng thê thảm hiện tại của mình. Nó khơi dậy niềm khao khát được làm hoà với mọi người, hi vọng vào một cơ hội được trở về với cuộc sống lương thiện. Như vậy, bát cháo hành đã đánh thức nhân tính bị vùi lấp lâu nay ở Chí Phèo.
- Là chi tiết rất quan trọng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu sắc nét tính cách, tâm lí và bi kịch của nhân vật.
- Góp phần thể hiện sinh động tư tưởng Nam Cao: tin tưởng vào sức mạnh cảm hoá của tình người.
- Về nội dung:
- Về nghệ thuật:
2. Hình ảnh nồi cháo cám:
- Sự xuất hiện: Hình ảnh này xuất hiện ở cuối truyện, trong bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới của gia đình bà cụ Tứ.
- Ý nghĩa:
- Đối với gia đình Tràng, nồi cháo cám là món ăn xua tan cơn đói, là món ăn duy nhất của bữa tiệc cưới đón nàng dâu mới về. Qua đó, tác giả đã khắc sâu sự nghèo đói, cực khổ và rẻ mạt của người nông dân trong nạn đói 1945.
- Qua chi tiết nồi cháo cám, tính cách của nhân vật được bộc lộ:
- Bà cụ Tứ gọi cháo cám là " chè khoán", bà vui vẻ, niềm nở, chuyện trò với các con ->> là người mẹ nhân hậu, thương con, và có tinh thần lạc quan. Nồi cháo cám là nồi cháo của tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng. Trong hoàn cảnh đói kém, mẹ con Tràng dám cưu mang, đùm bọc thị, chia sẻ sự sống cho thị. Bà cụ Tứ nói toàn chuyện vui, đem nồi cháo cám ra đãi nàng dâu vốn để làm không khí vui vẻ hơn.
- Vợ Tràng đã có sự thay đổi về tính cách. Hết sức ngạc nhiên trước nồi cháo cám nhưng người con dâu mới vẫn điềm nhiên và vào miệng để làm vui lòng mẹ chồng. Chứng tỏ, Thị không còn nét cách chỏng lỏn như xưa nữa mà đã chấp nhận hoàn cảnh, đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới.
- Về nội dung:
- Về nghệ thuật: Chi tiết góp phần bộc lộ tính cách các nhân vật, thể hiện tài năng của tác giả Kim Lân trong việc lựa chọn chi tiết trong truyện ngắn.
3. So sánh:
- Giống nhau:
- Cả 2 hình ảnh đều là biểu tượng của tình người ấm áp.
- Đều thể hiện bi kịch của nhân vật và hiện thực xã hội: Ở "Chí Phèo" là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người [bát cháo hành rất bình di, thậm chí là nhỏ bé, tầm thường nhưng đó là lần đầu tiên Chí được cho mà không phải đi cướp giật]. Ở "Vợ nhặt", số phận con người cũng trở nên rẻ mạt.
- Đều thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc, cái nhìn tin tưởng vào sức mạnh của tình yêu thương con người của các nhà văn.
- Khác nhau:
- Bát cháo hành: biểu tượng của tình thương mà thị Nở dành cho Chí Phèo nhưng xã hội đương thời đã cự tuyệt Chí, đẩy Chí vào bước đường cùng. Qua đó, chúng ta thấy bộ mặt tàn bạo, vô nhân tính của XH thực dân nửa phong kiến cũng như cái nhìn bi quan, bế tắc của nhà văn Nam Cao.
- Nồi cháo cám: biểu tượng tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng vào phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động trong nạn đói. Sau bát cháo cám, mọi người nói chuyện về Việt Minh. Qua đó, thức tỉnh ở Tràng khả năng cách mạng. Như vậy ở Kim Lân có cái nhìn lạc quan, đầy tin tưởng vào sự đổi đời của nhân vật, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
4. Lí giải sự giống và khác nhau đó:
- Do hai nhà văn đều viết về người nông dân trong nạn đói 1945
- Có sự khác nhau đó là do ảnh hưởng của lí tưởng Cách mạng với mỗi nhà văn. Nam Cao có cái nhìn bi quan, bế tắc về số phận của người nông dân. Kim Lân có cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng.
2. Dàn ý so sánh hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và cháo cám trong Vợ nhặt mẫu 2
Đến với mỗi tác phẩm văn học, ta tìm thấy ở đó những hình tượng, chi tiết nghệ thuật khác nhau mang giá trị tư tưởng, tình cảm của tác giả, cũng như dụng ý nghệ thuật mà nhà văn muốn gửi gắm đến bạn đọc. Qua tác phẩm "Chí Phèo" của nhà văn Nam Cao, hình ảnh bát cháo hành trở thành mấu chốt thức tỉnh một con người. Không chỉ thế, khi trải lòng với "Vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân, hẳn là trong lòng độc giả không thôi day dứt với hình ảnh bát cáo cám đầy ám ảnh.
- Bát cháo hành trong "Chí Phèo" của nhà văn Nam Cao:
- Hình ảnh bát cháo hành gắn liền với một tình cảm đặc biệt được ưu ái dành cho tên gọi "đôi lứa xứng đôi" giữa Chí Phèo và Thị Nở. Anh Chí - một con người vốn "lành như đất", trải qua bao thăng trầm cuộc đời, bị bỏ rơi, bị bán đi, bị xúc phạm, bị đè bẹp... để rồi trượt dài trên dốc của sự tha hóa và trở thành một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Bàn tay của bọn cường hào ác bá (mà Bá Kiến là một trong số đó) và nhà tù thực dân đã không cho Chí Phèo được lương thiện. Bị xa lánh, hắt hủi, những cơn say, những lần rạch mặt ăn vạ... ta cứ tưởng cuộc đời của Chí sẽ cứ trượt dài, trượt dài tận đáy dưới lớp của một con thú. Thế nhưng, chính bát cháo hành mà Thị Nở tự tay mang đến cho anh đã thức tỉnh một trái tim, một tâm hồn cũng biết rung động, một con người cần sự ấm áp, khao khát được thương yêu.
- Ý nghĩa của hình ảnh bát cháo hành:
+ Về nội dung:
Tình yêu thương, chăm sóc, tình người mà Thị Nở dành cho Chí Phèo trong lúc ốm đau, bệnh tật: "mình bỏ hắn lúc này cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau như “vợ chồng”. Tiếng “vợ chồng” thấy ngường ngượng mà thinh thích…"
Là lần đầu tiên Chí được chăm sóc bởi bàn tay của một người đàn bà, đầy yêu thương, ấm áp của một gia đình: “có ai nấu cho mà ăn đâu? Mà còn ai nấu cho mà ăn nữa! Đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một bàn tay đàn bà" và hắn cảm thấy cháo hành tuy đơn giản nhưng thật sự rất ngon và hắn tự hỏi: “tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm vị mùi cháo?”.
Là một liều thuốc giải cảm và giải độc cho tâm hồn Chí -> từ sự ngạc nhiên, rồi hắn xúc động mạnh, khiến nhân vật ăn năn, suy nghĩ về tình trạng thê thảm hiện tại của mình. Sau khi ăn bát cháo hành, Chí đã ước ao tha thiết được trở về với cuộc đời lương thiện. -> Bát cháo hành đã đánh thức nhân tính bị vùi lấp lâu nay ở Chí Phèo -> khơi dậy niềm khao khát được làm hoà với mọi người, hi vọng vào một cơ hội được trở về với cuộc sống lương thiện và chính Thị sẽ giúp hắn hòa nhập.
+ Về nghệ thuật:
Là chi tiết rất quan trọng, mấu chốt để thúc đẩy sự tình huống truyện phát triển, khắc họa sâu sắc nét tính cách, tâm lí và bi kịch của nhân vật.
Góp phần thể hiện một cái nhìn tư tưởng sâu sắc của nhà văn Nam Cao: tin tưởng vào sự lương thiện và tình người, vào sự tốt đẹp của con người.
- Bát cháo cám trong "Vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân:
- Để bắt đầu một ngày mới thật khác với sự xuất hiện của thành viên mới trong gia đình, mẹ của Tràng đã đặc biệt chuẩn bị một món ăn dù "đắng chát, nghẹn bứ" nhưng bà cụ vẫn khen "ngon đáo để" - đó chính là nồi cháo cám. Trong nạn đói, người ta vẫn khao khát một hạnh phúc ấm êm bên gia đình. Chi tiết mang nhiều dụng ý nghệ thuật mà Kim Lân muốn gửi gắm đến bao thế hệ bạn đọc.
- Ý nghĩa:
+ Về nội dung:
Nồi cháo cám là món ăn xua đi cơn đói, là món ăn duy nhất của bữa tiệc cưới mà gia đình Tràng đón nàng dâu mới về. Trong hoàn cảnh nạn đói đang dần bao trùm cái không khí u ám, chết chóc lên khắp ngôi làng, khi mà “Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy” số phận nghèo khổ, rẻ mạt của người dân trong nạn đói, thì nồi cháo cám ấy trở thành một niềm hạnh phúc nhỏ nhoi mà họ có.
+ Về nghệ thuật:
Qua ngòi bút của nhà văn, tâm lý nhân vật hiện lên rõ nét và vô cùng sâu sắc, thể hiện giá trị nhân đạo, nhân văn của tác phẩm:
Bà cụ Tứ: một người mẹ đảm đang, giàu tình yêu thương con, trọng nghĩa tình (dù trong cảnh đói kém vẫn cưu mang, đùm bọc thị). Mặc dù đã già, bà vẫn dậy sớm chuẩn bị bữa ăn cho cả nhà; hơn thế nữa là trong hoàn cảnh đói khổ và cái chết đang rình rập, bà vẫn cố gắng để có được bữa tiệc cưới giản dị cho con trai của mình.
Vợ Tràng: sự thay đổi về tính cách: hết sức ngạc nhiên trước nồi cháo cám nhưng người con dâu mới vẫn điềm nhiên và vào miệng để làm vui lòng mẹ chồng - không còn nét cách chỏng lỏn như xưa nữa mà cô đã chấp nhận hoàn cảnh, đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới.
Nồi cháo cám là nồi cháo của tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng sống và hạnh phúc.
- So sánh:
- Điểm giống:
+ Biểu hiện của tình người ấm áp, bao dung.
+ Qua đó, thể hiện sâu sắc bi kịch của nhân vật, và tái hiện lại hiện thực xã hội: bi kịch bị tha hoá + bị cự tuyêt quyền làm người (bát cháo hành) ---> dù Chí muốn lương thiện nhưng cách duy nhất là cái chết để không bị tha hóa nhân cách của chính mình. Bát cháo cám: thể hiện hiện thực tàn khốc của nạn đói (cám vốn là thức ăn của con vật thế nhưng giờ đây lại trở thành món ăn quý giá, đặc biệt của một gia đình).
=> Cái nhìn hiện thực độc đáo, tinh thần nhân đạo.
- Điểm khác nhau:
+ Bát cháo hành: biểu tượng của tình thương mà thị Nở dành cho Chí Phèo, thế nhưng những định kiến và cái hiện thực xã hội đương thời đã đẩy Chí vào đường cùng --> chế độ thực dân tàn bạo. Bên cạnh đó, đó cũng là cái nhìn bế tắc của Nam Cao đối với người nông dân - cảm quan hiện thực của nhà văn trước CMT8.
+ Bát cháo cám: là biểu tượng tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng vào phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động trong nan đói. Niềm tin vào khả năng cách mạng của người dân của Kim Lân (sau bát cám thị nhắc đến đoàn người đói, là cờ Việt Minh... Tràng dường như nhận ra con đường tươi sáng hơn, tin vào Cách mạng) -> cảm quan nhà văn sau CMT8.
- Đánh giá:
Bên cạnh những điểm tương đồng trong cái nhìn đầy nhân đạo và nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật tài tình của nhà văn, mỗi chi tiết nghệ thuật lại hiện lên với vẻ đẹp khác nhau, góp phần thúc đẩy quá trình phát triển của cốt truyện, đem đến cho người đọc những áng văn bất hủ, giàu giá trị. Nam Cao và Kim Lân chính là những "hóa công" đã xây nên hai chi tiết nghệ thuật đặc sắc, đầy ý nghĩa này.
3. So sánh hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và cháo cám trong Vợ nhặt mẫu 1
Nam cao và Kim Lân đều là những cây bút có sở trường truyện ngắn, có nhiều trang viết cảm động về đề tài nông thôn và người nông dân. Điểm chung của hai nhà văn là họ đều có những truyện ngắn giản dị nhưng chứa chan tinh thần nhân đạo.Hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và bát cháo cám trong Vợ nhặt đều là những hình ảnh đặc sắc, góp phần thể hiện rõ nét nội dung tư tường của các tác phẩm và tài năng của các nhà văn.
Chúng ta lần lượt phân tích ý nghĩa của hai hình ảnh để nhận thấy điểm giống và khác nhau của những chi tiết đặc sắc này.Trước hết làm sao ta có thể quên được hình ảnh bát cháo hành: Sự xuất hiện: Hình ảnh này ở phần giữa truyện ngắn. Chí Phèo đang say rượu, gặp Thị Nở ở vườn chuối. Khung cảnh hữu tình của đêm trăng đã đưa đến mối tình Thị Nở – Chí Phèo. Sau hôm đó, Chí Phèo bị cảm. Thị Nở thương tình đã về nhà nấu cháo hành mang sang cho hắn. Trước hết ta cần phải bàn tới ý nghĩa về mặt nội dung của hình ảnh bát cháo hành của tác phẩm. Đầu tiên ta có thể khẳng định chi tiết trên là một điểm sáng của tác phẩm,nó hội tụ tình yêu thương của Thị Nở dành cho Chí phèo. Là hương vị của hạnh phúc, tình yêu muộn màng mà Chí Phèo được hưởng. Bát cháo ấy vừa giản dị nhưng đó chính là liều thuốc giải cảm và giải độc tâm hồn anh Chí : gây ngạc nhiên, xúc động mạnh, khiến nhân vật ăn năn, suy nghĩ về tình trạng thê thảm hiện tại của mình. Nó khơi dậy niềm khao khát được làm hoà với mọi người, hi vọng vào một cơ hội được trở về với cuộc sống lương thiện. Như vậy, bát cháo hành đã đánh thức nhân tính bị vùi lấp lâu nay ở Chí Phèo. Và hãy thử hình dung, nếu như không có tác phẩm trên tới bao giờ anh Chí của ngày xưa mới trở về mà nhận ra mình vẫn còn có thể trở về với lương thiện, với ước mơ nhỏ bé giản dị là một mái ấm gia đình.
Xét về góc độ nghệ thuật, bát cháo hành là chi tiết rất quan trọng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu sắc nét tính cách, tâm lí và bi kịch của nhân vật.Chi tiết này góp phần thể hiện sinh động tư tưởng của ngòi bút Nam Cao: tin tưởng vào sức mạnh cảm hoá của tình người.
Đặt bên cạnh hình ảnh bát cháo hành thì làm sao ta có thể quên được chi tiết nồi cháo cám trong tác phẩm vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Sự xuất hiện Hình ảnh này vị trí là nằm ở cuối truyện, trong bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới của gia đình bà cụ Tứ.Khi ta biết rằng bữa ăn đầu tiên của con dâu về nhà chồng vốn dĩ phải là một bữa ăn đầy đủ và thịnh soạn, thì trái với lẽ thường, đó là một bữa ăn có mùi vị khó chịu, người đọc làm sao có thể quên được chi tiết này, vừa đau đớn mà vừa xót xa cho đôi vợ chồng son trong cảnh đói.Xét về mặt ý nghĩa nội dung. Đối với gia đình Tràng, nồi cháo cám là món ăn xua tan cơn đói, là món ăn duy nhất của bữa tiệc cưới đón nàng dâu mới về. Qua đó, tác giả đã khắc sâu sự nghèo đói, cực khổ và rẻ mạt của người nông dân trong nạn đói 1945. Từ chi tiết nồi cháo cám,đó chính là nút thắt để tác giả tập trung lách sâu ngòi bút của mình khắc họa tính cách của nhân vật trong thế giới truyện được bộc lộ. Bà cụ Tứ gọi cháo cám là “chè khoán”, bà vui vẻ, niềm nở, chuyện trò với các con ->> là người mẹ nhân hậu, thương con, và có tinh thần lạc quan. Nồi cháo cám là nồi cháo của tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng. Trong hoàn cảnh đói kém, mẹ con Tràng dám cưu mang, đùm bọc thị, chia sẻ sự sống cho thị. Bà cụ Tứ nói toàn chuyện vui, đem nồi cháo cám ra đãi nàng dâu vốn để làm không khí vui vẻ hơn.
Vợ Tràng đã có sự thay đổi về tính cách. Hết sức ngạc nhiên trước nồi cháo cám nhưng người con dâu mới vẫn điền nhiên và vào miệng để làm vui lòng mẹ chồng. Chứng tỏ, Thị không còn nét cách chỏng lỏn như xưa nữa mà đã chấp nhận hoàn cảnh, đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới.Về phương diện nghệ thuật: Chi tiết góp phần bộc lộ tính cách các nhân vật, thể hiện tài năng của tác giả Kim Lân trong việc lựa chọn chi tiết trong truyện ngắn.
Từ hai chi tiết nghệ thuật đặc sắc, người yêu văn chương dễ dàng nhận ra sự đồng điệu của chúng.Cả hai hình ảnh đều là biểu tượng của tình người ấm áp.Mặt khác, cả hai chi tiết nghệ thuật này đều thể hiện bi kịch của nhân vật và hiện thực xã hội: Ở “Chí Phèo” là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người (bát cháo hành rất bình di, thậm chí là nhỏ bé, tầm thường nhưng đó là lần đầu tiên Chí được cho mà không phải đi cướp giật). Ở “Vợ nhặt”, số phận con người cũng trở nên rẻ mạt( theo không về làm dâu cũng chỉ bằng bốn bát bánh đúc), bữa ăn đầu tiên con dâu về nhà chồng cũng chỉ đơn thuần là một nồi cám lợn chẳng hơn.Thế nhưng hai chi tiết này đều thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc, cái nhìn tin tưởng vào sức mạnh của tình yêu thương con người của các nhà văn vượt lên số phận.
Bên cạnh những điểm đồng điệu của hai nhà văn với các chi tiết nghệ thuật độc đáo thì ta cũng nhận thấy sự khác nhau ở đây.Nếu bát cháo hành: biểu tượng của tình thương mà thị Nở dành cho Chí Phèo nhưng xã hội đương thời đã cự tuyệt Chí, đẩy Chí vào bước đường cùng. Qua đó, chúng ta thấy bộ mặt tàn bạo, vô nhân tính của XH thực dân nửa phong kiến cũng như cái nhìn bi quan, bế tắc của nhà văn Nam Cao.Thế nhưng nồi cháo cám: biểu tượng tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng vào phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động trong nạn đói. Sau bát cháo cám, mọi người nói chuyện về Việt Minh. Qua đó, thức tỉnh ở Tràng khả năng cách mạng. Như vậy ở Kim Lân có cái nhìn lạc quan, đầy tin tưởng vào sự đổi đời của nhân vật, dưới sự lãnh đạo của Đảng.Đó là sự khác biệt về cái nhìn của một nhà văn trước cách mạng, còn một nhà văn là lá cờ đầu của nền văn học Việt Nam hiện đại khi được giác ngộ lý tưởng vào ngòi bút của mình.Ta có thể lí giải tường tận sự giống và khác nhau đó.Khi hai nhà văn đều viết về người nông dân trong nạn đói 1945.Có sự khác nhau đó là do ảnh hưởng của lí tưởng Cách mạng với mỗi nhà văn . Nam Cao có cái nhìn bi quan, bế tắc về số phận của người nông dân. Kim Lân có cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng
Nếu như trong một tác phẩm thơ điều làm nên ấn tượng là nhãn tự của bài thơ nhiều khi chỉ là một chữ một từ một tiếng gom trọn cả ý tứ của thi phẩm. Thì trong một tác phẩm tự sự, yếu tố then chốt gây xúc động mạnh trong lòng người đọc đó chính là chi tiết nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm. Với bát cháo hành của Chí Phèo – Nam Cao đã tạo ra bước ngoặt trong sự thức tỉnh của người nông dân bị tha hóa biến chất. Thì trở lại với nồi cháo cám của Vợ Nhặt – Kim Lân đó chính sự lấn át của tình người trước cảnh đói, ông đã thực sự thành công khi khẳng định sức mạnh tình thương sẽ dìu dắt con người vượt qua tăm tối.
4. So sánh hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và cháo cám trong Vợ nhặt mẫu 2
Nam Cao và Kim Lân đều là những ngòi bút hiện thực tài hoa trong làng văn học Việt Nam. Đặc biệt là sở trường viết về người nông dân, xã hội trước Cách Mạng hai nhà văn đã có nhiều trang viết cảm động. Điểm chung của hai nhà văn là họ đều có những truyện ngắn giản dị nhưng chứa chan tinh thần nhân đạo, thương thân, thương ái cho những số phận dân đen lầm lũi. Hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và bát cháo cám trong Vợ nhặt đã góp phần thể hiện rõ tài năng, bút pháp nghệ thuật đặc sắc, mang cá tính riêng của Nam Cao và Kim Lân.
Đến với Nam Cao, ta đến với “tác phẩm chung cho loài người… nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn.” Qủa đúng là như vậy, nghệ thuật sáng tác của nhà văn hướng về con người, những con có thể là tận đáy của xã hội như Chí Phèo nhưng ông đào sâu lên và thấy những nhân tính trong sáng tốt đẹp của anh ta bị vùi sâu, chà đạp bởi xã hội thị phi. Bát cháo hành do thị Nở tự tay nấu đã đánh thức lương tâm Chí Phèo- một kẻ bị coi là con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Lần đầu tiên trong đời hắn được một ai cho hắn, sống từng này tuổi có ai cho không hắn cái gì đâu. Một đêm tình giữa hai kẻ sống cù bơ cù bất, cô đơn hiu quạnh đã dựng xây nên cái ta vẫn thường gọi là tình yêu, tình thương. Bát cháo hành nghi ngút khói không phải quá sang trọng nhưng lại quý giá vô cùng. “Hắn nhìn bát cháo bốc khói mà bâng khuâng.” – đây không phải những biểu cảm có ở một con quỷ mà là ở con người. Phần người trong Chí đã thức tỉnh. Hắn cảm thấy người đàn bà xấu xí này thế mà có duyên. “Tình yêu làm cho có duyên”. Bát cháo hành ấy thể hiện tình yêu của Thị Nở dành cho Chí Phèo. Bát cháo là hương vị của hạnh phúc, tình yêu muộn màng mà Chí Phèo được hưởng. Bát cháo là liều thuốc giải cảm và giải độc tâm hồn Chí : gây ngạc nhiên, xúc động mạnh, khiến nhân vật ăn năn, suy nghĩ về tình trạng thê thảm hiện tại của mình. Nó khơi dậy niềm khao khát được làm hoà với mọi người, hi vọng vào một cơ hội được trở về với cuộc sống lương thiện. Như vậy, bát cháo hành đã đánh thức nhân tính bị vùi lấp lâu nay ở Chí Phèo.
Bát cháo hành – Chí Phèo, đó không chỉ là hình ảnh tượng trưng cho tình yêu, tình thương, có công dụng đánh thức con người bên trong Chí mà đó còn là chi tiết rất quan trọng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu sắc nét tính cách, tâm lí và bi kịch của nhân vật. Nhân vật như từ cõi chết trở về với sự sống trần thế, cảm nhận những gì thân thuộc nhỏ bé nhất của cuộc sống bình dị, nhớ đến những ước mơ đã từng có trước đay của mình. Hắn muốn một gia đình nhỏ, vợ dệt vải nuôi con, chồng cày thuê cuốc mướn, dư giả mua lợn về làm giống… những ước mơ quá đỗi bình dị và phù hợp với nhận thức của một con người bình thường. hình ảnh bát cháo nghi ngút khói thể hiện sinh động tư tưởng của Nam Cao về sự cảm hóa, gắn kết gần nhau hơn giữa người với người.
Trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân, ta lại bắt gặp hình ảnh bát cháo. Nhưng không có được tươm tất như bát cháo hành thị Nở cho Chí Phèo mà là bát cháo cám. Hình ảnh này xuất hiện ở cuối truyện, trong bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới của gia đình bà cụ Tứ. Đối với gia đình Tràng, nồi cháo cám là món ăn xua tan cơn đói, là món ăn duy nhất của bữa tiệc cưới đón nàng dâu mới về. Qua đó, tác giả đã khắc sâu sự nghèo đói, cực khổ và rẻ mạt của người nông dân trong nạn đói 1945. Với chi tiết nồi cháo cám mà bà cụ Tứ gọi là ” chè khoán”, mà bà vui vẻ, niềm nở, chuyện trò với các con cho thấy đây là người mẹ nhân hậu, thương con, và có tinh thần lạc quan. Nồi cháo cám là nồi cháo của tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng. Trong hoàn cảnh đói kém, mẹ con Tràng dám cưu mang, đùm bọc thị, chia sẻ sự sống cho người con dâu mới về nhà chồng với hai bàn tay trắng. Cụ Tứ nói toàn chuyện vui, đem nồi cháo cám ra đãi nàng dâu vốn để làm không khí vui vẻ hơn. Vợ Tràng đã có sự thay đổi về tính cách. Ban đầu thị trầm lặng, có lẽ thị thất vọng và cũng chưa biết an phận làm dâu nhà nghèo. Khi nồi cháo cám được bưng lên thị không khỏi ngạc nhiên nhưng con dâu mới vẫn điềm nhiên và vào miệng để làm vui lòng mẹ chồng. Người đàn bà khốn khổ ấy chấp nhận cuộc sống thiếu thốn, khó khăn này. Thị biết tấm lòng của người mẹ già này thương những đứa con nhiều không kể xiết, mặc kệ khó khăn bà vẫn điềm nhiên nói cười, đón tiếp nàng dâu chu đáo hết sức có thể. Chi tiết nồi cháo cám , bát cháo cám góp phần bộc lộ tính cách các nhân vật, thể hiện tài năng của tác giả Kim Lân trong việc lựa chọn chi tiết trong truyện ngắn.
Hai tác phẩm, hai câu chuyện khác nhau về những mảnh đời sứt mẻ, bất hạnh nhưng những hình ảnh xuất hiện trong đó hình ảnh đều là biểu tượng của tình người ấm áp – bát cháo hành, bát cháo cám. Bên cạnh đó nét tương đồng giữa hai tác phẩm là thể hiện bi kịch của nhân vật và hiện thực xã hội: Ở “Chí Phèo” là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người .Với bát cháo hành rất bình dị, thậm chí là nhỏ bé, tầm thường nhưng đó là lần đầu tiên Chí được cho mà không phải đi cướp giật. Còn trong Vợ nhặt số phận con người cũng trở nên rẻ mạt. Người ta cưới vợ gả chồng không có chút sính lễ hay nghi thức gì cả. Họ đến với nhau nguyện ý vì tình thương người muốn gắn bó cùng nahu vượt qua khó khăn. Tội cho người phụ nữ ấy. Đúng là “ Thân em như hạt mưa sa/ Hạt vào đài các, hạt ra ruộng vườn.” Hai áng văn chương hiện thực nhưng lại thấm đẫm tình thương, tấm lòng nhân đạo sâu sắc, cái nhìn tin tưởng vào sức mạnh của tình yêu thương con người của các nhà văn. Những tác phẩm ấy khiến đọc giả không khỏi xót xa, thương tiếc cho những nhân vật khốn khổ, đồng thời cũng hướng con người đến ư tưởng nhân văn tiên tiến, coi trọng giá trị con người, các mối quan hệ đồng bào cần gắn bó khăn khít.
Tuy chung sở trường sáng tác và chủ đề cho hai tác phẩm, Chí Phèo và Vợ nhặt nhưng mỗi tác giả lại có những sáng tạo riêng biệt, ấn tượng không nhầm lẫn vào đâu được trong vườn văn chương trước Cách Mạng. Hình ảnh bát cháo hành: biểu tượng của tình thương mà thị Nở dành cho Chí Phèo nhưng xã hội đương thời đã cự tuyệt Chí, đẩy Chí vào bước đường cùng. Qua đó, chúng ta thấy bộ mặt tàn bạo, vô nhân tính của xã hội thực dân nửa phong kiến cũng như cái nhìn bi quan, bế tắc của nhà văn Nam Cao. Còn bát cháo cám của Kim Lân trong Vợ nhặt lại đem đến cho ta một suy nghĩ khác rằng nồi cháo cám đó là biểu tượng tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng vào phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động trong nạn đói. Sau bát cháo cám, mọi người nói chuyện về Việt Minh. Qua đó, thức tỉnh ở Tràng khả năng cách mạng. Như vậy ở Kim Lân có cái nhìn lạc quan, đầy tin tưởng vào sự đổi đời của nhân vật, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hai tác phẩm , hai nhà văn tài năng của làng Văn học Việt Nam đã đem dến cho đọc giả những khía cạnh quan sát khác nhau về cuộc đời, số phận, tư tưởng khác nhau của người nông dân Việt Nam. Những áng văn hay thấm đẫm tình người, ý nghĩa nhân đạo của các tác phẩm luôn khơi gợi lên những cảm xúc chân thành từ đọc giả. Con người cũng vì thế mà cần phải biết trân trọng cuộc sống hiện tại đã hiện đại hơn rất nhiều, trân trọng những người mình yêu quý, giúp đỡ nhưng mảnh đời bất hạnh hơn mình để đổi lấy sự thanh thản sâu thẳm trong tâm hồn.
5. So sánh hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và cháo cám trong Vợ nhặt mẫu 3
Bên cạnh dòng văn học lãng mạn, văn học hiện thực Việt Nam cũng đạt được những thành tựu rực rỡ, với những tác phẩm nổi tiếng. Trong số những ngôi sao của làng văn học hiện thực ta không thể không nhắc đến Nam Cao và Kim Lân. Nam Cao là cây bút hiện thực xuất sắc với tác phẩm nổi tiếng Chí Phèo – là kết tinh nghệ thuật trong đời văn ông. Còn Kim Lân có sở trường viết truyện ngắn về nông thôn và người nông dân với tác phẩm để đời Vợ nhặt. Ở cả hai tác phẩm này đều có những chi tiết nghệ thuật đặc sắc bát cháo hành (Chí Phèo), nồi cháo cám (Vợ nhặt) góp phần thể hiện tư tưởng cũng như tài năng nghệ thuật của hai tác giả.
Chi tiết bát cháo hành xuất hiện ở phần giữa của tác phẩm Chí Phèo. Chí Phèo sau khi đi uống rượu nhà Tư Lãng, trở về căn lều của mình, trên đường trở về hắn thấy khó chịu nên không về nhà ngay mà rẽ xuống sông tắm, ở đây hắn đã gặp thị Nở đang nằm ngủ cạnh bụi chuối. Dưới ánh trăng mờ ảo, khung cảnh hữu tình đã nảy nở tình yêu giữa thị Nở và Chí Phèo. Đến nửa đêm, Chí Phèo bị cảm, nôn thốc, nôn tháo, thị Nở là người đã dìu Chí vào lều, đắp cho manh chiếu và trở về nhà. Nhưng khi về đến nhà thị vẫn chưa yên tâm, bởi: Thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi là hôm nay nhọc đừ, thương cho Chí chỉ có một thân một mình thị Nở quyết định sẽ nấu cháo mang cho Chí Phèo giải cảm. Bát cháo hành là chi tiết nghệ thuật giàu ý nghĩa, giàu giá trị biểu đạt.
Bát cháo là sự quan tâm, chăm sóc ân cần không vụ lợi toan tính của thị Nở dành cho Chí Phèo. Sau cái đêm ăn nằm với nhau thị cảm thấy mình có trách nhiệm phải quan tâm, giúp đỡ Chí Phèo. Nhưng sâu xa hơn, nó còn xuất phát từ tình yêu thương Thị dành cho Chí: Cái thằng liều lĩnh ấy kể ra cũng đáng thương, còn gì đáng thương bằng đau ốm mà nằm còng queo một mình. Đây mới là nguyên nhân gốc rễ dẫn đến hành động thị dành cho Chí. Không chỉ vậy, bát cháo hành đã khơi nguồn, nảy nở tình yêu đẹp đẽ giữa hai con người bất hạnh. Xét ở một khía cạnh nào đó, thị Nở cũng là kẻ bị gạt ra ngoài rìa của xã hội, không tìm được hạnh phúc, bởi vậy, nhờ có bát cháo hành mà thị đã thực sự được làm thiên chức của một người phụ nữ, được quan tâm chăm sóc cho người mình thương.
Không chỉ vậy, bát cháo tuy bé nhỏ về vật chất nhưng lại là niềm an ủi to lớn về tinh thần với Chí Phèo. Đây là tình người hiếm hoi mà Chí Phèo được nhận trong khi tất cả mọi người đều xa lánh, hắt hủi Chí. Đây cũng hương vị tình yêu, hạnh phúc muộn màng mà Chí được được duy nhất đón nhận một lần. Lần đầu tiên chí được chăm sóc bởi tay một người đàn bà. Bát cháo không chỉ giúp Chí giải cảm, vượt qua cái mệt mỏi về thể xác mà còn giúp Chí thanh lọc, giải độc về tâm hồn. Chí thấy vừa xúc động, vừa vui, vừa buồn vừa như là ăn năn. Nó giúp Chí suy nghĩ về tình trạng thê thảm của bản thân hiện tại khi bị tất cả mọi người ruồng rẫy, gạt ra bên ngoài cuộc sống. Xưa nay hắn chỉ sống bằng cướp giật, dọa nạt. Nếu không còn đủ sức mà cướp giật, dọa nạt nữa thì sao […] Nhưng hắn mơ hồ thấy rằng sẽ có lúc mà người ta không thể liều được nữa. Thế mới nguy. Và trong Chí bùng lên khát khao được trở thành người lương thiện, muốn làm hòa với mọi người và thị Nở chính là người sẽ mở đường cho hắn. Như vậy, với Chí Phèo bát cháo hành đã đánh thức phần người, phần nhân tính mà bấy lâu nay bị phần con che lấp mất.
Chi tiết bát cháo hành cũng có giá trị lớn về mặt nghệ thuật. Với chi tiết này đã giúp bộc lộ tính cách nhân vật : Thị Nở yêu thương, quan tâm người khác vô điều kiện, Chí Phèo phục hồi phần nhân tính bị khuất lấp. Không chỉ vậy chi tiết này còn góp phần thúc đẩy truyện phát triển, tạo nên trình tự truyện hợp lí, tự nhiên. Qua đó thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nam Cao : tin vào sức mạnh của sự cảm hóa.
Cũng như chi tiết bát cháo hành, chi tiết nồi cháo cám trong Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân cũng chứa đựng nhiều giá trị sâu sắc. Chi tiết này xuất hiện vào cuối tác phẩm, trong bữa cơm đầu tiên khi cô vợ nhặt bước chân vào nhà anh cu Tràng. Miếng cháo cám đắng ngắt, nhưng họ vẫn lặng lẽ ăn và không ai nói với nhau câu nào nữa.
Trong nạn đói năm 1945, hàng nghìn người chết đói, thì nồi cháo cám đó có đắng chát cũng là phương tiện giúp gia đình Tràng xua tan cơn đói, đây cũng có thể coi là bữa tiệc trong ngày đón nàng dâu mới về. Điều đó đã cho thấy sự nghèo đói và cuộc sống cực khổ của nhân dân ta vào thời điểm năm 1945. Ý nghĩa hơn cả, chi tiết nồi cháo cám còn giúp bộc lộ tính cách nhân vật. Nồi cháo cám được bà cụ Tứ niềm nở bê ra, đã cho thấy đó là một người phụ nữ đảm đang, yêu thương con hết mực. Trong cuộc sống khổ cực như vậy, nhưng bà vẫn tìm mọi cách để đem đến niềm vui nhỏ bé cho đôi vợ chồng trẻ. Đối với người vợ nhặt, tính chao chát, chỏng lỏn đã biến đi đâu mất, thay vào đó là người phụ nữ điềm nhiên, bình tĩnh : người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng. Người con dâu ấy đã có sự thay đổi về tính nết, chấp nhận hoàn cảnh và trong cô cũng sẵn sàng để cùng gia đình nhỏ bé mới này vượt qua mọi khó khăn. Không chỉ vậy, nồi cháo cám còn là biểu tượng của tình người, của niềm tin và hi vọng. Trong hoàn cảnh đói kém, họ vẫn không ngần ngại cưu mang thêm một người, sống trong sự đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Quanh nồi cháo cám, bà cụ Tứ nói những chuyện vui, tương lai tốt đẹp để khơi dậy vào cuộc sống mới đẹp đẽ hơn cho đôi vợ chồng trẻ.
Đây là hai chi tiết nghệ thuật đặc sắc, nó là biểu tượng của tình người ấm áp, của tình yêu thương chân thành con người dành cho nhau trong hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn. Với mỗi chi tiết còn góp phần bộc lộ, sự thay đổi tính cách của nhân vật. Không chỉ vậy nó còn thể hiện bi kịch của con người trong xã hội cũ : Chí Phèo bị cự tuyệt quyền làm người, bị xã hội đẩy ra bên lề. Còn cô vợ nhặt, số phận con người cũng trở nên rẻ mạt hơn. Qua các chi tiết này, cả hai tác giả đều thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc, niềm tin vào sức mạnh của tình yêu thương có thể thay đổi, cảm hóa con người.
Bên cạnh những điểm giống nhau, các chi tiết nghệ thuật này cũng có những điểm khác biệt. Bát chào hành là tình yêu thương chân thành, không toan tính thị Nở dành cho Chí Phèo khi tất cả xã hội đã cự tuyệt Chí, coi Chí như con quỷ và đẩy Chí Phèo vào bước đường cùng. Qua đó, giúp người đọc hình dung được bộ mặt bất nhân, tàn bạo của xã hội thực dân nửa phong kiến. Còn chi tiết bát cháo cám là biểu tượng không chỉ của tình yêu thương mà còn là niềm tin vào tương lai, hi vọng vào tương lai tốt đẹp, khi trong bữa cơm ấy họ bàn về chuyện Việt Minh. Đó là cái nhìn đầy lạc quan, tin tưởng của Kim Lân vào cuộc sống. Có sự khác biệt như vậy là do phong cách sáng tác của hai tác giả là khác nhau. Không chỉ vậy, yếu tố thời đại chi phối đến nhãn quan của mỗi nhà văn : Nam Cao bi quan, bế tắc, Kim Lân lạc quan, tin tưởng.
Qua những chi tiết nghệ thuật đặc sắc của hai nhà văn người đọc đã thấy được tấm lòng nhân đạo bao la của họ vào con người, luôn mang niềm tin tưởng vào sự cảm hóa qua tình yêu thương. Không chỉ vậy, với các chi tiết nghệ thuật này còn cho thấy tài năng nghệ thuật bậc thầy của họ.
6. So sánh hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và cháo cám trong Vợ nhặt mẫu 4
Mỗi một tác phẩm văn học là một đứa con tinh thần của nhà văn chân chính. Trong tác phẩm ấy mỗi hình tượng và chi tiết nghệ thuật đều mang giá trị tư tưởng, tình cảm và dụng ý của tác giả. Nam Cao và Kim Lân là hai nhà văn xuất sắc trên thể loại truyện ngắn viết về người nông dân Việt Nam với tình cảm chân thành và lòng thương yêu vô bờ. Nếu Nam Cao thành công với kiệt tác “Chí Phèo” trong đó có chi tiết bát cháo hành tình người có nhiều ý nghĩa thì Kim Lân với tác phẩm “Vợ nhặt” có bát cháo cám tình thương để lại ấn tượng sâu sắc và nhiều suy ngẫm cho bạn đọc. Dù chỉ là hai chi tiết nghệ thuật xuất hiện ở gần cuối mỗi tác phẩm nhưng có giá trị to lớn, thể hiện quan điểm tư tưởng của nhà văn.
Trước tiên là bát cháo hành thị Nở dành cho Chí. Đây là bát cháo của tình người. Thị và Chí là hai con người cùng cực, thuộc tầng lớp dưới đáy cùng của xã hội. Một kẻ lưu manh trượt dài trên cái dốc tha hóa mất hết nhân hình lẫn nhân tính, một kẻ thuộc dòng giống con nhà mả hủi, xấu ma chê quỷ hờn lại còn nghèo và ngẩn ngơ. Họ bị xã hội ruồng bỏ, bị mọi người xa lánh, họ sống trong cô đơn cô độc giữa cuộc đời. Nhưng trong đêm tình ái ấy hai tâm hồn đồng điệu tìm về với nhau để làm thành “đôi lứa xứng đôi”. Tưởng rằng cuộc đời Chí chìm đắm trong bóng tối, u mê với men say và sống mãi bằng một nghề rạch mặt ăn vạ, cướp của giết người. Sự xuất hiện của thị cùng với bát cháo hành tình người ấy đã khiến hắn thức tỉnh, hồi sinh và khao khát muốn làm người lương thiện, muốn sống cuộc sống để yêu thương và được yêu thương. Bát cháo hành dù chỉ một lần được ăn nhưng nó đã cảm hóa được con quỷ dữ trong Chí. Tình thương, sự cảm thông ấy của thị đến một cách tự nhiên và bình dị nhất khiến Chí ngạc nhiên và xúc động giọt nước mắt con người đã chảy ra bởi đây là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. “Xưa nay nào hắn thấy ai tự nhiên cho hắn cái gì. Hắn vẫn phải dọa nạt hay cướp giật. Hẳn là phải làm cho người ta sợ.” Ấy thế mà giờ đây hắn hiền như cục đất, mắt hắn hình như ươn ướt. Hắn cảm động bởi sự chân thành của thị, bát cháo hành là hiện thân cho tình người ấm áp, là thuốc giải độc cho cơn sốt bất thường và chữa lành vết thương tâm hồn quặt què bấy lâu nay trong Chí. Chi tiết bát cháo hành trong tác phẩm “Chí Phèo” đẩy mấu chốt của câu chuyện phát triển lên một bước, là điều kiện để Nam Cao khắc họa tâm lí nhân vật, bộc lộ phần người bị vùi lấp trong Chí trỗi dậy, khám phá vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách đáng trân trọng của người đàn bà xấu xí là thị Nở. Qua đó nhà văn thể hiện tư tưởng nhân văn của mình luôn tin vào sự tốt đẹp trong con người lương thiện và khẳng định chỉ có tình người mới cảm hóa được tội ác.
Chi tiết bát cháo cám trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân cũng mang một nét đẹp và giá trị nghệ thuật riêng. Trong nạn đói Ất Dậu năm ấy khiến cho bao nhiêu người dân Việt Nam phải thiệt mạng vì giặc đói hoành hành. Hai mẹ con bà cụ Tứ và thị là những nạn nhân tiêu biểu nhưng cơ duyên và tình thương đã đưa họ về cùng một nhà. Hôm ấy trong bữa cơm đầu tiên đón dâu mới đáng lẽ người ta phải đãi nhau rượu thịt để chúc mừng hạnh phúc thì bà cụ Tứ lại đãi nàng dâu bát cháo cám. Nghe có vẻ nghịch lí nhưng trong hoàn cảnh đó là một “món sang” bởi “xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Bát cháo cám đắng chát nghẹn bứ ở cổ nhưng lại có ý nghĩa nhân sinh. Bởi đây là bát cháo của tình thương yêu những người trong gia đình dành cho nhau, bát cháo của những ngày đói khát khó khăn nhưng lại lóe lên hy vọng về một tương lai ngày mai. Bát cháo làm thay đổi tâm lí nhân vật khiến cho bà cụ Tứ_một bà mẹ yêu thương con dù nghèo đói nhưng vẫn cố gắng cưu mang thị, dù đã gần đất xa trời nhưng bà vẫn giàu niềm tin, hy vọng động viên đôi vợ chồng trẻ cố gắng làm ăn “không ai giàu ba họ không ai khó ba đời”, bát cháo khiến cô con dâu hiểu cho hoàn cảnh của gia đình mà thay đổi tính nết không còn “chỏn lỏn”, chua chát như trước. Bát cháo cám là hạnh phúc gia đình trong những ngày đói khát cùng cực.
Như vậy, hình ảnh hai bát cháo có nhiều nét tương đồng sâu sắc. Đó đều là bát cháo bình dị của nông thôn nghèo khó chẳng có thịt đậm hương thơm ngon ngọt mà chỉ là những thứ đơn giản nhất của người nhà nông thậm chí là còn không được nấu bằng gạo mà bằng cám. Tuy nhiên đó là bát cháo hiện thân của tình người đầy bao dung, ấm áp, bát cháo cho con người ta thêm hy vọng để sống có ích có ý nghĩa hơn. Bát cháo hành của thị cho Chí sự hồi sinh và hạnh phúc làm người, bát cháo cám của bà cụ Tứ cho đôi vợ chồng lời động viên chân thành và niềm tin để vượt qua những tháng ngày đói khát cùng cực.
Hình ảnh hai bát cháo mang giá trị hiện thực nghiệt ngã. Chí bị xã hội ruồng bỏ, “Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi khi hắn qua” chỉ có thị là thấy hắn hiền như đất, chỉ có thị là cảm thông và thấu hiểu cho hoàn cảnh của hắn để rồi chỉ một bát cháo và sự chân thành cảm hóa được Chí. Bát cháo cám là hiện hữu của cái nghèo, đói đến đáng sợ. Hiện thực qua hai bát cháo tố cáo xã hội đã đẩy người nông dân như Chí đến mức đường cùng của của thú dữ, đẩy những người nghèo khổ như gia đình Tràng rơi vào hoàn cảnh éo le bên bờ vực giữa sự sống và cái chết mong manh.
Từ giá trị hiện thực ấy mà làm nổi bật lên giá trị nhân đạo, tư tưởng, tình cảm của tác giả được thể hiện và gửi gắm thông điệp đến bạn đọc. Bát cháo hành minh chứng cho sức mạnh của tình người, Nam Cao luôn tin vào giá trị tốt đẹp của con người không bao giờ bị mất đi mà chỉ cần có cơ hội lại trỗi dậy đòi quyền sống mãnh liệt. Bát cháo cám cho ta hy vọng dù đứng bên ranh giới sống chết nhưng con người ta vẫn luôn có niềm tin, động viên lẫn nhau cùng vượt qua khó khăn làm nên điều khác biệt khi cùng viết về người nông dân Kim Lân đã từng nói: "Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người." Dù chỉ xuất hiện ở cuối tác phẩm nhưng chi tiết hai bát cháo rất có ý nghĩa, để lại sự suy tư và ám ảnh cho độc giả.
Mỗi một nhà văn ở một giai đoạn khác nhau nên có cái nhìn và quan điểm khác nhau khi đối diện với hiện thực. Nam Cao viết “Chí Phèo” trước cách mạng tháng Tám nên cái nhìn của ông đối với người nông dân ở giai đoạn này là bế tắc, tuyệt vọng nên kết thúc truyện là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, Chí đã cầm dao đâm chết Bá Kiến và tự sát, thị nhìn xuống cái bụng của mình và hình ảnh cái lò gạch cũ lại thoáng hiện lên. Kim Lân thì lại khác tác phẩm “Vợ nhặt” được viết ngay sau cách mạng tháng Tám thành công nên người nông dân trong truyện luôn có niềm tin vào cuộc sống mới, đặc biệt là kết thúc nhà văn để hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới xuất hiện. Quan điểm tưởng khác nhau nên mới tạo ra sự khác biệt. Cùng viết về một đề tài là người nông dân nhưng trong mỗi tác phẩm người nông dân lại hiện lên khác nhau trong suy nghĩ cho thấy nét độc đáo riêng, thể hiện phong cách văn chương của mỗi nhà văn.
Như vậy chi tiết bát cháo hành trong “Chí Phèo” của Nam Cao và bát cháo cám trong “Vợ nhặt” của Kim Lân có nhiều giá trị về cả nội dung và nghệ thuật làm nên sự thành công của tác phẩm có đóng góp cho nền văn học dân tộc. Hai bát cháo mang giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc để lại ấn tượng độc đáo trong trong lòng độc giả. Gập lại trang sách nhưng ắt hẳn chúng ta không thể quên bát cháo hành tình người và bát cháo cám tình thương đầy suy ngẫm, trăn trở cho giá trị sống, giá trị làm người khi có mặt ở trên đời.
7. So sánh hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và cháo cám trong Vợ nhặt mẫu 5
Một tác phẩm văn học chạm được đến trái tim người đọc không phải là những trang viết có ngôn từ trau chuốt, mượt mà, dùng từ đắc địa. Kỳ thực một tác phẩm có thể khiến người đọc thấy ngấm phải là tác phẩm có những "chi tiết đắt", là điểm sáng thổi bùng lên chủ đề tác phẩm. Nam Cao đã đưa chi tiết "bát cháo hành" đầy tính nhân văn trong truyện ngắn "Chí Phèo", và Kim Lân đã rất thành công khi đưa hình ảnh "Nồi cháo cám" vào trong tác phẩm, giữa nạn đói năm 1945 đang hoành hành. Chi tiết "Nồi cháo cám" trong truyện ngắn "Vợ nhặt" có thể xem là đầy dụng ý nghệ thuật và giàu tính nhân văn.
"Vợ nhặt" là một truyện ngắn tái hiện lại cuộc sống cùng cực, thê thảm, nhưng không bế tắc của những con người sống giữa nạn đói năm 1945. Kim Lân đã khắc họa thành công hình ảnh bà cụ Tứ, anh cu Tràng, vợ Tràng. Và hơn hết chỉ có một chi tiết nhỏ "Nồi cháo cám" ở giữa truyện dường như đã đẩy cao trào cái đói khổ lên tận cùng và cũng đẩy tình yêu thương và lòng vị tha của người mẹ đến ngưỡng cao nhất. Người đọc khi gấp trang sách lại sẽ bị ám ảnh bởi chi tiết này, cảnh tượng nạn đói năm 1945 dường như hiển hiện ra ngay trước mặt.
Tác giả đã rất khéo léo để lựa chọn đưa chi tiết "nồi cháo cám" vào câu chuyện nhặt được vợ của anh cu Tràng. Thời điểm này đã nói lên tất cả nỗi cơ cực, đường cùng của những nạn nhân năm 1945 và cũng qua đó mới thấy được tình thương yêu bao la, vô bờ bến của người mẹ. Giữa cái đói nhưng tình yêu thương vẫn không bị mai một, nó vẫn luôn bùng cháy, chỉ là đôi lúc nó ngấm ngầm chảy trong người.
"Nồi cháo cám" không phải xuất hiện trong một bữa ăn bình thường mà xuất hiện ngay trong buổi sáng hôm sau, buổi sáng đầu tiên của "lễ ra mắt con dâu", đáng nhẽ ra như bà cụ Tứ đã nói "kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy nhưng nhà mình nghèo quá, cũng chả ai chấp nhặt gì lúc này". Cái sự tình khốn khổ, nghèo đói giữa năm 1945 này thật khiến co người ta phải nghẹn ngào.
Bữa cơm đón dâu giữa nạn đói thực sự thê thảm, "giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành". Cái không khí đói bao trùm nhưng ai cũng biết, ai cũng nén trong lòng, không bộc lộ ra bên ngoài. Điều đáng nói hơn hết là trong bữa cơm ngày đói này, tâm trạng của bà cụ Tứ khác hẳn, bà không rủ rũ như mọi ngày, bà kể toàn chuyện vui, nói toàn chuyện hay. Đây có thể xem là sự chuyển biến tâm lý đột ngột của người đàn bà nghèo khổ. Người mẹ này tuy nghèo đói một đời nhưng rất biết cách chiều con, với lại nhà lại có thêm cô con dâu mới giữa cảnh đói kém triền miên. Có thể nói những lời bà cụ Tứ nói đều gợi mở lên một tương lai tươi sáng của con người và của đất nước.
Nhưng có một chi tiết chuyển biến để nhấn mạnh hình ảnh "nồi cháo cám" khiến người đọc không kìm nổi xúc động "bà lật đật chạy xuống bếp, lễ bễ bưng ra một cái nồi bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy vừa nói". Sau đó chính là lời thoại của chính bà cụ Tứ, lời thoại chan chat, nghẹn ứ ở trong lòng như chính "nồi cháo cám" ấy:
"Chè khoái đấy, ngon đáo để" và "Cám đấy mày ạ, xóm mình còn có khối người không có cám mà ăn ấy chứ". Một chi tiết thật đắt giá, một chi tiết gợi lên cái đói, cái nghèo đến cùng cực. Mặc dù ăn cháo cám nhưng ba mẹ con không ai than hay chê trách, ai cũng ăn một cách ngon lành. Bởi đây là nồi cháo yêu thương, nồi cháo đong đầy tình mẹ và nồi cháo của sự yêu thương và lòng vị tha. Người đọc sẽ thấy được rằng giữa cái đói nghèo cùng cực nhưng tình mẹ vẫn luôn bất diệt, luôn vĩnh cửu không bao giờ thay đổi. Bởi rằng trong suy nghĩ của bà cụ Tứ thì "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời" nên bà vẫn luôn vạch ra trước mắt của hai đứa con một viễn cảnh tươi sáng nhất.
Chi tiết "nồi cháo cám" vừa có giá trị hiện thực sâu sắc vừa có giá trị nhân đạo, chạm đến trái tim người đọc. Về giá trị hiện thực "nồi cháo cám" tái hiện lại cuộc sống nghèo khổ, túng quẫn đến cùng cực của nạn đói năm 1945. Giữa khung cảnh ấy hiện lên những con người nghèo khổ đến tận cùng của xã hội, tưởng rằng sẽ không còn một lối thoát nào cho tương lai. Nồi cháo cám ấy cho đến bây giờ vẫn ám ảnh tâm trí của người đọc, bởi nó có sức ám ảnh quá lớn.
Bên cạnh đó, "nồi cháo cám" còn mang giá trị nhân văn sâu sắc, là tấm lòng người mẹ nghèo thực sự đáng trân trọng. Dù đói khổ nhưng bà cụ Tứ luôn dành những yêu thương, những ân cần sâu sắc nhất đối với con.
Ngoài giá trị nội dung thì chi tiết "nồi cháo cám" còn mang giá trị nghệ thuật, bởi đây là một chi tiết nghệ thuật, tự bản thân của hình ảnh đó đã mang giá trị trong mình, khiến cho cả câu truyện ngắn trở nên tươi đẹp và ấm áp hơn trong cảnh đói nghèo, chết chóc.
Gấp lại trang sách, hình ảnh "nồi cháo cám" của Kim Lân vẫn luôn quẩn quanh trong tâm trí người đọc. Nó thực sự ám ảnh, thực sự có sức lay động ghê gớm. Nạn đói năm 1945 và những con người thời kỳ đó bằng tình yêu thương và lòng nhân hậu đã có thể vượt qua tất cả.
8. So sánh hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và cháo cám trong Vợ nhặt mẫu 6
Trong tiểu thuyết "Chí Phèo" của Nam Cao và truyện ngắn "Vợ Nhặt" của Kim Lân, những hình ảnh bát cháo hành và bát cháo cám không chỉ là các đối tượng vật chất mà còn là biểu tượng của tình yêu, lòng nhân ái và hy vọng. Hai nhà văn đã sử dụng những hình ảnh này để chứa đựng những giá trị tinh thần sâu sắc, thể hiện sự đồng cảm và nhân quyền.
Hình ảnh bát cháo hành trong "Chí Phèo" không chỉ đơn thuần là một bát cháo, mà là biểu hiện của tình cảm và lòng nhân ái. Khi Thị Nở nấu bát cháo hành mang đến cho Chí Phèo, điều này không chỉ là việc chia sẻ thức ăn mà còn là hành động của lòng yêu thương và chia sẻ. Bát cháo hành không chỉ đem đến dinh dưỡng vật chất cho Chí Phèo mà còn là nguồn động viên tinh thần, giúp anh nhìn thấy sự ấm áp trong thế giới đầy gian khổ mà anh đang sống. Hương vị của cháo hành không chỉ là vị ngon mà còn là hương vị của hy vọng và lòng nhân ái, giúp Chí Phèo nhận ra giá trị của tình thương và nhân quyền. Bát cháo cám trong "Vợ Nhặt" cũng mang một ý nghĩa sâu sắc. Trong cái nghèo đói, người vợ không có nhiều điều kiện để chuẩn bị một bữa ăn ngon lành cho chồng mình. Nhưng ngay cả trong tình cảnh khó khăn nhất, bát cháo cám vẫn là biểu tượng của tình thương, sự quan tâm và hy vọng vào một ngày mai tươi sáng hơn. Bát cháo cám không chỉ là đơn giản là thức ăn mà còn là biểu hiện của lòng quan tâm và lòng nhân ái. Trong tình yêu và sự chia sẻ này, chúng ta nhận thấy sức mạnh của lòng nhân ái và lòng trung hiếu, giúp con người vượt qua mọi khó khăn và thử thách.
Như vậy, cả hai hình ảnh bát cháo hành và bát cháo cám trong văn học Việt Nam đều là biểu tượng của tình yêu, lòng nhân ái và lòng trung hiếu. Chúng là những hình ảnh đẹp và sâu sắc, thể hiện tinh thần cao đẹp của con người trong cuộc sống đầy gian khổ và thách thức. Đồng thời, chúng cũng là nguồn cảm hứng để chúng ta học hỏi và trân trọng giá trị của lòng nhân ái và lòng trung hiếu trong cuộc sống hàng ngày.
Xét từ góc độ nghệ thuật, việc sử dụng bát cháo hành là một chi tiết đầy ý nghĩa trong tác phẩm của Nam Cao. Chi tiết này không chỉ thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện mà còn khắc họa sâu sắc tính cách, tâm lý và bi kịch của nhân vật. Điều này thể hiện một khía cạnh quan trọng của nghệ thuật viết của Nam Cao: tin tưởng vào sức mạnh cảm hoá của tình người.
Nếu so sánh với hình ảnh bát cháo hành, thì chi tiết nồi cháo cám trong tác phẩm "Vợ Nhặt" của Kim Lân cũng là một tượng trưng đầy ý nghĩa. Sự xuất hiện của nồi cháo cám ở cuối truyện, trong bữa cơm đầu tiên đón chào nàng dâu mới của gia đình bà cụ Tứ, tạo ra một sự tương phản đặc biệt. Bởi thông thường, bữa ăn đầu tiên của con dâu về nhà chồng thường phải là một bữa ăn đầy đủ và thịnh soạn. Nhưng ở đây, chúng ta thấy một bữa ăn với mùi vị khó chịu, đáng thương, làm cho người đọc cảm thấy đau đớn và xót xa cho đôi vợ chồng son trong cảnh đói khát.
Từ chi tiết nồi cháo cám, tác giả đã khắc sâu sự nghèo đói, khổ cực và sự cụt hạn của người nông dân trong thời kỳ đói 1945. Chi tiết này là một nút thắt quan trọng để tác giả có thể tập trung sâu vào tính cách của nhân vật trong thế giới truyện. Bà cụ Tứ gọi cháo cám là "chè khoán," bà thể hiện sự vui vẻ, niềm nở, và lòng thương con trong cuộc trò chuyện với các con. Điều này thể hiện tính mẹ nhân hậu, tình thương con, và tinh thần lạc quan của bà. Nồi cháo cám trở thành biểu tượng của tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng. Trong hoàn cảnh đói khát, mẹ con Tràng dám cưu mang, đồng cảm, và chia sẻ sự sống với nàng dâu. Bà cụ Tứ trò chuyện vui vẻ và mang nồi cháo cám ra để làm cho không khí trở nên vui vẻ hơn, dù trong hoàn cảnh khó khăn.
Hai tác phẩm văn học "Chí Phèo" của Nam Cao và "Vợ Nhặt" của Kim Lân đã tạo ra những chi tiết nghệ thuật đặc sắc, biểu hiện cho lòng nhân ái và hy vọng trong bối cảnh khó khăn của xã hội nông dân Việt Nam thời kỳ nạn đói 1945. Cả hai tác giả đã sử dụng những hình ảnh đơn giản nhưng sâu sắc, chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu xa, thể hiện tình cảm và lòng nhân ái của con người.
Trong "Chí Phèo," hình ảnh bát cháo hành không chỉ là một nồi cháo đơn thuần mà còn là biểu tượng của tình yêu và lòng chân thành. Sự đơn giản và bình dị của bát cháo hành làm nổi bật tinh thần lòng nhân ái và lòng chia sẻ của Thị Nở đối với Chí Phèo. Mặc dù xã hội đang bị cấm đoán và cay nghiệt, lòng nhân ái của Thị Nở vẫn sáng lên như một tia hy vọng giữa bóng tối. Trong "Vợ Nhặt," hình ảnh nồi cháo cám cũng chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc. Dù chỉ là một bữa ăn đơn giản nhưng nó thể hiện lòng quan tâm và lòng hy sinh của người vợ dành cho chồng mình. Trong bức tranh đói khổ và nghèo đói, lòng nhân ái và tình thương gia đình vẫn tỏa sáng, tạo ra nguồn động viên mạnh mẽ để vượt qua khó khăn.
Sự khác biệt giữa hai tác phẩm nằm ở cái nhìn của hai tác giả về xã hội và con người. Nam Cao đã chọn cách miêu tả sự đau khổ và bất công trong xã hội bằng cách thể hiện sự tàn nhẫn và vô nhân đạo thông qua việc cấm đoán Chí Phèo, một người nông dân tốt bụng và trung hiếu. Trong khi đó, Kim Lân chọn lối đi lạc quan hơn, tập trung vào lòng nhân ái và lòng chia sẻ của con người giữa những hoàn cảnh khó khăn. Nhìn chung, cả hai tác giả đều đã thành công trong việc chứng minh sức mạnh của tình yêu và lòng nhân ái giữa những khó khăn và bất công của cuộc đời. Các hình ảnh đơn giản nhưng ý nghĩa này đã chạm vào trái tim của độc giả, tạo ra những ấn tượng sâu sắc và lâu dài. Đó chính là sức mạnh của nghệ thuật và văn chương, khi có thể truyền đạt những thông điệp nhân văn và lý tưởng đến độc giả, làm thay đổi nhận thức và tư duy của họ về thế giới xung quanh.
9. So sánh hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và cháo cám trong Vợ nhặt mẫu 7
Bát cháo hành, một chi tiết nhỏ trong cuốn Chí Phèo của Nam Cao, không chỉ là một nồi cháo đơn thuần mà còn là biểu tượng của tình yêu và lòng chân thành. Hình ảnh này xuất hiện ở giữa cuốn truyện, trong một bức tranh đầy sáng tạo và hữu tình. Chí Phèo, một người nông dân nghèo, đầy tâm hồn thuần khiết và trung hiếu, sau một buổi uống rượu cùng bạn bè, trở về căn lều của mình cảm thấy không khỏe. Thị Nở, một người phụ nữ tốt bụng và quan tâm, đã chăm sóc và dìu dắt Chí Phèo về nhà. Dưới bóng trăng nhẹ nhàng, tình yêu giữa họ bắt đầu nảy nở. Tuy nhiên, Chí Phèo cảm thấy không khỏe và bị nôn thốc.
Tại đây, chi tiết bát cháo hành trở thành điểm sáng của tác phẩm. Không chỉ là bữa ăn đơn giản, nó là biểu tượng của lòng nhân ái và sự chia sẻ. Trong lúc Chí Phèo đang bị cảm và yếu đuối, Thị Nở quyết định nấu cháo hành để giải cảm và chia sẻ ấm áp. Mặc cho hoàn cảnh khó khăn, bát cháo hành không chỉ là một bữa ăn, mà là hương vị của hy vọng và lòng chân thành. Nó đánh thức lòng nhân ái của độc giả, làm họ cảm thấy sự ấm áp trong trái tim và nhìn nhận lại giá trị của tình yêu thương con người. Như vậy, bát cháo hành không chỉ là một chi tiết nghệ thuật, mà còn là hình ảnh của lòng nhân ái và lòng chân thành, gợi nhắc cho độc giả về giá trị của tình thương trong cuộc sống, ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Chí Phèo và Thị Nở là hai nhân vật từ cuốn tiểu thuyết nổi tiếng "Chí Phèo" của nhà văn Nam Cao. Trong cuộc sống nghèo khó của họ, chi tiết bát cháo hành trở thành biểu tượng của lòng nhân ái và lòng chân thành trong tình yêu. Chí Phèo, một người nông dân nghèo, tốt bụng và thuần khiết, sau một buổi uống rượu với bạn bè, trở về nhà mệt mỏi và yếu đuối. Thị Nở, người phụ nữ yêu thương và quan tâm, lo lắng cho sức khỏe của Chí Phèo. Dưới ánh trăng nhẹ nhàng, hình ảnh họ gặp nhau và tình cảm giữa họ bắt đầu nảy nở.
Khi Chí Phèo bị nôn thốc và yếu đuối, Thị Nở quyết định nấu bát cháo hành để giúp anh ấy giải cảm và hồi phục sức khỏe. Bát cháo hành không chỉ là một bữa ăn đơn giản, mà là biểu tượng của lòng nhân ái và lòng chân thành. Trong hoàn cảnh khó khăn, Thị Nở vẫn tìm cách chia sẻ và chăm sóc cho Chí Phèo. Hành động nhỏ này không chỉ là biểu hiện của tình yêu và sự quan tâm, mà còn là minh chứng cho lòng trung hiếu và lòng chân thành không điều kiện trong tình yêu và gia đình. Như vậy, bát cháo hành không chỉ là một chi tiết nghệ thuật, mà còn là biểu tượng của lòng nhân ái và lòng chân thành, làm cho độc giả cảm thấy sự ấm áp và tình yêu trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Nó gợi nhắc chúng ta về giá trị của tình thương và lòng trung hiếu trong cuộc sống hàng ngày, làm cho tác phẩm của Nam Cao trở nên sống động và gần gũi với độc giả. Bát cháo hành không chỉ là một nồi cháo, mà là biểu hiện của tình yêu và lòng chân thành không điều kiện, làm cho độc giả cảm thấy sự ấm áp và tình yêu trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Nó gợi nhắc chúng ta về giá trị của tình thương và lòng trung hiếu trong cuộc sống hàng ngày, làm cho tác phẩm của Nam Cao trở nên sống động và gần gũi với độc giả.
Bát cháo hành không chỉ đơn giản là món ăn trong truyện mà nó là biểu tượng của tình yêu, lòng nhân ái và sự thay đổi trong cuộc sống của Thị Nở và Chí Phèo. Đây là một chi tiết rất quan trọng thể hiện sự quan tâm và chăm sóc ân cần của Thị Nở đối với Chí Phèo, mà không hề có vụ lợi hay toan tính nào. Sau đêm ấy, khi họ đã trải qua đêm ăn nằm cùng nhau, Thị Nở cảm thấy trách nhiệm phải quan tâm và giúp đỡ Chí Phèo. Tình yêu thương và sự thông cảm của Thị Nở dành cho Chí Phèo xuất phát từ nhận thức về sự đau khổ của Chí và cảm giác đáng thương đối với anh chàng liều lĩnh này. Bát cháo hành không chỉ là một bữa ăn, mà nó còn đại diện cho niềm tin, tình thương và hy vọng. Trong hoàn cảnh đói đầu, bát cháo cám của gia đình Tràng là món ăn duy nhất, và từ đó, nó trở thành một biểu tượng của tình thân và tình người. Bà cụ Tứ, bằng cách gọi cháo cám là "chè khoán" và chia sẻ nó, thể hiện tình mẹ nhân hậu, lòng thương con, và tinh thần lạc quan. Nồi cháo cám trở thành điểm sáng trong cuộc sống đau khổ, và nó tạo nên không khí vui vẻ cho bữa cơm. Ngoài ra, bát cháo không chỉ có giá trị về mặt vật chất mà còn là nguồn an ủi tinh thần lớn lao cho Chí Phèo. Đây là tình người độc đáo mà Chí Phèo nhận được trong khi tất cả mọi người đều xa lánh và gạt bỏ anh. Bát cháo giúp Chí Phèo vượt qua mệt mỏi thể xác và đồng thời thanh lọc tâm hồn anh. Nó thúc đẩy Chí Phèo suy nghĩ về cuộc đời thảm thương của mình và khao khát trở thành một người lương thiện, muốn làm hòa với mọi người. Chí Phèo nhận ra rằng Thị Nở có thể là người mở đường cho một cuộc sống mới và tốt hơn. Bát cháo hành đã đánh thức phần người, phần nhân tính trong Chí Phèo, mà suốt thời gian dài bị che khuất.
Hai chi tiết nghệ thuật này thực sự là những biểu tượng đầy ý nghĩa về tình yêu, lòng nhân ái và sự thay đổi của con người trong hoàn cảnh khó khăn. Chí Phèo và Thị Nở đều là những nhân vật bị xã hội coi là bất lương và đẩy ra bên lề, nhưng qua những hành động như bát cháo hành và nồi cháo cám, họ đã tìm thấy sự đồng cảm, lòng nhân ái và tình thương chân thành. Các tác giả đã tạo ra những tình huống và chi tiết này để khám phá tính cách của nhân vật và truyền đạt thông điệp về tình người và niềm tin vào sức mạnh của tình yêu và lòng nhân ái.
Sự khác biệt giữa hai chi tiết này còn phản ánh phong cách sáng tạo của hai tác giả. Trong trường hợp của Nam Cao, bát cháo hành thể hiện sự chân thành và không toan tính của Thị Nở đối với Chí Phèo trong một tình huống đặc biệt khó khăn. Đây là một tình yêu thương chân thành và tốt lành, giúp người đọc thấy được bản chất đạo đức của nhân vật. Trong khi đó, nồi cháo cám của Kim Lân đánh dấu sự kết hợp giữa tình thương và niềm tin vào tương lai. Nó là biểu tượng của lòng nhân ái và hy vọng vào một cuộc sống tốt đẹp hơn, và làm nổi bật sự lạc quan và tin tưởng vào tương lai của nhân vật.
Cả hai tác giả đã sử dụng các chi tiết nghệ thuật này để thể hiện tấm lòng nhân đạo rộng lớn và niềm tin vào sức mạnh của tình yêu thương và lòng nhân ái. Đồng thời, họ cũng thể hiện tài năng nghệ thuật xuất sắc thông qua việc xây dựng những tình huống và nhân vật đầy ý nghĩa trong tác phẩm của mình.
10. So sánh hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và cháo cám trong Vợ nhặt mẫu 8
Trong thế giới văn học, mỗi tác phẩm không chỉ là một trang sách, mà còn là một thế giới tinh tế, nơi tác giả truyền đạt tri thức, đạo lý, và tình cảm của mình. Nam Cao và Kim Lân, hai tài năng văn chương nổi bật của Việt Nam, đã khắc sâu những chi tiết nghệ thuật đặc biệt trong tác phẩm của mình, tạo ra những hình ảnh và ý nghĩa không thể phai mờ theo thời gian.
Chi tiết bát cháo hành trong "Chí Phèo" là một hình ảnh đậm chất nhân văn và tình người. Trong cuộc đời khắc nghiệt và tăm tối của Chí Phèo, bát cháo hành không chỉ là thức ăn dành cho cơ thể, mà còn là tia sáng hy vọng và lòng trung hiếu. Thị Nở, bằng sự chân thành và tâm huyết của mình, đã tặng Chí Phèo một bát cháo hành ấm áp. Đó không chỉ là hành động nhân ái, mà còn là cách để Chí Phèo nhận ra giá trị của tình người và trở thành người lương thiện. Chi tiết này không chỉ là một bữa ăn, mà còn là biểu tượng của sự thức tỉnh tâm hồn, là nguồn động viên để Chí Phèo thay đổi và hồi sinh. Tương tự, chi tiết nồi cháo cám trong "Vợ Nhặt" của Kim Lân cũng mang một ý nghĩa sâu sắc về lòng nhân ái và lòng trung hiếu. Trong hoàn cảnh khó khăn và đói kém, nồi cháo cám không chỉ là thức ăn dành cho cơ thể, mà còn là biểu hiện của lòng yêu thương không điều kiện. Bà cụ Tứ, với trái tim nhân ái và lòng mẫu thân cao quý, đã nấu nồi cháo cám để chia sẻ với đôi vợ chồng trẻ. Đó không chỉ là hành động của một người mẹ, mà còn là biểu tượng của lòng trung hiếu và lòng nhân ái không biên giới. Chi tiết này không chỉ là một bữa ăn, mà còn là ngôn ngữ của tình thương, là cách để nhấn mạnh sức mạnh của lòng yêu thương và lòng nhân ái.
Những chi tiết như bát cháo hành và nồi cháo cám không chỉ là yếu tố nghệ thuật, mà còn là những biểu hiện của lòng nhân ái và lòng yêu thương không điều kiện trong văn học. Chúng là những hình ảnh sống động về tình người và lòng trung hiếu, là nguồn động viên vĩnh cửu cho độc giả nhớ mãi và suy ngẫm về ý nghĩa của tình thương và lòng nhân ái trong cuộc sống. Hai chi tiết bát cháo trong "Vợ nhặt" của Kim Lân thực sự có giá trị nghệ thuật và tượng trưng sâu sắc. Trong bối cảnh đói nghèo và khó khăn của năm Ất Dậu, bát cháo cám và bát cháo hành trở thành những biểu tượng của tình thương và tình yêu gia đình trong hoàn cảnh khó khăn. Điều này thể hiện rằng, ngay cả trong những thời kỳ khó khăn nhất, tình yêu gia đình vẫn luôn tồn tại và là nguồn động viên, hy vọng cho con người.
Bát cháo cám là một biểu tượng của tình thương và lòng nhân ái của bà cụ Tứ. Dù trong hoàn cảnh nghèo đói, bà vẫn chia sẻ với con dâu mới bằng món ăn này. Điều này thể hiện tấm lòng nhân đạo và lòng mẹ yêu thương con của bà. Bát cháo cám có thể đắng chát nhưng nó mang ý nghĩa to lớn về tình thương gia đình và hy vọng vào tương lai tốt đẹp hơn. Bát cháo hành của Thị Nở cho Chí Phèo thể hiện sự quan tâm và tình yêu thương chân thành. Trong bàn ăn đầu tiên, mọi người nên đãi nhau rượu thịt để chúc mừng, nhưng Thị Nở đã dành sự quan tâm đặc biệt cho Chí Phèo bằng món bát cháo hành. Điều này thể hiện sự tốt lành và lòng nhân ái của Thị Nở, và nó cũng có tác dụng lớn đối với tâm hồn của Chí Phèo, giúp anh thấy được sự ấm áp và yêu thương mà anh không thường được trải qua. Bát cháo hành giúp Chí Phèo suy nghĩ về cuộc đời và khát khao trở thành người lương thiện.
Những hình ảnh về hai bát cháo trong "Chí Phèo" của Nam Cao và "Vợ Nhặt" của Kim Lân thực sự có giá trị và ý nghĩa sâu sắc trong cả nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm. Chúng tượng trưng cho tình người, tình thương gia đình và cả lòng nhân đạo trong cuộc sống khó khăn. Hai bát cháo này là biểu tượng của sự bao dung, ấm áp và hy vọng trong tình yêu thương và cuộc sống hàng ngày. Bát cháo hành của Thị Nở cho Chí Phèo trong "Chí Phèo" thể hiện sự chăm sóc và quan tâm của người thương. Trong hoàn cảnh khó khăn và tình cảnh tội lỗi của Chí, bát cháo này không chỉ đơn thuần là một bữa ăn mà còn là biểu tượng của sự hồi sinh và hạnh phúc trong cuộc sống. Nó giúp Chí Phèo cảm nhận được tình người và quyết tâm thay đổi cuộc đời mình. Bát cháo cám của bà cụ Tứ trong "Vợ Nhặt" của Kim Lân cũng mang trong mình ý nghĩa rất sâu sắc. Trong giai đoạn đói nghèo Ất Dậu, nó thể hiện sự khốn khó và đau đớn của nhân dân. Tuy nhiên, nó cũng là biểu tượng của tình thương gia đình và hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn. Bát cháo này đã thay đổi tâm hồn của nhân vật, làm cho bà cụ Tứ và đôi vợ chồng trẻ có thêm niềm tin và động viên để vượt qua khó khăn.
Ngoài ra, hai bát cháo này còn thể hiện hiện thực xã hội khắc nghiệt và nghị lực của con người. Trong "Chí Phèo," Chí bị xã hội cô lập và coi là kẻ ác, nhưng chỉ có Thị Nở hiểu và quan tâm đến anh. Trái lại, trong "Vợ Nhặt," bà cụ Tứ và gia đình Tràng phải đối mặt với đói khát và khó khăn, nhưng họ vẫn giữ vững lòng lương thiện và hy vọng vào tương lai. Cuối cùng, những chi tiết này thể hiện sự khác biệt trong quan điểm và phong cách sáng tác của các tác giả. Nam Cao thể hiện sự tuyệt vọng và bi kịch của con người trong hoàn cảnh khó khăn, trong khi Kim Lân lạc quan và tin tưởng vào khả năng con người vượt qua khó khăn. Hai bát cháo này cùng làm nổi bật giá trị nhân đạo, tình yêu thương và nghị lực của con người trong cuộc sống khắc nghiệt, đồng thời gửi thông điệp đầy ý nghĩa đến độc giả.
11. So sánh hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và cháo cám trong Vợ nhặt mẫu 9
Bên cạnh dòng văn học này thì văn học hiện thực Việt Nam cũng đạt được nhiều thành công vang dội, với các tác phẩm xuất sắc. Trong danh sách các ngôi sao của dòng văn học hiện thực ta không thể không nhắc tên Nam Cao và Kim Lân. Nam Cao là cây viết hiện thực xuất sắc với tác phẩm nổi tiếng Chí Phèo – là kết tinh nghệ thuật của cuộc đời nhà văn ông. Câu chuyện Kim Lân có sở trường viết truyện về nông thôn và người phụ nữ với tác phẩm để đời Vợ nhặt. Ở cả hai tác phẩm trên còn có các chi tiết nghệ thuật đặc sắc bát cháo hành (Chí Phèo) và nồi cháo cám (Vợ nhặt) phần nào phản ánh tính cách cũng như tài năng nghệ thuật của hai tác giả.
Chi tiết bát cháo hành xuất hiện ở đoạn giữa của tác phẩm Chí Phèo. Chí Phèo sau khi đi uống rượu nhà Tư Lãng rồi trở về căn lều của mình, trên đường trở về hắn thấy mệt nên không về nhà ngay mà lại nhảy xuống sông tự tử, ở đây hắn đã bắt gặp thị Nở đang say nằm dưới bụi chuối. Dưới ánh trăng mờ, khung cảnh nên thơ đã nảy nở tình yêu của thị Nở và Chí Phèo. Đến nửa đêm, Chí Phèo bị ốm, nôn thốc, ói tháo chính thị Nở là người đã đưa Chí vào viện, thay lại chiếc chiếu rồi trở về nhà. Song khi về đến nhà thị nở chưa thể yên tâm, vì làm Thổ trận đó rất là khó. Phải gọi là hôm nay nhọc đừ, thương anh Chí chỉ có một mình thị Nở quyết sẽ làm cháo để giúp Chí Phèo giải cảm. Bát cháo hành là chi tiết nghệ thuật đầy tinh tế và có giá trị cao.
Bát cháo là những quan tâm, săn sóc chu đáo không chút toan tính của thị Nở dành cho Chí Phèo. Sau những lần ân ái với nhau thị cảm thấy mình có nghĩa vụ phải biết quan tâm, giúp đỡ Chí Phèo. Sau sâu xa hơn nữa, nó lại xuất phát từ tình cảm yêu thương Thị dành cho Chí: Cái thằng điên đó kể ra cũng đáng thương, không gì đáng sợ bằng ốm đau phải nằm liệt một mình. Đây mới là nguyên nhân sâu xa đưa ra hành động thị dành tặng Chí. Không chỉ thế, bát cháo hành đã khơi nguồn và nuôi dưỡng tình cảm tốt đẹp của hai con người bất hạnh. Còn trên một khía cạnh khác nữa, thị Nở cũng là kẻ bị đẩy ra ngoài rìa của xã hội, không tìm kiếm được tình yêu, song chính vì có bát cháo hành mà thị đã thật sự được thực hiện thiên chức của một người phụ nữ, được quan tâm chăm lo đến người đáng thương.
Chi tiết bát cháo hành cũng có giá trị cao về mặt nghệ thuật. Với chi tiết này đã giúp thể hiện tính cách nhân vật: Thị Nở yêu thương và quan tâm người ta hết mực, Chí Phèo khôi phục lại nhân tính bị vùi lấp. Không những thế chi tiết trên cũng góp phần kích thích truyện phát triển và hình thành ra kết cấu nhân vật hợp lý, logic. Trong tác phẩm thể hiện tư tưởng nhân văn lớn của Nam Cao: tin ở sức mạnh của việc tha thứ.
Cũng tương tự chi tiết bát cháo hành, chi tiết nồi cháo cám trong Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân cũng chứa đựng những giá trị sâu sắc. Chi tiết này xuất hiện ở cuối tác phẩm, trong bữa cơm đầu tiên khi cô vợ mới bước chân đến nhà anh cu Tràng. Đó cháo cám đắng ngắt, song họ chỉ im lặng thưởng thức và không ai chia sẻ với nhau lời chi nữa.
Trong nạn đói năm 1945 khiến nhiều nghìn người chết đói, dù nồi cháo cám ấy có đắng chát cũng là phương tiện giúp gia đình Tràng xua cái nghèo, đây cũng có thể xem là buổi lễ mừng thọ cho con dâu mới về. Điều ấy đã cho thấy tình trạng đói nghèo cùng cuộc sống khổ cực của người dân việt nam tại thời điểm năm 1945. Vợ chồng hơn hết, chi tiết nồi cháo cám đã giúp thể hiện tính cách nhân vật. Nồi cháo cám được bà cụ Tứ niềm nở bưng ra, đã cho thấy đó là một người phụ nữ đảm đang và yêu thương con hết lòng. Trong cuộc sống cực khổ như thế, song bà luôn tìm mọi cách có thể mang đến niềm hạnh phúc nho nhỏ cho đôi vợ chồng trẻ. Khó khăn người vợ đanh đá, tính lẳng lơ, thủ đoạn đã biến đi đâu hết, thay thế vào đấy là người phụ nữ điềm đạm, bình thản: người con dâu cầm lấy chiếc bát, đặt trên mắt xem, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng. Người con dâu ấy đã có những chuyển biến về tính cách, thích nghi cuộc sống và trong cô cũng tự tin sẽ giúp gia đình nhỏ mới này trải qua tất cả khó khăn. Họ thế, nồi cháo cám chính là biểu trưng của tình người, của niềm vui và hy vọng. Trong hoàn cảnh khó khăn, họ cũng không ngần ngại nuôi thêm một người để tồn tại trong tình yêu thương và giúp đỡ của nhau. Quanh nồi cháo cám, bà cụ Tứ nói về niềm hy vọng và tương lai tốt đẹp sẽ vực lại vào cuộc sống mới tươi sáng cùng với đôi vợ chồng trẻ.