Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm
Đóng
Điểm danh hàng ngày
  • Hôm nay +3
  • Ngày 2 +3
  • Ngày 3 +3
  • Ngày 4 +3
  • Ngày 5 +3
  • Ngày 6 +3
  • Ngày 7 +5
Bạn đã điểm danh Hôm nay và nhận 3 điểm!
Nhắn tin Zalo VNDOC để nhận tư vấn mua gói Thành viên hoặc tải tài liệu Hotline hỗ trợ: 0936 120 169
Đóng
Bạn đã dùng hết 1 lần làm bài Trắc nghiệm miễn phí. Mời bạn mua tài khoản VnDoc PRO để tiếp tục! Tìm hiểu thêm

Trắc nghiệm Ngữ văn 9 bài 6: Viết bài văn nghị luận về một vấn đề cần giải quyết

Trắc nghiệm Ngữ văn 9 Chân trời bài 6: Viết bài văn nghị luận về một vấn đề cần giải quyết, với hệ thống câu hỏi đa dạng mức độ, chuẩn kiến thức, bám sát chương trình, phủ đủ bài học đi kèm đáp án chi tiết, không chỉ giúp kiểm tra kiến thức mà còn là cách học chủ động, thông minh.

Đây là tài liệu học, luyện tập, ôn thi hiệu quả, mời các thầy cô và học sinh hãy cùng khám phá ngay để nâng cao hiệu quả dạy – học môn Ngữ văn 9, có phần xem kết quả để so sánh kết quả bài làm của mình.

Nhận biết Thông hiểu Vận dụng Vận dụng cao
  • Bài kiểm tra này bao gồm 20 câu
  • Điểm số bài kiểm tra: 20 điểm
  • Xem lại kỹ lý thuyết trước khi làm bài
  • Chuẩn bị giấy và bút để nháp trước khi bắt đầu
Bắt đầu!!
00:00:00
  • Câu 1: Vận dụng cao
    Đoạn văn sau nói về nội dung gì? Việt Nam đã được quốc tế công nhận là một trong những quốc gia có tính đa dạng sinh học cao nhất trên thế giới (xếp hạng 16/25 nước có mức độ đa dạng sinh học cao ở trên thế giới), với nhiều kiểu rừng, sông suối, đầm lầy, rặng san hô... tạo nên môi trường sống dành cho khoảng 10% tổng số loài chim và thú hoang dã ở trên thế giới. Nước ta còn được biết đến là một trong 8 "trung tâm giống gốc" của những loại cây trồng, vật nuôi, trong đó có đến hàng chục giống gia súc và gia cầm. Hệ sinh thái của Việt Nam vô cùng phong phú, bao gồm 11.458 loài động vật, trên 21.000 loài thực vật và có khoảng 3.000 loài vi sinh vật, trong đó có rất nhiều loài được sử dụng nhằm cung cấp vật liệu di truyền. Tuy vậy hiện nay tài nguyên thiên nhiên ở trên thế giới nói chung và ở nước ta nói riêng đang bị đe dọa một cách rất nghiêm trọng. Nước ta rừng vàng, biển bạc với đất phì nhiêu nhưng chúng ta quá chủ quan và đã phí phạm quá nhiều những tài nguyên này.
  • Câu 2: Vận dụng cao
    Tài nguyên thiên nhiên là những của cải đã có sẵn trong tự nhiên. Con người khai thác và sử dụng chúng cho lợi ích của cá nhân và cộng đồng. Tuy nhiên nguồn tài nguyên thiên nhiên có trong tự nhiên không phải là vô tận. Do đó con người phải biết cách để khai thác sao cho hợp lý để chúng phục vụ cho lợi ích của con người một cách có hiệu quả. Việt Nam đã được quốc tế công nhận là một trong những quốc gia có tính đa dạng sinh học cao nhất trên thế giới (xếp hạng 16/25 nước có mức độ đa dạng sinh học cao ở trên thế giới), với nhiều kiểu rừng, sông suối, đầm lầy, rặng san hô... tạo nên môi trường sống dành cho khoảng 10% tổng số loài chim và thú hoang dã ở trên thế giới. Nước ta còn được biết đến là một trong 8 "trung tâm giống gốc" của những loại cây trồng, vật nuôi, trong đó có đến hàng chục giống gia súc và gia cầm. Hệ sinh thái của Việt Nam vô cùng phong phú, bao gồm 11.458 loài động vật, trên 21.000 loài thực vật và có khoảng 3.000 loài vi sinh vật, trong đó có rất nhiều loài được sử dụng nhằm cung cấp vật liệu di truyền. Tuy vậy hiện nay tài nguyên thiên nhiên ở trên thế giới nói chung và ở nước ta nói riêng đang bị đe dọa một cách rất nghiêm trọng. Nước ta rừng vàng, biển bạc với đất phì nhiêu nhưng chúng ta quá chủ quan và đã phí phạm quá nhiều những tài nguyên này. Chúng ta giết động vật và chăn nuôi không giới hạn, phá rừng, lại làm quá nhiều thủy điện, đánh bắt cá không có giới hạn, ô nhiễm môi trường vẫn tiếp tục gia tăng. Hậu quả của những việc này chúng ta đã thấy ngay trước mặt, đó là cứ hàng năm chúng ta lại phải chịu thiên tai càng nhiều hơn và nặng nề hơn. Thiệt hại do thiên tai gây ra hàng năm từ vài trăm cho đến vài ngàn tỷ đồng, thiệt hại cho nguồn ngân sách quốc gia. Nếu chúng ta biết hành động đúng thì nguồn ngân sách ấy có thể sử dụng cho phúc lợi và phát triển xã hội. Đứng trước hiện trạng như thế, nhà nước đã đề ra những giải pháp tức thời và lâu dài để có thể sử dụng được, khai thác tài nguyên một cách lâu dài và chủ động. Thứ nhất, đó chính là việc nâng cao trách nhiệm, hiệu quả khai thác cũng như sử dụng tài nguyên, chủ động ứng phó với những biến đổi khí hậu nhằm phục vụ chi phát triển bền vững. Trong quá trình sử dụng tài nguyên, không chỉ khai thác một cách tiết kiệm, có hiệu quả những nguồn tài nguyên hiện có, mà cần coi trọng việc sử dụng năng lượng mới và năng lượng tái tạo, vật liệu mới; hạn chế tối đa, từng bước tiến đến chấm dứt xuất khẩu khoáng sản thô và chỉ qua chế biến sơ đồng thời thúc đẩy chế biến sâu; sử dụng nguồn năng lượng tiết kiệm, hiệu quả để giảm mức phát thải khí nhà kính. Đối với những loại khoáng sản chiến lược đặc thù bao gồm than, dầu khí,... cần phải có chính sách cụ thể, cân đối giữa nhập khẩu với xuất khẩu. Thực hiện nghiêm ngặt những biện pháp phục hồi môi trường sau quá trình khai thác khoáng sản; ngăn chặn và từng bước khắc phục được sự xuống cấp của môi trường tự nhiên do chủ quan con người, nhất là do những dự án phát triển kinh tế gây ra. Thứ hai, đó là việc tăng cường việc quản lý tài nguyên. Tài nguyên là tài sản của quốc gia, nguồn lực quan trọng của đất nước, phải được đánh giá một cách đầy đủ, hạch toán trong nền kinh tế, và được quản lý một cách có hiệu quả, bền vững, gắn với mục tiêu phát triển cả kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, theo một hướng bảo đảm được tính tổng thể, liên ngành, liên vùng, đáp ứng được nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, trong đó lợi ích lâu dài là cơ bản, có trọng tâm, trọng điểm và phù hợp với từng giai đoạn. Thứ ba, chúng ta cần phải chủ động phòng, chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu. Ở đây, trọng tâm là tiến hành đầu tư thích đáng cho những công trình trọng điểm quốc gia, những chương trình ứng phó với biến đổi khí hậu. Chủ động xây dựng, triển khai cũng như kiểm tra, giám sát việc thực hiện những chương trình, kế hoạch ứng phó với việc biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai ở từng giai đoạn; nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai cũng như giám sát biến đổi khí hậu và tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn. Và cuối cùng, đó là việc đẩy mạnh những hoạt động bảo vệ môi trường. Trước tiên, hoàn thiện được hệ thống pháp luật, ban hành những chế tài đủ mạnh để có thể bảo vệ môi trường, ngăn chặn và xử lý theo pháp luật nhằm chấm dứt được tình trạng gây ô nhiễm môi trường, tăng cường việc phòng, ngừa và kiểm soát những nguồn gây ô nhiễm môi trường. Ngăn chặn và từng bước khắc phục được sự xuống cấp của môi trường tự nhiên. Hạn chế tiến đến khắc phục căn bản tình trạng ô nhiễm môi trường của nhiều cơ sở sản xuất, khu công nghiệp, làng nghề, khu đô thị, các lưu vực sông, không để phát sinh thêm những cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Tiếp đó, để đẩy mạnh những hoạt động bảo vệ môi trường, cần phải bố trí hợp l‎ý nguồn lực từ ngân sách nhà nước đầu tư cho những công trình trọng điểm phục hồi môi trường dân sinh; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành những chế tài đủ mạnh để bảo vệ môi trường, ngăn chặn và xử lý theo pháp luật nhằm chấm dứt được tình trạng gây ô nhiễm môi trường. Toàn xã hội cần phải tăng cường phổ biến pháp luận và tuyên truyền ứng phó với những thiên tai hay biến đổi khí hậu. Mỗi bước tiến nhỏ của mỗi người có thể tạo nên một sự thay đổi lớn, và chúng ta cần phải tự hỏi mình: "Hôm nay, tôi đã làm được gì để bảo vệ môi trường?". Cả xã hội phải cùng đồng lòng thì tài nguyên thiên nhiên mới có thể phát triển dồi dào đúng cách, tạo ra nguồn sống và duy trì tương lai cho con em chúng ta. Phần kết bài của bài văn trên nói về nội dung gì?
  • Câu 3: Vận dụng
    Tài nguyên thiên nhiên là những của cải đã có sẵn trong tự nhiên. Con người khai thác và sử dụng chúng cho lợi ích của cá nhân và cộng đồng. Tuy nhiên nguồn tài nguyên thiên nhiên có trong tự nhiên không phải là vô tận. Do đó con người phải biết cách để khai thác sao cho hợp lý để chúng phục vụ cho lợi ích của con người một cách có hiệu quả. Việt Nam đã được quốc tế công nhận là một trong những quốc gia có tính đa dạng sinh học cao nhất trên thế giới (xếp hạng 16/25 nước có mức độ đa dạng sinh học cao ở trên thế giới), với nhiều kiểu rừng, sông suối, đầm lầy, rặng san hô... tạo nên môi trường sống dành cho khoảng 10% tổng số loài chim và thú hoang dã ở trên thế giới. Nước ta còn được biết đến là một trong 8 "trung tâm giống gốc" của những loại cây trồng, vật nuôi, trong đó có đến hàng chục giống gia súc và gia cầm. Hệ sinh thái của Việt Nam vô cùng phong phú, bao gồm 11.458 loài động vật, trên 21.000 loài thực vật và có khoảng 3.000 loài vi sinh vật, trong đó có rất nhiều loài được sử dụng nhằm cung cấp vật liệu di truyền. Tuy vậy hiện nay tài nguyên thiên nhiên ở trên thế giới nói chung và ở nước ta nói riêng đang bị đe dọa một cách rất nghiêm trọng. Nước ta rừng vàng, biển bạc với đất phì nhiêu nhưng chúng ta quá chủ quan và đã phí phạm quá nhiều những tài nguyên này. Chúng ta giết động vật và chăn nuôi không giới hạn, phá rừng, lại làm quá nhiều thủy điện, đánh bắt cá không có giới hạn, ô nhiễm môi trường vẫn tiếp tục gia tăng. Hậu quả của những việc này chúng ta đã thấy ngay trước mặt, đó là cứ hàng năm chúng ta lại phải chịu thiên tai càng nhiều hơn và nặng nề hơn. Thiệt hại do thiên tai gây ra hàng năm từ vài trăm cho đến vài ngàn tỷ đồng, thiệt hại cho nguồn ngân sách quốc gia. Nếu chúng ta biết hành động đúng thì nguồn ngân sách ấy có thể sử dụng cho phúc lợi và phát triển xã hội. Đứng trước hiện trạng như thế, nhà nước đã đề ra những giải pháp tức thời và lâu dài để có thể sử dụng được, khai thác tài nguyên một cách lâu dài và chủ động. Thứ nhất, đó chính là việc nâng cao trách nhiệm, hiệu quả khai thác cũng như sử dụng tài nguyên, chủ động ứng phó với những biến đổi khí hậu nhằm phục vụ chi phát triển bền vững. Trong quá trình sử dụng tài nguyên, không chỉ khai thác một cách tiết kiệm, có hiệu quả những nguồn tài nguyên hiện có, mà cần coi trọng việc sử dụng năng lượng mới và năng lượng tái tạo, vật liệu mới; hạn chế tối đa, từng bước tiến đến chấm dứt xuất khẩu khoáng sản thô và chỉ qua chế biến sơ đồng thời thúc đẩy chế biến sâu; sử dụng nguồn năng lượng tiết kiệm, hiệu quả để giảm mức phát thải khí nhà kính. Đối với những loại khoáng sản chiến lược đặc thù bao gồm than, dầu khí,... cần phải có chính sách cụ thể, cân đối giữa nhập khẩu với xuất khẩu. Thực hiện nghiêm ngặt những biện pháp phục hồi môi trường sau quá trình khai thác khoáng sản; ngăn chặn và từng bước khắc phục được sự xuống cấp của môi trường tự nhiên do chủ quan con người, nhất là do những dự án phát triển kinh tế gây ra. Thứ hai, đó là việc tăng cường việc quản lý tài nguyên. Tài nguyên là tài sản của quốc gia, nguồn lực quan trọng của đất nước, phải được đánh giá một cách đầy đủ, hạch toán trong nền kinh tế, và được quản lý một cách có hiệu quả, bền vững, gắn với mục tiêu phát triển cả kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, theo một hướng bảo đảm được tính tổng thể, liên ngành, liên vùng, đáp ứng được nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, trong đó lợi ích lâu dài là cơ bản, có trọng tâm, trọng điểm và phù hợp với từng giai đoạn. Thứ ba, chúng ta cần phải chủ động phòng, chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu. Ở đây, trọng tâm là tiến hành đầu tư thích đáng cho những công trình trọng điểm quốc gia, những chương trình ứng phó với biến đổi khí hậu. Chủ động xây dựng, triển khai cũng như kiểm tra, giám sát việc thực hiện những chương trình, kế hoạch ứng phó với việc biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai ở từng giai đoạn; nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai cũng như giám sát biến đổi khí hậu và tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn. Và cuối cùng, đó là việc đẩy mạnh những hoạt động bảo vệ môi trường. Trước tiên, hoàn thiện được hệ thống pháp luật, ban hành những chế tài đủ mạnh để có thể bảo vệ môi trường, ngăn chặn và xử lý theo pháp luật nhằm chấm dứt được tình trạng gây ô nhiễm môi trường, tăng cường việc phòng, ngừa và kiểm soát những nguồn gây ô nhiễm môi trường. Ngăn chặn và từng bước khắc phục được sự xuống cấp của môi trường tự nhiên. Hạn chế tiến đến khắc phục căn bản tình trạng ô nhiễm môi trường của nhiều cơ sở sản xuất, khu công nghiệp, làng nghề, khu đô thị, các lưu vực sông, không để phát sinh thêm những cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Tiếp đó, để đẩy mạnh những hoạt động bảo vệ môi trường, cần phải bố trí hợp l‎ý nguồn lực từ ngân sách nhà nước đầu tư cho những công trình trọng điểm phục hồi môi trường dân sinh; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành những chế tài đủ mạnh để bảo vệ môi trường, ngăn chặn và xử lý theo pháp luật nhằm chấm dứt được tình trạng gây ô nhiễm môi trường. Toàn xã hội cần phải tăng cường phổ biến pháp luận và tuyên truyền ứng phó với những thiên tai hay biến đổi khí hậu. Mỗi bước tiến nhỏ của mỗi người có thể tạo nên một sự thay đổi lớn, và chúng ta cần phải tự hỏi mình: "Hôm nay, tôi đã làm được gì để bảo vệ môi trường?". Cả xã hội phải cùng đồng lòng thì tài nguyên thiên nhiên mới có thể phát triển dồi dào đúng cách, tạo ra nguồn sống và duy trì tương lai cho con em chúng ta. Trong bài văn, tác giả đã đưa ra bao nhiêu giải pháp để bảo vệ và khai thác hợp lí tài nguyên thiên nhiên?
  • Câu 4: Vận dụng
    Đoạn văn sau nói về nội dung gì? Chúng ta giết động vật và chăn nuôi không giới hạn, phá rừng, lại làm quá nhiều thủy điện, đánh bắt cá không có giới hạn, ô nhiễm môi trường vẫn tiếp tục gia tăng.
  • Câu 5: Vận dụng
    Tác giả đã phân tích vấn đề trên những khía cạnh nào?
  • Câu 6: Thông hiểu
    Đoạn văn sau nói về nội dung gì? Tài nguyên thiên nhiên là những của cải đã có sẵn trong tự nhiên. Con người khai thác và sử dụng chúng cho lợi ích của cá nhân và cộng đồng. Tuy nhiên nguồn tài nguyên thiên nhiên có trong tự nhiên không phải là vô tận. Do đó con người phải biết cách để khai thác sao cho hợp lý để chúng phục vụ cho lợi ích của con người một cách có hiệu quả.
  • Câu 7: Thông hiểu
    Tài nguyên thiên nhiên là những của cải đã có sẵn trong tự nhiên. Con người khai thác và sử dụng chúng cho lợi ích của cá nhân và cộng đồng. Tuy nhiên nguồn tài nguyên thiên nhiên có trong tự nhiên không phải là vô tận. Do đó con người phải biết cách để khai thác sao cho hợp lý để chúng phục vụ cho lợi ích của con người một cách có hiệu quả. Việt Nam đã được quốc tế công nhận là một trong những quốc gia có tính đa dạng sinh học cao nhất trên thế giới (xếp hạng 16/25 nước có mức độ đa dạng sinh học cao ở trên thế giới), với nhiều kiểu rừng, sông suối, đầm lầy, rặng san hô... tạo nên môi trường sống dành cho khoảng 10% tổng số loài chim và thú hoang dã ở trên thế giới. Nước ta còn được biết đến là một trong 8 "trung tâm giống gốc" của những loại cây trồng, vật nuôi, trong đó có đến hàng chục giống gia súc và gia cầm. Hệ sinh thái của Việt Nam vô cùng phong phú, bao gồm 11.458 loài động vật, trên 21.000 loài thực vật và có khoảng 3.000 loài vi sinh vật, trong đó có rất nhiều loài được sử dụng nhằm cung cấp vật liệu di truyền. Tuy vậy hiện nay tài nguyên thiên nhiên ở trên thế giới nói chung và ở nước ta nói riêng đang bị đe dọa một cách rất nghiêm trọng. Nước ta rừng vàng, biển bạc với đất phì nhiêu nhưng chúng ta quá chủ quan và đã phí phạm quá nhiều những tài nguyên này. Chúng ta giết động vật và chăn nuôi không giới hạn, phá rừng, lại làm quá nhiều thủy điện, đánh bắt cá không có giới hạn, ô nhiễm môi trường vẫn tiếp tục gia tăng. Hậu quả của những việc này chúng ta đã thấy ngay trước mặt, đó là cứ hàng năm chúng ta lại phải chịu thiên tai càng nhiều hơn và nặng nề hơn. Thiệt hại do thiên tai gây ra hàng năm từ vài trăm cho đến vài ngàn tỷ đồng, thiệt hại cho nguồn ngân sách quốc gia. Nếu chúng ta biết hành động đúng thì nguồn ngân sách ấy có thể sử dụng cho phúc lợi và phát triển xã hội. Đứng trước hiện trạng như thế, nhà nước đã đề ra những giải pháp tức thời và lâu dài để có thể sử dụng được, khai thác tài nguyên một cách lâu dài và chủ động. Thứ nhất, đó chính là việc nâng cao trách nhiệm, hiệu quả khai thác cũng như sử dụng tài nguyên, chủ động ứng phó với những biến đổi khí hậu nhằm phục vụ chi phát triển bền vững. Trong quá trình sử dụng tài nguyên, không chỉ khai thác một cách tiết kiệm, có hiệu quả những nguồn tài nguyên hiện có, mà cần coi trọng việc sử dụng năng lượng mới và năng lượng tái tạo, vật liệu mới; hạn chế tối đa, từng bước tiến đến chấm dứt xuất khẩu khoáng sản thô và chỉ qua chế biến sơ đồng thời thúc đẩy chế biến sâu; sử dụng nguồn năng lượng tiết kiệm, hiệu quả để giảm mức phát thải khí nhà kính. Đối với những loại khoáng sản chiến lược đặc thù bao gồm than, dầu khí,... cần phải có chính sách cụ thể, cân đối giữa nhập khẩu với xuất khẩu. Thực hiện nghiêm ngặt những biện pháp phục hồi môi trường sau quá trình khai thác khoáng sản; ngăn chặn và từng bước khắc phục được sự xuống cấp của môi trường tự nhiên do chủ quan con người, nhất là do những dự án phát triển kinh tế gây ra. Thứ hai, đó là việc tăng cường việc quản lý tài nguyên. Tài nguyên là tài sản của quốc gia, nguồn lực quan trọng của đất nước, phải được đánh giá một cách đầy đủ, hạch toán trong nền kinh tế, và được quản lý một cách có hiệu quả, bền vững, gắn với mục tiêu phát triển cả kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, theo một hướng bảo đảm được tính tổng thể, liên ngành, liên vùng, đáp ứng được nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, trong đó lợi ích lâu dài là cơ bản, có trọng tâm, trọng điểm và phù hợp với từng giai đoạn. Thứ ba, chúng ta cần phải chủ động phòng, chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu. Ở đây, trọng tâm là tiến hành đầu tư thích đáng cho những công trình trọng điểm quốc gia, những chương trình ứng phó với biến đổi khí hậu. Chủ động xây dựng, triển khai cũng như kiểm tra, giám sát việc thực hiện những chương trình, kế hoạch ứng phó với việc biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai ở từng giai đoạn; nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai cũng như giám sát biến đổi khí hậu và tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn. Và cuối cùng, đó là việc đẩy mạnh những hoạt động bảo vệ môi trường. Trước tiên, hoàn thiện được hệ thống pháp luật, ban hành những chế tài đủ mạnh để có thể bảo vệ môi trường, ngăn chặn và xử lý theo pháp luật nhằm chấm dứt được tình trạng gây ô nhiễm môi trường, tăng cường việc phòng, ngừa và kiểm soát những nguồn gây ô nhiễm môi trường. Ngăn chặn và từng bước khắc phục được sự xuống cấp của môi trường tự nhiên. Hạn chế tiến đến khắc phục căn bản tình trạng ô nhiễm môi trường của nhiều cơ sở sản xuất, khu công nghiệp, làng nghề, khu đô thị, các lưu vực sông, không để phát sinh thêm những cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Tiếp đó, để đẩy mạnh những hoạt động bảo vệ môi trường, cần phải bố trí hợp l‎ý nguồn lực từ ngân sách nhà nước đầu tư cho những công trình trọng điểm phục hồi môi trường dân sinh; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành những chế tài đủ mạnh để bảo vệ môi trường, ngăn chặn và xử lý theo pháp luật nhằm chấm dứt được tình trạng gây ô nhiễm môi trường. Toàn xã hội cần phải tăng cường phổ biến pháp luận và tuyên truyền ứng phó với những thiên tai hay biến đổi khí hậu. Mỗi bước tiến nhỏ của mỗi người có thể tạo nên một sự thay đổi lớn, và chúng ta cần phải tự hỏi mình: "Hôm nay, tôi đã làm được gì để bảo vệ môi trường?". Cả xã hội phải cùng đồng lòng thì tài nguyên thiên nhiên mới có thể phát triển dồi dào đúng cách, tạo ra nguồn sống và duy trì tương lai cho con em chúng ta. Văn bản trên bàn luận về vấn đề gì?
  • Câu 8: Thông hiểu
    Một ví dụ của giải pháp khả thi cho tình trạng ô nhiễm môi trường là gì?
  • Câu 9: Thông hiểu
    Khi viết bài nghị luận, bằng chứng cần phải như thế nào để thuyết phục người đọc?
  • Câu 10: Thông hiểu
    Khi phân tích vấn đề trong bài văn nghị luận, người viết cần lưu ý điều gì?
  • Câu 11: Nhận biết
    Yếu tố nào giúp bài văn nghị luận về một vấn đề cần giải quyết trở nên thuyết phục?
  • Câu 12: Nhận biết
    Trong bài văn nghị luận, giải pháp đưa ra cần phải như thế nào?
  • Câu 13: Nhận biết
    Bài học cho bản thân (về suy nghĩ, hành động) là nội dung của phần nào trong văn bản nghị luận về một vấn đề cần giải quyết?
  • Câu 14: Nhận biết
    Thực trạng, nguyên nhân, tác hại là nội dung của phần nào trong văn bản nghị luận về một vấn đề cần giải quyết?
  • Câu 15: Nhận biết
    Phần thân bài của văn bản nghị luận nói về một vấn đề cần giải quyết viết có nội dung là gì?
  • Câu 16: Nhận biết
    Phần thân bài của văn bản nghị luận nói về một vấn đề cần giải quyết viết có nội dung là gì?
  • Câu 17: Nhận biết
    Phần mở bài của văn bản nghị luận nói về một vấn đề cần giải quyết viết có nội dung là gì?
  • Câu 18: Nhận biết
    Văn bản nghị luận về một vấn đề cần giải quyết gồm mấy phần?
  • Câu 19: Nhận biết
    Ví dụ nào sau đây là một vấn đề cần giải quyết trong bài văn nghị luận?
  • Câu 20: Nhận biết
    Bài văn nghị luận về một vấn đề cần giải quyết:

Chúc mừng Bạn đã hoàn thành bài!

Kết quả làm bài:
  • Nhận biết (50%):
    2/3
  • Thông hiểu (25%):
    2/3
  • Vận dụng (15%):
    2/3
  • Vận dụng cao (10%):
    2/3
  • Thời gian làm bài: 00:00:00
  • Số câu làm đúng: 0
  • Số câu làm sai: 0
  • Điểm số: 0
  • Điểm thưởng: 0
Làm lại
Bạn còn 1 lượt làm bài tập miễn phí. Hãy mua tài khoản VnDoc PRO để học không giới hạn nhé! Bạn đã HẾT lượt làm bài tập miễn phí! Hãy mua tài khoản VnDoc PRO để làm Trắc nghiệm không giới hạn và tải tài liệu nhanh nhé! Mua ngay
Xác thực tài khoản!

Theo Nghị định 147/2024/ND-CP, bạn cần xác thực tài khoản trước khi sử dụng tính năng này. Chúng tôi sẽ gửi mã xác thực qua SMS hoặc Zalo tới số điện thoại mà bạn nhập dưới đây:

Số điện thoại chưa đúng định dạng!
Số điện thoại này đã được xác thực!
Bạn có thể dùng Sđt này đăng nhập tại đây!
Lỗi gửi SMS, liên hệ Admin
Sắp xếp theo
🖼️

Trắc nghiệm Ngữ Văn 9 Chân trời sáng tạo

Xem thêm