Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Bài thuyết trình Hội thi giáo viên giỏi Tiểu học 2024

Bài thuyết trình Hội thi giáo viên giỏi Tiểu học bao gồm các mẫu bài thuyết trình tham gia dự thi giáo viên giỏi tiểu học ở các môn chi tiết nhất, đạt kết quả cao được VnDoc tổng hợp.

Hội thi giáo viên dạy giỏi các cấp học nhằm mục đích tuyển chọn, công nhận và suy tôn giáo viên đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi; tạo điều kiện để giáo viên thể hiện năng lực, trao đổi kinh nghiệm về giảng dạy, tổ chức lớp học; khai thác và sử dụng sáng tạo, hiệu quả các phương tiện, đồ dùng dạy học…

Hội thi giáo viên dạy giỏi là một trong những căn cứ để đánh giá thực trạng đội ngũ, từ đó xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên, đáp ứng yêu cầu đổi mới của giáo dục. Trong bài viết này VnDoc xin giới thiệu tới các bạn những mẫu bài thuyết trình dự thi giáo viên giỏi tiểu học ở các môn, các đề tài khác nhau. Mời các bạn cùng tham khảo.

Bài thuyết trình Hội thi giáo viên giỏi Tiểu học Mẫu 1

Bài thuyết trình: Một số biện pháp nâng cao kĩ năng học toán ở tiểu học

Kính thưa:

Ban tổ chức!

Thưa Ban giám khảo!

Hôm nay tôi rất vinh dự được tham gia thuyết trình trong hội thi “Giáo viên dạy giỏi” cấp Huyện năm học ..., với “Một số biện pháp nâng cao kĩ năng học toán ở tiểu học”.

Kính thưa ban giám khảo!

Qua khảo sát chất lượng đầu năm của lớp 4 B cho thấy: học sinh yếu kém môn toán là khá cao. Song làm thế nào để không còn học sinh yếu kém, không còn học sinh bỏ học vì không đuổi kịp kiến thức lại là một bài Toán hết sức nan giải. Tôi trăn trở là tìm ra con đường để vực dậy số học sinh yếu kém giúp các em theo kịp với chương trình để từng bước xoá bỏ tỷ lệ học sinh bỏ học giữa chừng.

Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp bốn tôi muốn đưa ra “Một số biện pháp phụ đạo học sinh yếu môn toán “. Với mong muốn được học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp, làm thế nào cho học sinh học toán đạt hiệu quả cao.

* Thuận lợi.

Trường …… được sự quan tâm của các bậc cha mẹ học sinh. Học sinh đến trường với đầy đủ sách vở và đồ dung học tập. Đa số học sinh ở các thôn, buôn lân cận nên các em đi học đều và đúng giờ. Trường có đội ngũ giáo viên trẻ , có tâm huyết với nghề . Giáo viên luôn nêu cao tinh thần tự học nên trình độ giáo viên ngày càng được nâng cao đáp ứng với nhu cầu dạy học trong giai đoạn hiện nay với 100% giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn. Trường cũng đặc biệt nhận được sự quan tâm chỉ đạo kịp thời của các cấp lãnh đạo các cấp.

* Khó khăn.

Bên cạnh những thuận lợi đó cũng còn rất nhiều khó khăn trong công tác dạy học như: đồ dùng dạy học còn hạn chế nhất là đối với khối lớp bốn cả trường có 3 lớp nhưng chỉ có một ít bộ đồ dung đã cũ không sử dụng được, theo dự án VNEN cứ hai lớp có một máy phô tô copy nhưng đến nay toàn trường chưa có chiếc máy nào nên việc dạy học gặp nhiều khó khăn. Một số phụ huynh còn coi nhẹ việc học tập của con em mình.. Chưa thật sự quan tâm chăm lo và đôn đốc con em mình học tập mà còn phó thác cho thầy cô.

Một số học sinh có hoàn cảnh khó khăn như: Nhà nghèo, ở với ông bà do cha mẹ mất sớm nên ảnh hưởng đến việc học hành của các em.

Còn phần lớn các em trong lớp có bố mẹ xuất thân từ thành phần làm nông, trình độ văn hoá thấp không có khả năng kèm cặp con cái ở nhà.

Đặc biệt hoàn cảnh của 8 em học lực yếu đều có khó khăn, 4 trong số phụ huynh của các em chưa học hết lớp 5. Đa số phụ huynh đều thiếu quan tâm đến việc học hành của con em mình.

Chưa ý thức được tầm quan trọng của việc học đối với các em. Có em còn phải đi làm thêm những công việc như mót cà phê, làm cỏ, thâm chí có em còn bỏ học nhiều ngày theo bố mẹ đi làm.

Nội dung và cách thức thực hiện các biện pháp

Các biện pháp chung

- Xây dựng môi trường học tập thân thiện:

Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu quả cao. Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười… giáo viên tạo sự gần gũi, cảm giác an toàn nơi học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống của bản thân mình.

Giáo viên luôn tạo cho bầu không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không đánh mắng hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm thấy sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình.

Bên cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi tích cực. Ví dụ như giáo viên nên thay chê bai bằng khen ngợi, giáo viên tìm những việc làm mà em hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em.

- Phân loại các đối tượng học sinh

Giáo viên cần xem xét, phân loại những học sinh yếu đúng với những đặc điểm vốn có của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung và riêng của từng em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em là: Sức khoẻ kém, khả năng tiếp thu bài chậm, lười học, thiếu tự tin, nhút nhát…

Trong thực tế người ta nhận thấy có bao nhiêu cá thể thì sẽ có chừng ấy phong cách nhận thức. Vì vậy hiểu biết về phong cách nhận thức là để hiểu sự đa dạng của các chức năng trí tuệ giúp cho việc tổ chức các hoạt động sư phạm thông qua đặc trưng này.

Trong quá trình dạy học trên lớp, giáo viên quan tâm phát hiện và phân loại những lỗ hổng kiến thức, kĩ năng của học sinh. Những lỗ hổng nào điển hình mà trên lớp chưa đủ thời gian khắc phục thì cần có kế hoạch tiếp tục giải quyết trong nhóm học sinh yếu kém.

Thông qua quá trình học lý thuyết và làm bài tập của học sinh, giáo viên cũng cần tập cho học sinh, kể cả học sinh yếu kém có ý thức tự phát hiện những lỗ hổng của bản thân mình và biết cách tự lấp những lỗ hổng đó. Trong quá trình thiết kế bài học, giáo viên cần cân nhắc các mục tiêu đề ra nhằm tạo điều kiện cho các em học sinh yếu được củng cố và luyện tập phù hợp.

- Giáo dục ý thức học tập cho học sinh:

Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh tạo cho học sinh sự hứng thú trong học tập, từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy giáo viên nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học sinh thấy được ứng dụng và tầm quan trọng của môn học trong thực tiễn. Từ đây, các em sẽ ham thích và say mê khám phá tìm tòi trong việc chiếm lĩnh tri thức.

Bên cạnh đó, giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hoàn cảnh gia đình và nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ học sinh về thái độ học tập, tổ chức các trò chơi có lồng ghép việc giáo dục học sinh về ý thức học tập tốt và ý thức vươn lên trong học tập, làm cho học sinh thấy tầm quan trọng của việc học. Đồng thời, giáo viên phối hợp với gia đình giáo dục ý thức học tập của học sinh. Do hiện nay, có một số phụ huynh luôn gò ép việc học của con em mình, sự áp đặt và quá tải sẽ dẫn đến chất lượng không cao. Bản thân giáo viên cần phân tích để các bậc phụ huynh thể hiện sự quan tâm đúng mức. Nhận được sự quan tâm của gia đình, thầy cô sẽ tạo động lực cho các em ý chí phấn đấu vươn lên.

- Kèm cặp học sinh yếu:

Ngay từ đầu năm giáo viên phải khảo sát chất lượng để biết số lượng học sinh yếu, trung bình, khá giỏi là bao nhiêu để có kế hoạch phụ đạo.

Xây dựng chương trình: Đôi bạn cùng tiến. Phân công một em học sinh khá, giỏi kèm cặp, giúp đỡ một em học sinh yếu.

Lập danh sách học sinh yếu và chú ý quan tâm đặc biệt đến những học sinh này trong mỗi tiết dạy như thường xuyên gọi các em đó trả lời câu hỏi, khen ngợi các em đó khi các em trả lời đúng,…

- Những biện pháp cụ thể:

Tạo tiền đề xuất phát: Việc học tập có kết quả trong một tiết học thường đòi hỏi những tiền đề nhất định về trình độ kiến thức, kĩ năng sẵn có của học sinh. Thế nhưng các em yếu kém nhiều khi chưa có đủ những tiền đề này. Một trong những nội dung làm việc với các học sinh yếu, kém là phải giúp các em tạo tiền đề xuất phát cho những tiết lên lớp. Việc tạo tiền đề xuất phát thường được tiến hành theo quy trình sau:

  • Trước hết, bản thân GV phải nắm vững nội dung và khối lượng kiến thức, kĩ năng cần có trong những tiền đề xuất phát. Muốn vậy điều quan trọng là cần nghiên cứu sâu sắc những tài liệu chỉ đạo của Bộ, Sở, Phòng Giáo dục…; chuẩn kiến thức kĩ năng, SGK, sách GV…
  • Thứ hai, GV cần biết những kiến thức kĩ năng cần thiết đã có sẵn ở các HS yếu, kém tới mức độ nào. Điều này có thể được thực hiện nhờ quá trình theo dõi từ trước hoặc bằng biện pháp kiểm tra.
  • Thứ ba là cho tái hiện những kiến thức và kĩ năng cần thiết, tức là GV cho HS ôn tập trước khi dạy nội dung mới hoặc ôn tập những lúc thích hợp trong mối liên quan với từng nội dung.

Lấp lỗ hổng kiến thức: Như chúng ta đã biết, kiến thức có nhiều lỗ hổng là một bệnh phổ biến của HS yếu kém môn toán. Việc tạo tiền đề xuất phát cũng chính là nhằm lấp lỗ hổng kiến thức và kĩ năng. Vì vậy, trong quá trình dạy học trên lớp, tôi thường quan tâm phát hiện những lỗ hổng kiến thức của HS. Những lỗ hổng nào điển hình đối với HS yếu mà trên lớp chưa đủ thời gian khắc phục thì tôi có kế hoạch tiếp tục giải quyết riêng trong nhóm HS yếu.

Thông qua quá trình hình thành kiến thức và rèn luyện kĩ năng của HS, tôi thường tập cho HS, kể cả HS yếu có ý thức tự phát hiện những lỗ hổng của bản thân mình và biết cách tra cứu sách vở, học lại để tự lấp những lỗ hổng đó.

Luyện tập vừa sức

Rèn luyện phương pháp học tập

Những biện pháp tôi vừa trình bày không phải quá xa lạ đối với chúng ta. Bất cứ ai cũng có thể hiểu và áp dụng được. Tuy vậy, trong thực tế không phải lúc nào đối tưọng học sinh yếu kém cũng đựơc giáo viên chú trọng nó đòi hỏi ở lương tâm người thầy, cần phải coi học sinh như chính những đứa con của mình. Khi những cố gắng của người giáo viên đạt kết quả tốt, được học sinh tin yêu. Đó mới chính là phần thưởng lớn nhất trong cuộc đời dạy học của mình.

Kính thưa Ban tổ chức, ban giám khảo!

Tôi vừa trình bày xong bài thuyết trình: “Một số biện pháp nâng cao kĩ năng học toán ở tiểu học”.

Cuối cùng xin kính chúc Ban tổ chức, ban giám khảo luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt.

Chúc Hội thi thành công tốt đẹp!

Trân trọng cảm ơn!

Bài thuyết trình Hội thi giáo viên giỏi Tiểu học Mẫu 2

Bài thuyết trình Một số biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học

Kính thưa:

Ban tổ chức!

Thưa Ban giám khảo!

Hôm nay tôi rất vinh dự được tham gia thuyết trình trong hội thi “Giáo viên dạy giỏi” cấp Huyện năm học ..., với “Một số biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học”.

Kính thưa ban giám khảo!

Việc giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học là hình thành cho các em lòng nhân ái mang bản sắc con người Việt Nam; Yêu quê hương đất nước hòa bình, công bằng bác ái, kính trên nhường dưới, đoàn kết với mọi người, … Có ý thức về bổn phận của mình đối với người thân, đối với bạn bè, đối với cộng đồng và môi trường sống. Tôn trọng và thực hiện đúng pháp luật, các quy định của nhà trường, khu dân cư, sống hồn nhiên, mạnh dạn, tự tin, trung thực. Biết cách tự phục vụ, biết cách học tập, vận dụng làm được một số việc trong gia đình.

Trong quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh, chúng ta phải hình thành cho các em những thói quen chuẩn mực đạo đức cụ thể là: Lòng kính yêu ông bà, cha mẹ, kính trọng thầy giáo, cô giáo, quý mến bạn bè, giúp đỡ bạn khi gặp khó khăn; thật thà dũng cảm trong học tập, lao động; lòng biết ơn những người có công với đất nước… Những thói quen này, những đức tính này thực hiện theo các chuẩn mực đạo đức nhân đạo của loài người là các yếu tố tạo thành nền tảng để hình thành và phát triển nhân cách đạo đức mới. Những thói quen hành vi đạo đức này không đơn thuần là những hành động ứng xử có được do lặp lại bằng luyện tập trong nhiều tình huống quen thuộc. Đó phải là những hành động ứng xử chịu sự kích thích của những động cơ đạo đức đúng đắn.

Như vậy phẩm chất đạo đức của thế hệ trẻ, sự ứng xử này được hình thành do trẻ rèn luyện những thói quen đạo đức, tình cảm đạo đức, kiến thức đạo đức. Vì vậy giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học là cung cấp cho trẻ những biểu tượng và khái niệm đạo đức, bồi dưỡng xúc cảm đạo đức và tình cảm đạo đức, rèn luyện kỹ năng và thói quen đạo đức.

Đặc điểm tình hình nhà trường:

a) Nhà trường:

Được sự chỉ đạo sát sao của Sở giáo dục, Phòng giáo dục, được sự giúp đỡ nhiệt tình có hiệu quả của các cấp các ngành; các bậc phụ huynh học sinh nhiệt tình luôn tạo điều kiện tốt nhất để các giáo viên hoàn thành nhiệm vụ năm học.

b) Giáo viên:

Phần lớn là những cán bộ giáo viên có thâm niên từ 5 năm trở lên, 98% là nữ. Tất cả các đồng chí giáo viên trong trường đều biểu lộ tình đoàn kết thân ái giúp đỡ lẫn nhau. Các đồng chí xuất thân từ nhiều nguồn đào tạo khác nhau, tuổi đời, tuổi nghề cũng có nhiều khác biệt. Cả tập thể ấy mang theo phong tục tập quán của nhiều địa phương khác nhau, cá tính, năng lực, sở trường khác nhau nhưng trước yêu cầu của cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các đồng chí đã tập hợp thành một khối xây dựng một tổ ấm đoàn kết nhất trí, khắc phục những mặt yếu, phát huy những mặt mạnh cùng nhau gánh vác công việc chung để đẩy mạnh công tác giáo dục của nhà trường.

c) Học sinh:

Toàn trường có ... học sinh trong đó: Khối 1 có ... em; khối 2 có ... em; khối 3 có ... em; khối 4 có ... em; khối 5 có ...em. Các em hầu hết là con em nhân dân lao động ở địa phương xã ... cũng như nhiều trường khác, đó là một tập thể nam nữ Thiếu niên Nhi đồng sôi nổi hiếu động, có nhiều mặt tốt cần phát huy nhưng cũng có những biểu hiện ứng xử chưa hay của một số học sinh cá biệt. Một số nhỏ học sinh về mặt ý thức chấp hành kỷ luật, nội quy của lớp và của nhà trường chưa tốt vẫn còn ở rải rác các lớp. Mặt khác, còn có một số không nhỏ phụ huynh học sinh chưa quan tâm đến việc học tập của con em mình, việc học hành, tu dưỡng rèn luyện đạo đức của các em còn phó mặc cho nhà trường và các thầy cô giáo. Trước tình hình này thôi thúc nhà trường phải tập trung suy nghĩ cải tiến cách dạy, cách giáo dục học sinh phát triển toàn diện đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện nay.

Một số biện pháp được thực hiện:

Các giải pháp giáo dục đạo đức, hành vi ứng xử cho học sinh:

Tuổi học sinh Tiểu học là giai đoạn lĩnh hội các Chuẩn mực đạo đức, hành vi ứng xử và quy tắc hành vi đạo đức một cách hệ thống. Hơn nữa, nhà trường còn kiểm tra việc thực hiện các chuẩn mực đạo đức, hành vi ứng xử một cách thường xuyên và có mục đích. Việc giáo dục đạo đức, hành vi ứng xử cho học sinh không tách rời việc giáo dục nhân cách học sinh và có thể thực hiện với nhiều hình thức thích hợp, đa dạng trong đó nổi bật là các hình thức sau:

a) Giáo dục đạo đức, hành vi ứng xử của học sinh thông qua quá trình đứng lớp và dạy học các môn học khác

b) Giáo dục đạo đức, hành vi ứng xử thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp

c) Vận động mọi lực lượng tham gia giáo dục đạo đức,hành vi ứng xử cho học sinh

d) Giáo dục đạo đức, hành vi ứng xử của học sinh mọi lúc mọi nơi

Từ thực tiễn cho thấy việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ nói chung, cho học sinh Tiểu học nói riêng là hết sức cần thiết và quan trọng. Đó là trách nhiệm của mỗi tổ chức xã hội, mọi người, mọi gia đình, đồng thời là trách nhiệm nặng nề của ngành giáo dục trong đó vai trò của các trường học rất quan trọng. Giáo dục đạo đức cho học sinh bậc tiểu học góp phần không nhỏ vào việc hình thành nhân cách, phẩm chất đạo đức cho học sinh.

Kính thưa Ban tổ chức, ban giám khảo!

Tôi vừa trình bày xong bài thuyết trình: "Một số biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học".

Cuối cùng xin kính chúc Ban tổ chức, ban giám khảo luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt.

Chúc Hội thi thành công tốt đẹp!

Trân trọng cảm ơn!

Bài thuyết trình Hội thi giáo viên giỏi Tiểu học Mẫu 3

Bài thuyết trình một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh ở Tiểu học

Kính thưa:

Ban tổ chức!

Thưa Ban giám khảo!

Hôm nay tôi rất vinh dự được tham gia thuyết trình trong hội thi “Giáo viên dạy giỏi” cấp Huyện năm học ..., với “Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh ở tiểu học”.

Kính thưa ban giám khảo!

Duy trì sĩ số học sinh có vai trò vô cùng quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục, hạn chế tối đa tình trạng học sinh bỏ học. Học sinh bỏ học giữa chừng là một trong những yếu tố tạo nên mối nguy hại lớn cho xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Thật vậy, một dân tộc mà dân trí thấp kém thì khó có điều kiện để tiếp thu và phát huy tinh hoa văn hóa, khoa học, công nghệ mới của nhân loại. Do đó chúng ta cần làm tốt công tác duy trì sĩ số học sinh, giảm tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học để góp phần xây dựng sự nghiệp giáo dục phát triển bền vững.

Mục tiêu của việc duy trì sĩ số sĩ số ở trường tiểu học góp phần vào việc nâng cao chất lượng học tập của học sinh cũng như giúp các em có cơ hội phát triển toàn diện bản thân. Đồng thời nó cũng là yếu tố quan trọng giúp giáo viên thực hiện tốt kế hoạch giáo dục học sinh. Để công tác giáo dục đạt hiệu quả cần rất nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, trong đó việc các em đi học chuyên cần đóng một phần không nhỏ. Học sinh có đi học đều, đầy đủ thì việc tiếp thu bài mới tốt hơn. Nắm vững kiến thức các môn học trong chương trình một cách liền mạch và có hệ thống, đây là yếu tố quan trọng thu hút các em ham thích đi đến trường.

Nội dung và cách thực hiện giải pháp, biện pháp

Biện pháp 1: Nắm tình hình của lớp

Phải nói rằng, công tác duy trì sĩ số ở các trường tiểu học vùng nhiều học sinh dân tộc thiểu số như Trường Tiểu học Y Ngông là công việc thường xuyên, liên tục và có thành công hay không là nhờ công sức rất lớn của giáo viên chủ nhiệm. Chính lòng yêu nghề, sự nhiệt tình là động lực giúp giáo viên quan tâm nhiều hơn đến hiệu quả công việc của mình, trong đó có công tác duy trì sĩ số.

Để thực hiện hiệu quả công tác duy trì sĩ số, giáo viên chủ nhiệm phải nắm được tình hình của lớp. Vì vậy, sau khi nhận lớp, giáo viên chủ nhiệm cần trao đổi với giáo viên chủ nhiệm lớp dưới để nắm thông tin của lớp, về những đối tượng học sinh cần lưu ý, trong đó đáng quan tâm hơn là những em hay nghỉ học, có nguy cơ bỏ học.... Thông qua đó, giúp giáo viên chủ nhiệm biết được một số nguyên nhân dẫn đến học sinh hay nghỉ học, có nguy cơ bỏ học như: hoàn cảnh gia đình các em còn khó khăn, chưa lo đủ cái ăn, cái mặc nên các em phải nghỉ học; gia đình chưa thật sự quan tâm đến việc học của các em; một số em lại không thích đến trường,...Từ đó giáo viên sẽ tìm ra những biện pháp để động viên học sinh ra lớp.

Biện pháp 2: Giáo viên chủ nhiệm là người “tiên phong’’ trong công tác vận động học sinh ra lớp

Chất lượng giáo dục học sinh ở vùng có điều kiện khó khăn phụ thuộc nhiều vào việc bảo đảm duy trì được sĩ số. Nếu học sinh nghỉ học hoặc đi học không chuyên cần sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng học tập của các em, các kiến thức không liền mạch, các em lại gặp khó khăn nhiều hơn trong học tập và lao động, ...

Giáo viên chủ nhiệm là người sát sao và gần gũi học sinh hơn ai hết. Khi biết học sinh đi học không chuyên cần và có nguy cơ bỏ học thì bằng mọi cách phải vận động ngay các em đi học lại. Tuyệt đối không để tình trạng học sinh bỏ học lâu ngày rồi mới tìm hiểu nguyên nhân và vận động. Khi có được thông tin về học sinh nghỉ học, trước hết, giáo viên chủ nhiệm cần trực tiếp đến nhà em học sinh đó để tìm hiểu nguyên nhân, thuyết phục gia đình để vận động học sinh ra lớp. Đối với những học sinh đi học không chuyên cần, có nguy cơ bỏ học do do khả năng tiếp thu bài chậm, lớn tuổi hơn các bạn trong lớp nên ngại đi học. Giáo viên chủ nhiệm phải làm tốt vai trò là “người mẹ’’, “người bạn’’ của các em, luôn gần gũi, động viên, khích lệ học sinh. Từ đó, giáo viên lựa chọn biện pháp phù hợp để giúp đỡ học sinh tiếp thu bài tốt hơn, vượt qua mặc cảm, tự tin đến lớp. Giáo viên có thể sử dụng một số biện pháp như phát động phong trào: “Đôi bạn cùng tiến’’, “Bạn giúp bạn’’,... để học sinh trong lớp giúp những bạn học còn chưa tốt vươn lên trong học tập. Thông qua đó, giúp các em xóa bỏ mặc cảm để tự tin đến lớp. Đối với những học sinh đi học không chuyên cần, có nguy cơ bỏ học do các nguyên nhân khác, giáo viên chủ nhiệm cần trao đổi với lãnh đạo nhà trường để tìm biện pháp hữu hiệu. Giáo viên chủ nhiệm cần tích cực phối hợp với gia đình, nhà trường, chính quyền địa phương và các tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường để có biện pháp vận động học sinh ra lớp. Vai trò của giáo viên trong việc vận động học sinh rất quan trọng, là người “tiên phong’’ trực tiếp trong công tác vận động học sinh ra lớp, là nhân tố tạo nên sự thành công trong công tác duy trì sĩ.

Biện pháp 3: Làm tốt công tác phối hợp với gia đình học sinh, nhà trường, các tổ chức xã hội

Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Giáo dục các em là việc chung của gia đình, nhà trường và xã hội. Bố mẹ, thầy giáo và người lớn phải cùng nhau phụ trách, trước hết là phải làm gương cho các em hết mọi việc’’. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của việc phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong công tác giáo dục học sinh. Đối với gia đình học sinh, việc thường xuyên được nghe giáo viên chủ nhiệm trao đổi kết quả học tập và rèn luyện của con mình là cầu nối cần thiết để làm tốt công tác tuyên truyền, vận động học sinh đi học, đảm bảo sĩ số lớp. Bên cạnh đó, công tác phối hợp giữa Ban Đại diện cha mẹ học sinh, nhà trường, chính quyền thôn buôn, đặc biệt là những những người có uy tín ở địa phương có vai trò rất quan trọng trong việc tuyên truyền vận động học sinh ra lớp.

Biện pháp 4: Nâng cao chất lượng giáo dục học sinh

Thực tế cho thấy rằng, học yếu là một trong những nguyên nhân dẫn đến học sinh hay mặc cảm, dễ chán học và bỏ học. Vì vậy cần phải nâng cao chất lượng học tập ở học sinh. Để làm được điều này, giáo giáo viên không chỉ cần có chuyên môn tốt mà còn phải có sự kiên trì, hiểu tâm lý học sinh. Người giáo viên cần phải có cái tâm, có phương pháp dạy học phù hợp, các bài tập dành cho học sinh phải vừa sức, chú ý động viên là chính để các em dễ tiếp thu bài và không nảy sinh tâm lý "sợ học" dẫn đến chán học và bỏ học.

Muốn nâng cao chất lượng học tập của học sinh, trước hết giáo viên cần thực hiện tốt việc phân hóa đối tượng học sinh trong lớp, từ đó xây dựng kế hoạch, điều chỉnh phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp. Phát động các phong trào thi đua học tập.

Mặt khác, giáo viên cần có ý thức thường xuyên trau dồi kiến thức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục. Tăng cường sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học, tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng học sinh theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo. Tổ chức các tiết học vui tươi, nhẹ nhàng, hiệu quả, kích thích được sự khám phá, tìm tòi, tạo hứng thú cho các em trong học tập. Cần tránh sự căng thẳng, khô cứng trong các tiết học làm cho các em chán học dẫn tới bỏ học.

Chú trọng và quan tâm nhiều hơn đối tượng học sinh khó khăn về học, học sinh có hoàn cảnh khó khăn, tạo được mối quan hệ tốt giữa thầy và trò để các em xem thầy cô giáo thực sự là chỗ dựa tinh thần, từ đó các em sẽ thích được đến trường để học tập cùng "người mẹ thứ hai" của mình.

Sự phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn có tác động không nhỏ trong công tác duy trì sĩ số học sinh, đặc biệt là tỉ lệ chuyên cần trong các buổi học thứ hai. Thực tế cho thấy học sinh thường vắng học vào buổi học thứ hai (không phải buổi giáo viên chủ nhiệm dạy). Có thể vì do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên các em ở nhà phụ giúp gia đình tăng thêm thu nhập hay có thể do các em không thích môn học do giáo viên bộ môn dạy,... Vì vậy giáo viên chủ nhiệm tìm hiểu nguyên nhân, phối hợp cùng giáo viên bộ môn đề ra các biện pháp thích hợp nhằm giúp các em có kết quả học tập tốt hơn ở các môn học, từ đó các em sẽ hứng thú học tập và đi học đều đặn.

Biện pháp 5: Xây dựng môi trường học tập thân thiện

Môi trường học tập thân thiện là môi trường học tập mà ở đó trẻ được tạo điều kiện để học tập có kết quả, được an toàn trong sự bảo vệ, được công bằng và dân chủ, được phát triển sức khỏe thể chất và tinh thần. Trường học, lớp học được coi như ngôi nhà chung, ngôi nhà thứ hai của các em, giúp các em thêm yêu trường, yêu lớp, hứng thú trong học tập và đem lại hiệu quả cao trong giáo dục.

Môi trường học tập thân thiện phải đảm bảo một số điều kiện như: lớp học phải đẹp, sạch sẽ, thoáng đãng, ánh sáng đầy đủ, bàn ghế luôn được lau chùi và sắp xếp gọn gàng, xây dựng được một tập thể lớp đoàn kết, các thành viên trong lớp giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ.
Để xây dựng được môi trường học tập thân thiện, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tham gia tích cực các hoạt động ở trường, lớp phù hợp với lứa tuổi của mình như: tham gia lao động, vệ sinh trường lớp; trang trí lớp học thân thiện; chăm sóc cây xanh trong khuôn viên trường; ...

Thông qua các hoạt động đó, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh cũng như các em thấy được trách nhiệm, nghĩa vụ của bản thân, tạo dựng được khối đoàn kết, giúp đỡ nhau trong mọi hoạt động giữa các học sinh trong lớp, trong trường. Đó cũng chính là một trong những yếu tố quan trọng nhằm thu hút học sinh yêu thích đến trường.

Kính thưa Ban tổ chức, ban giám khảo!

Tôi vừa trình bày xong bài thuyết trình: “Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh ở tiểu học”.

Cuối cùng xin kính chúc Ban tổ chức, ban giám khảo luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt.

Chúc Hội thi thành công tốt đẹp!

Trân trọng cảm ơn!

Bài thuyết trình Hội thi giáo viên giỏi Tiểu học Mẫu 4

Bài thuyết trình một số biện pháp rèn phát âm chuẩn cho học sinh

Kính thưa:

Ban tổ chức!

Thưa Ban giám khảo!

Hôm nay tôi rất vinh dự được tham gia thuyết trình trong hội thi “Giáo viên dạy giỏi” cấp Huyện năm học ..., với “Một số biện pháp rèn phát âm chuẩn cho học sinh”.

Kính thưa ban giám khảo!

Muốn học sinh phát âm đúng thì mỗi giáo viên khi luyện phát âm phải có sự vận dụng mềm, trong phần luyện tập có chia ra nội dung bắt buộc và nội dung lựa 5 chọn. Chấp nhận nhiều chuẩn chính âm. Giáo viên sẽ lựa chọn chuẩn phát âm nào gần nhất với giọng địa phương của mình đối chiếu với cách phát âm tự nhiên theo phương ngữ của mình còn những điểm nào sai lạc.

Trước hết giáo viên phải tự chữa lỗi cho mình rồi xây dựng kế hoạch chữa lỗi phát âm cho học sinh trong giờ tập đọc và cả giờ học khác.

Thái độ sư phạm đúng đắn của người giáo viên là sự hướng dẫn tận tình, đặc biệt là động viên tinh thần thương yêu giúp đỡ học sinh để các em có hứng thú rèn phát âm đúng... Mặt khác, vốn sống, vốn hiểu biết sâu rộng và khả năng ứng đối nhanh nhạy, thông minh của giáo viên và chọn phương pháp sửa phát âm sai cho học sinh sao cho mới mẻ phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến sự thành bại của việc rèn kỹ năng nói sao cho chuẩn.

Mục tiêu của việc rèn phát âm chuẩn cho học sinh là các em phải đọc trơn, đọc thành thạo, đọc đúng rõ ràng, rành mạch, diễn cảm. Học sinh luôn có ý thức đọc đúng đọc hay. Đồng thời giáo viên cũng cần tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến học sinh phát âm sai ở chỗ nào để từ đó có biện pháp sửa sai rèn đúng cho thích hợp.

Thực trạng:

Tôi trực tiếp công tác giảng dạy tại Trường Tiểu học ... đã nhiều năm, trong quá trình giảng dạy cũng như tiếp xúc với các em học sinh ở đây, tôi nhận thấy:

Các em còn phát âm sai, nói ngọng rất nhiều, rồi đọc chưa diễn cảm, chưa đúng ngữ điệu đọc chưa lưu loát, trôi chảy. Các em thường phát âm sai các phụ âm đầu như đọc lẫn lộn giữa n/ l, phát âm p (pờ) thành b (bờ), s thành x, tr -> ch. Các lỗi phần vần, âm cuối các em hay mắc như: huệ phát âm thành hệ, hoa -> ha, xanh -> xăn, ngạt mũi -> ngạc mũi, toàn -> toàng , máy bay -> mái bai, thỉnh thoảng -> thỉnh thoản, hươu -> hiêu, mưu trí -> miu chí các em còn nói ngọng như rỡ thành rớ, quyển vở -> quyện vợ, đã -> đá.

Sở dĩ, do các em phát âm sai như vậy, tôi thiết nghĩ là do: Địa phương nằm trong vùng có điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn. Đa phần các em là con nhà lao động nên việc học tập của các em có phần bị hạn chế, các em chưa được trang bị đầy đủ sách vở, đồ dùng khi đến lớp. Việc học ở nhà lại chưa có sự kèm cặp quan tâm của gia đình. Điều đó làm cho thời gian học và hiệu quả học tập của các em bị hạn chế ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả học tập của các em.

Với thực trạng như vậy, tôi đã tìm hiểu, nghiên cứu để tìm ra biện pháp chữa lỗi phát âm cho học sinh nhằm khắc phục tình trạng phát âm sai trong trường nâng cao chất lượng phát âm chuẩn.

Từ đó, nâng cao chất lượng giảng dạy. Hơn nữa, tôi nhận thấy người giáo viên tiểu học là người thầy đầu tiên đặt nền móng trang bị cho các em ý thức về chuẩn ngôn ngữ và chuẩn văn hoá đồng thời ở trường Tiểu học có điều kiện rèn cho học sinh phát âm chuẩn, bởi trong chương trình học có phân môn học vần, Tập đọc.

Những biện pháp:

Đối với thầy giáo:

Trước hết cần đọc đúng đọc diễn cảm. Tiếp đó, cần bồi dưỡng cho học sinh có mong muốn, có ý thức đọc đúng chính âm càng sớm càng tốt. Giáo viên tập cho học sinh biết quan sát mặt âm thanh lời nói của người khác và của bản thân mình để điều chỉnh đọc, nói cho tốt. Đồng thời, chúng ta cần nắm chắc các biện pháp chữa lỗi phát âm bao gồm biện pháp luyện theo mẫu, biện pháp cấu âm và biện pháp luyện âm đúng qua âm trung gian. Tuỳ thuộc âm thanh sai lạc, tùy thuộc vào học sinh mà giáo viên lựa chọn biện pháp thích hợp .

1. Chữa lỗi phát âm bằng biện pháp luyện theo mẫu: Bằng phát âm mẫu của mình giáo viên đưa ra trước học sinh cách phát âm chuẩn, các từ cần luyện, yêu cầu học sinh phát âm theo.

2. Chữa lỗi phát âm bằng biện pháp cấu âm: Giáo viên mô tả cấu âm của một âm nào đó rồi hướng dẫn học sinh phát âm theo.

Với phụ âm cần mô tả vị trí của lưỡi, phương thức cấu âm. Tôi đã tiến hành sửa từng âm:

Sai phát âm /p/ pờ thành /b/ bờ, (p và b) đều là hai phụ âm đồng vị về mặt cấu âm. môi - môi nhưng khác nhau về mặt thanh tính, /p/ là phụ âm vô thanh, /b/ là phụ âm hữu thanh. Để luyện đọc đúng /p/, tôi đã hướng dẫn HS tự đặt lòng bàn tay trước miệng, một tay đặt lên thanh quản. Khi phát âm /b/ là âm vốn có sẽ cảm nhận được độ rung nhẹ của thanh quản và không thấy luồng hơi phát ra.

Cho trẻ bậm hai môi lại và bật hơi qua môi mạnh hơn, tạo âm /p/ câm. Cho trẻ làm lại như trên nhưng phát thành tiếng /p/ hay ''đèn pin ", pí pa -pí pô''.... Cho trẻ đặt một tay lên thanh hầu và lòng bàn tay trước miệng, trẻ sẽ dễ dàng nhận biết được sự khác biệt giữa hai âm. Khi phát âm /p/ dây thanh rung mạnh và có luồng hơi từ miệng phát ra đập vào lòng bàn tay .

Sai phát âm /n/ nờ - /l/ lờ lẫn lộn: Học sinh hay phát âm lẫn giữa l/n, ch/tr, d/gi và phần lớn các em không ý thức được mình đang phát âm âm nào. Để chữa lỗi phát âm cho học sinh tôi phải trực quan hóa sự mô tả âm vị và hướng dẫn học sinh quan sát, tự kiểm tra xem mình đang phát âm âm nào: /n/ là một âm mũi, khi phát âm, sờ tay vào mũi sẽ thấy mũi rung, còn khi phát âm âm /l /mũi không rung. Sau đó, ta cho học sinh luyện phát âm /l/ bằng cách bịt chặt mũi đọc la, lo, lô, lu, lư,... Khi bịt chặt mũi học sinh không thể phát âm các tiếng na, no, nô, nu, nư. Cho học sinh luyện nói câu ''con lươn nó lượn trong lọ, ''cái lọ lộc bình nó lăn lông lốc ''... Hoặc hướng dẫn học sinh khi phát âm âm /l/ thì đưa lưỡi lên phía bên trên lợi của hàm trên ngạc cứng, còn khi phát âm /n/ thì đưa đầu lưỡi vào mặt trong của hàm răng. ...

3. Biện pháp chữa lỗi bằng âm trung gian: Là biện pháp chuyển từ âm sai về âm đúng qua âm trung gian. Biện pháp này thường được dùng để chữa từ thanh nặng về thanh hỏi, thanh sắc về thanh ngã. Để chữa lỗi này cho học sinh tôi đã làm công việc tạo mẫu luyện cho trẻ phát âm riêng từng thanh hỏi, ngã. Phát âm các tiếng có thanh hỏi ngã cần qua các bước sau đây:

+ Đầu tiên chắp các tiếng có cùng thanh, cùng vần với tên gọi thanh. Ví dụ: sỏi, thỏi gỏi. Ngã: bã, đã, giã, mã

+ Tiếp theo chắp các tiếng cùng thanh, cùng loại âm tiết với tên gọi thanh. Ví dụ: hỏi: thảo, phải, kẻo. (âm tiết nửa mở) ngã: ngõ, khẽ, cũ. (âm tiết mở).

+ Cuối cùng chắp bất kỳ âm đầu các vần với các thanh.

4. Tập hát để giúp học sinh phát âm đúng một vài thanh: Chẳng hạn, âm vực của thanh huyền thấp hơn thanh sắc (hoặc thanh không) nên tập hát thanh sắc (hoặc thanh không) thành thanh huyền rất thuận lợi.

Đối với trò:

Phải chú ý theo dõi sự hướng dẫn của giáo viên, chăm chỉ tự tin trong học tập, phải hoà đồng cùng bạn bè, điều gì không hiểu mạnh dạn hỏi thầy cô hoặc bạn bè. Hằng ngày, dành thời gian hợp lý cho việc luyện đọc. Luôn luôn có ý thức luyện phát âm đúng, đọc chuẩn rõ ràng lưu loát rồi diễn cảm. Chịu khó tìm đọc các loại truyện tranh trong sáng lành mạnh trong sáng, báo Măng non, báo Nhi Đồng ...

Kính thưa Ban tổ chức, ban giám khảo!

Tôi vừa trình bày xong bài thuyết trình: “Một số biện pháp rèn phát âm chuẩn cho học sinh”.

Cuối cùng xin kính chúc Ban tổ chức, ban giám khảo luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt.

Chúc Hội thi thành công tốt đẹp!

Trân trọng cảm ơn!

Bài thuyết trình Hội thi giáo viên giỏi Tiểu học Mẫu 5

Bài thuyết trình một số biện pháp phát huy năng lực của ban cán bộ lớp

Kính thưa:

Ban tổ chức!

Thưa Ban giám khảo!

Hôm nay tôi rất vinh dự được tham gia thuyết trình trong hội thi “Giáo viên dạy giỏi” cấp Huyện năm học ..., với “Một số biện pháp phát huy năng lực của ban cán bộ lớp”.

I. THỰC TRẠNG

1. Thuận lợi

- Cán bộ quản lí trong nhà trường luôn quan tâm, giúp đỡ giáo viên trong công tác chủ nhiệm lớp và triển khai chuyên đề “Tổ chức quản lí lớp học tích cực”. Thông qua buổi tập huấn, mỗi giáo viên đều nâng cao nhận thức kinh nghiệm chủ nhiệm lớp.

- Bản thân mỗi giáo viên đều nhận thấy vai trò quan trọng của Ban cán bộ lớp đối với công tác chủ nhiệm nên đều muốn xây dựng một đội ngũ cán bộ lớp giỏi.

- Giáo viên trong trường cũng như trong khối luôn quan tâm, giúp đỡ và chia
sẻ những kinh nghiệm chủ nhiệm.

- Học sinh trong trường nói chung cũng như học sinh lớp 2/4 nói riêng luôn
được giáo viên giáo dục kĩ năng sống thông qua các bài học. Bên cạnh đó, trong các buổi sinh hoạt dưới cờ các em luôn được thầy Tổng phụ trách tổ chức các trò chơi rèn kĩ năng sống cho các em.

2. Khó khăn

- Một số giáo viên chưa thực sự quan tâm đến công tác chủ nhiệm còn xao nhãng trong vấn đề quản lí lớp học.

- Giáo viên thường chú trọng về kiến thức còn trong công tác tự quản của cán bộ lớp thì chưa dạy các em phải làm như thế nào. Nhất là giáo viên dạy lớp 1, 2 thường lo học sinh của mình còn nhỏ nên việc quản lớp giáo viên luôn là người làm. Vậy nên vai trò của Ban cán bộ lớp không được phát huy, các em không có cơ hội được thể hiện năng lực lãnh đạo của mình.

- Các em học sinh lớp 2 còn quá nhỏ nên tính tự quản chưa cao, khả năng lãnh đạo còn hạn chế. Các em thường hay ngại ngùng, e dè, chưa tự tin, chưa mạnh dạn trước tập thể. Bên cạnh đó, các em thường cả nể khi nhắc nhở các bạn. Khi gặp những bạn hay chống đối thì các em thấy nản và không muốn làm. Vì vậy công tác chủ nhiệm của giáo viên gặp rất nhiều khó khăn và chồng chéo.

- Trong năm học này, việc dạy và học bán trú là điều điều hoàn toàn mới mẻ với giáo viên và học sinh nên trong công tác quản của giáo viên và tự quản của học sinh còn gặp rất nhiều khó khăn.

- Một số phụ huynh thấy con làm cán bộ lớp sợ ảnh hưởng đến việc học nên thường không ủng hộ.

II. BIỆN PHÁP

1. Nội dung thực hiện:

Nâng cao năng lực tự quản của Ban cán bộ lớp trong công tác quản lí lớp học về nề nếp: trật tự; vệ sinh, xếp hàng; học tập; ăn, ngủ; phong trào thi đua; các cuộc vận động và hoạt động ngoại khóa. Qua đó tập cho học sinh lớp năng lực quản lí, lãnh đạo, mạnh dạn và tự tin.

2. Biện pháp thực hiện

2.1 Tìm hiểu học sinh

- Sau khi nhận được phân công lớp chủ nhiệm, tôi gặp giáo viên chủ nhiệm năm trước để tìm hiểu tình hình chung của cả lớp. Tôi chú ý đến năng lực quản lí lớp của từng em trong ban cán bộ cũ.

Ngày đầu làm quen với lớp, tôi giới thiệu về bản thân và mời các em tự giới thiệu về mình để các em tự tin hơn khi nói trước tập thể lớp. Thông qua đó, nhiều em chứng tỏ được năng lực của mình.

2.2. Bầu Ban cán bộ lớp

- Đầu tiên, tôi khuyến khích các em xung phong ứng cử. Các em phải mạnh dạn và tự tin phát biểu trước tập thể lớp: Nếu được làm lớp trưởng các em sẽ quản lý lớp như thế nào. Sau đó, cho các em tự đề cử những bạn có đủ năng lực quản lí lớp.

- Tổ chức cho cả lớp bỏ phiếu tín nhiệm.

Mỗi em sẽ được nhận một lá phiếu và ghi tên những bạn các em muốn chọn. Các em sẽ cảm thấy vui, hào hứng vì được cầm phiếu thực hiện quyền“ dân chủ” của mình. Từ đó giúp các em có cách lựa chọn đúng.

- Sau khi bầu cử và chọn được Ban cán bộ lớp, tôi mời các em ra mắt cả lớp để các em thấy tự hào và hãnh diện. Đồng thời các em thể hiện bằng một câu nói thể hiện bản lĩnh, năng lực của mình, ví dụ: Nếu làm lớp trưởng tôi sẽ đưa lớp mình học tốt và tham gia tích cực các hoạt động khác hay Tôi nhất định hoàn thành tốt nhiệm vụ lớp phó học tập,… Mặt khác, các em dưới lớp cũng cảm thấy vui vì đã lựa chọn đúng và các em sẽ ủng hộ bạn trong quá trình làm nhiệm vụ.

Ban cán bộ lớp tôi sẽ được học sinh trong lớp bầu luân phiên trong năm học một cách công khai để nhiều em có cơ hội thể hiện năng lực của mình.

2.3. Phát huy năng lực của Ban cán bộ lớp thông qua các hoạt động

Thông qua các hoạt động, tôi giao nhiệm vụ và hướng dẫn Ban cán bộ lớp làm việc để các em phát huy khả năng lãnh đạo của mình. Cụ thể:

- Nề nếp trật tự, vệ sinh, xếp hàng: Lớp trưởng theo dõi, kiểm tra mọi hoạt động của lớp: điểm danh và ghi rõ sĩ số của lớp; điều khiển các bạn xếp hàng ra vào lớp, đi ăn, đi ngủ, chào cờ và thể dục giữa giờ. Lớp phó lao động: Theo dõi việc giữ gìn vệ sinh trong lớp, đi vệ sinh đúng nơi quy định; phân công tưới cây, lau bàn, tủ; theo dõi việc tự ý bật cầu dao điện.

- Nề nếp học tập: Trong các tiết ôn tập lớp phó học tập tổ chức học bài“ Đôi bạn học tốt”; điều khiển các nhóm thảo luận và trình bày kết quả; theo dõi tinh thần, thái độ học của các bạn trong giờ Mĩ thuật, Âm nhạc, Thể dục, Tin học; điều khiển lớp khi lớp trưởng vắng. Tổ trưởng, tổ phó: Theo dõi sát việc học bài ở nhà và ở lớp.

- Phong trào thi đua: Lớp trưởng, lớp phó đưa ra kế hoạch cụ thể và phối hợp với các tổ trưởng, tổ phó để các tổ viên cùng thực hiện.

- Các cuộc vận động: Lớp trưởng nêu rõ mục tiêu cho cả lớp và giao nhiệm vụ cho các tổ. Các tổ trưởng có trách nhiệm vận động tổ viên tham gia nhiệt tình để thi đua với các tổ khác.

- Hoạt động ngoại khoá: Lớp trưởng làm chỉ huy chia lớp thành các đội và bầu ra lãnh đội. Các lãnh đội hướng dẫn đội của mình tham gia hoạt động. Từ đó tạo tính thi đua giữa các đội và các lãnh đội.

- Hay trong tiết Hoạt động tập thể đầu tiên, tôi hướng dẫn tỉ mỉ Ban cán bộ lớp cách tổ chức lớp: Làm gì và Làm như thế nào để các em không thấy bỡ ngỡ khi tự mình tiến hành. Từ tuần thứ hai trở đi, tôi để các em tự tổ chức, điều khiển để các em mạnh dạn, tự tin thể hiện khả năng của mình trước lớp.

2.4. Khen thưởng công khai, khiển trách nhẹ nhàng

Trong học tập, em nào tích cực và có tiến bộ tôi thưởng một phiếu khen và các em được tham gia bốc thăm trúng thưởng trong giờ Chào cờ đầu tuần. Các em sẽ rất vui và cùng nhau thi đua trong học tập. Như vậy nề nếp học tập của cả lớp sẽ tốt hơn và công việc của lớp phó học tập cũng như các tổ trưởng sẽ thuận lợi rất nhiều.

Cuối tháng, tôi cho các em bình chọn “Tổ trưởng giỏi” của tháng. Tổ nào thực hiện tốt thì tổ trưởng được bầu là Tổ trưởng giỏi. Tổ nào thực hiện chưa tốt thì tổ trưởng tổ khác chỉ ra khuyết điểm và giáo viên nhắc nhở nhẹ nhàng trước lớp để các em cố gắng phấn đấu ở tuần sau. Điều này khích lệ tinh thần làm việc mang tính thi đua của các tổ trưởng.
Trong tháng, nếu lớp 2 lần được Cờ luân lưu thì lớp trưởng và 2 lớp phó cũng được thưởng phiếu khen.

2.5. Xây dựng mối quan hệ thầy - trò và trò - trò

Tôi luôn lắng nghe những thắc mắc của các em. Công việc tôi giao trên tinh thần thầy phân công- trò hợp tác để các em thấy được công việc mình làm là không bắt buộc. Tôi luôn khuyến khích các em mạnh dạn kiến nghị, đề xuất. Nếu hợp lí tôi làm theo cách của các em. Như vậy các em sẽ thấy vai trò của mình thật quan trọng và các em càng cố gắng hơn.

Tôi chú ý đến việc tạo mối quan hệ tốt giữa trò với trò. Khi các em hiểu nhau thì sẽ hợp tác trong mọi công việc. Khi tham gia các trò chơi vận động hoặc các hoạt động ngoại khóa tôi thường cho các em tham gia tập thể để các em có tinh thần đoàn kết và hiểu nhau hơn.

Kính thưa Ban tổ chức, ban giám khảo!

Tôi vừa trình bày xong bài thuyết trình: “Một số biện pháp phát huy năng lực của ban cán bộ lớp”.

Cuối cùng xin kính chúc Ban tổ chức, ban giám khảo luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt. Chúc Hội thi thành công tốt đẹp!

Trân trọng cảm ơn!

Bài thuyết trình Hội thi giáo viên giỏi Tiểu học Mẫu 6

Kính thưa Ban giám khảo!

Thưa toàn thể các đồng chí.

Tôi là....... - GV trường tiểu học.....

Tôi xin trình bày Biện pháp Dạy văn miêu tả cây cối lớp 4 theo định hướng phát triển năng lực của học sinh.

Biện pháp gồm có 5 nội dung:

1: Lí do chọn biện pháp

2: Mô tả biện pháp

3: Cách thức và quá trình áp dụng

4: Tính mới và hiệu quả áp dụng

5: Khả năng áp dụng và những kiến nghị , đề xuất.

Tôi xin trình bày nội dung thứ nhất: Lý do chọn biện pháp:

Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn Tiếng Việt. Văn miêu tả cây cối giúp học sinh rèn luyện khả năng dùng từ chính xác, độc đáo, diễn đạt câu rõ ràng, gãy gọn có hình ảnh, cảm xúc để học sinh viết được bài văn hay, giàu tính nghệ thuật nhưng chân thực, thể hiện đúng nhận thức và tình cảm của các em.

Trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy:

* Đối với giáo viên:

  • Một số giáo viên thường dạy lí thuyết suông, theo khuôn mẫu sách giáo viên, sách giáo khoa. Đôi khi giáo viên còn cho đề sẵn, yêu cầu học sinh chuẩn bị sẵn bài tập làm văn trước đó để viết.
  • GV chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp
  • Hình thức dạy học còn đơn điệu, chưa sáng tạo làm cho giờ học kém hiệu quả.

* Đối với học sinh:

  • Nhiều học sinh rất ngại học Tập làm văn, viết văn còn lúng túng, chưa biết cách viết văn miêu tả.
  • Học sinh thiếu kĩ năng quan sát trải nghiệm thực tế

=> Từ những nguyên nhân trên, tôi đã nghiên cứu Dạy văn miêu tả cây cối lớp 4 theo định hướng phát triển năng lực của học sinh nhằm:

- Giúp giáo viên thực hiện đổi mới phương pháp, HTTC dạy học, phát huy khả năng của từng học sinh, làm cho các tiết dạy học văn tả miêu tả cây cối trở nên sinh động, hiệu quả.

- Giúp học sinh lớp 4 yêu thích học văn tả cây cối; tích cực, chủ động trong việc tự tìm tòi, khám phá kiến thức; viết các đoạn văn, bài văn giàu hình ảnh, cảm xúc; bồi dưỡng tình cảm yêu quý cây cối; có tiền đề tốt để học văn lớp 5.

Nội dung thứ hai: Mô tả biện pháp

Dạy văn miêu tả cây cối lớp 4 theo định hướng phát triển năng lực của học sinh, tôi đã thực hiện 6 giải pháp.

2.1. Giải pháp 1: Dạy học văn miêu tả cây cối theo quan điểm tích hợp.

2.1.1. Tích hợp với phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu

Mục đích: Giúp các em tích lũy vốn từ, sử dụng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả cây cối.

* Dạy Tập làm văn thông qua môn Tập đọc:

Ví dụ: Khi dạy bài “Hoa học trò” tôi giúp các em cảm nhận được cái hay, cái độc đáo qua cách dùng từ của Xuân Diệu.

- Để giúp người đọc cảm nhận được số lượng hoa phượng ra nhiều và rất đẹp, ông đã sử dụng một loạt các điệp từ, điệp ngữ không phải , không phải , cả một loạt, cả một vùng, cả một góc trời đỏ rực. đến cây, đến hàng, đến những tán hoa lớn xòe ra .

- Cho học sinh phát hiện biện pháp nghệ thuật trong câu Mỗi hoa chỉ là một phần tử của cái xã hội thắm tươi, người ta quên đóa hoa, chỉ nghĩ đến cây, đến hàng, đến những tán hoa lớn xòe ra như muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau”.

- Yêu cầu nêu tác dụng của việc so sánh như vậy.

- Giải thích vì sao có thể so sánh hoa phượng với muôn ngàn con bướm thắm (mà không phải một con).

Hay Tả lá phượng tác giả viết: “Lá xanh um, mát rượi, ngon lành như lá me non.”

Chỉ bằng một câu nhưng tác giả đã sử dụng tới ba giác quan: mắt (xanh um), xúc giác (mát rượi), vị giác (ngon lành).

=> Từ đó các em tập vận dụng so sánh tương tự: so sánh lá, hoa phượng với hình ảnh khác theo cảm nhận hoặc so sánh loài hoa hay cây khác với hình ảnh nào đó khi miêu tả cây cối; giúp học sinh hiểu khi quan sát cây cối người ta cần phải phối hợp nhiều giác quan.

* Dạy Tập làm văn thông qua môn Luyện từ và câu:

- Khi dạy mở rộng vốn từ theo từng chủ điểm, tôi giúp học sinh hiểu rõ nghĩa các từ ngữ, các thành ngữ, các tục ngữ ; tìm thêm các từ đồng nghĩa, từ gần nghĩa, từ trái nghĩa. thuộc chủ điểm đó để các em biết sử dụng các từ ngữ, thành ngữ chính xác, hợp lý.

Ví dụ: Bên cạnh tính từ “đỏ” dùng để miêu tả hoa hồng (hoa phượng) còn có nhiều từ ngữ khác như: đỏ rực, đỏ tươi, đỏ thẫm, đỏ chót, đỏ như son, đỏ như lửa..tùy từng sự vật mà học sinh có thể lựa chọn nên dùng từ ngữ nào cho phù hợp.

- Trong các bài tập dùng từ đặt câu, tôi luôn đặt một câu văn đủ ý bên cạnh một câu văn khác đủ ý nhưng có hình ảnh để các em so sánh.

Ví dụ: Đặt câu với danh từ “cây bàng”

Câu 1: Thân cây to, cao.

Câu 2: Thân cây to cao nhìn xa như một chiếc ô lớn khổng lồ.

Học sinh nhận xét được câu 2 hay hơn vì nó tạo cho người đọc hình ảnh rất cụ thể cây cây bàng to, cao đến chừng nào.

+ Hoặc hướng dẫn HS thay thế từ ngữ, hình ảnh này bằng từ ngữ, hình ảnh khác cho hấp dẫn hơn. Ví dụ: Thân cây bàng màu nâu.

Sửa thành: Thời gian đã phủ lên thân cây bàng một tấm áo nâu bạc dãi dầu nắng mưa.

Tóm lại: Thông qua phân môn Tập đọc, luyện từ và câu giáo viên có thể khéo léo khai thác để làm giàu vốn từ, giúp học sinh biết cách sử dụng từ ngữ, các biện pháp nghệ thuật một cách hợp lý khi miêu tả cây cối.

*Để lưu giữ vốn từ, câu văn, đoạn văn hay hoặc sinh yêu thích tôi phát động học sinh xây dựng tủ sách lớp học và phong trào đọc sách tích cực. Khuyến khích các em lập sổ văn học, kiểm tra hàng tháng, biểu dương sổ tay có nhiều từ mới.

2.1.2. Tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường, giáo dục kĩ năng sống:

-“Tích hợp”, giáo dục bảo vệ môi trường - Bằng cách gợi mở vấn đề liên quan đến bảo vệ môi trường như đặt thêm câu hỏi để các em cảm nhận, bộc lộ cảm xúc, tình cảm của mình ; giáo dục ý thức bảo vệ môi trường; bảo vệ, trồng và chăm sóc cây xanh...

-Giáo dục kĩ năng sống Thông qua các bài văn miêu tả cây cối học sinh có thêm hiểu biết về đặc điểm một số thực vật; hiểu được cách chăm sóc, bảo vệ và ích lợi của chúng.

Ví dụ:

+ Nhìn những đoá hoa đang khoe sắc, em có cảm xúc gì ? Em có nên ngắt một bông hoa ở trường để tặng một người em yêu quý không ?Vì sao ?

2.2. Giải pháp 2: Tạo động cơ, hứng thú viết văn miêu tả cây cối.

Để khích lệ, động viên HS tôi để HS được tự do trình bày quan điểm, suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc; tôn trọng sự sáng tạo, suy nghĩ độc đáo, mới lạ của mỗi học sinh khi viết và nói trong văn miêu tả cây cối.

Thường xuyên kiểm tra, nhận xét bài của học sinh; so sánh kết quả với bài trước nhằm đánh giá mức độ nắm kiến thức và rèn kĩ năng của học sinh để động viên kịp thời sự tiến bộ của học sinh, đồng thời điều chỉnh phương pháp giảng dạy cho phù hợp.

Điều chỉnh đề bài tập làm văn để tạo động cơ, hứng thú làm văn cho học sinh ngay từ đề bài .

Ví dụ: Tiết Miêu tả cây cối (Kiểm tra viết) tuần 27 có 4 đề bài gợi ý: Đề 1: Tả một cây có bóng mát.

Từ đề trên tôi đã ra đề khác cùng nội dung để kích thích, định hướng cho học sinh viết bài văn có hình ảnh sinh động và giàu cảm xúc.

Tả một cây có bóng mát ở trường gắn với nhiều kỉ niệm của em.

Hoặc: Trường em có rất nhiều cây bóng mát gắn liền với biết bao nhiêu kỉ niệm của tuổi học trò. Hãy tả lại một cây trong những cây đó.

Bài thuyết trình Hội thi giáo viên giỏi Tiểu học Mẫu 7

Kính thưa Ban giám khảo!

Thưa toàn thể các đồng chí.

Tôi là……. – GV trường tiểu học…..

Tôi xin trình bày bài thuyết trình với chủ đề Biện pháp Dạy văn miêu tả cây cối lớp 4 theo định hướng phát triển năng lực của học sinh.

Tôi xin trình bày Lý do chọn biện pháp:

Tập làm văn là một trong những môn có vị trí quan trọng đặc biệt văn miêu tả cây cối giúp học sinh có khả năng dùng từ chính xác, diễn đạt câu rõ ràng, cảm xúc để học sinh viết được bài văn giàu tính nghệ thuật, thể hiện đúng nhận thức của các em.

Trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy:

* Đối với giáo viên:

– Một số giáo viên thường dạy theo khuôn mẫu sách giáo khoa. Đôi khi họ còn cho đề sẵn, cho học sinh làm văn trước đó để viết.

– GV chưa chịu sáng tạo đổi mới phương pháp

– Hình thức dạy học còn đơn điệu làm cho giờ học kém hiệu quả.

* Đối với học sinh:

– Nhiều học sinh rất ngại làm văn, chưa biết cách viết văn miêu tả.

– Học sinh thiếu kĩ năng trải nghiệm thực tế

Mô tả biện pháp

Dạy học văn miêu tả cây cối theo quan điểm tích hợp.

Mục đích: Giúp các em tích lũy vốn từ, vận dụng các biện pháp nghệ thuật khi làm văn tả cây cối.

* Dạy Tập làm văn thông qua môn Tập đọc:

Ví dụ: Khi dạy bài “Hoa học trò” giúp các em cảm nhận được cái độc đáo trong cách dùng từ của Xuân Diệu.

– Tác giả đã sử dụng một loạt các điệp từ, điệp ngữ để giúp người đọc cảm nhận được số lượng hoa phượng.

– Yêu cầu nêu tác dụng của việc so sánh trong câu “Mỗi hoa chỉ là một phần tử của cái xã hội thắm tươi, người ta quên đóa hoa, chỉ nghĩ đến cây, đến hàng, đến những tán hoa lớn xòe ra như muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau”.

=> Từ đó các em so sánh lá, hoa phượng với hình ảnh khác và rút ra kết luận khi quan sát cây cối cần phải phối hợp nhiều giác quan.

* Dạy Tập làm văn thông qua môn Luyện từ và câu:

– Khi dạy mở rộng vốn từ cần giúp học sinh hiểu rõ nghĩa các thành ngữ, các từ ngữ, các tục ngữ thuộc chủ điểm đó một cách chính xác, hợp lý.

Ví dụ: Đặt câu với danh từ “cây bàng”

Câu 1: Thân cây to, cao.

Câu 2: Thân cây to cao nhìn từ xa trông như một chiếc ô lớn khổng lồ.

Học sinh nhận xét được là câu văn số 2 hay hơn vì nó tạo cho người đọc cảm giác rất cụ thể cây bàng to và cao đến chừng nào.

+ Hoặc hướng dẫn HS thay thế hình ảnh, từ ngữ này bằng hình ảnh, từ ngữ khác cho hấp dẫn hơn. Ví dụ: Thân cây bàng có màu nâu thành: Dấu vết thời gian đã phủ một tấm áo nâu bạc dãi dầu nắng mưa lên thân cây bàng.

Tạo động cơ, hứng thú viết văn miêu tả cây cối.

Khích lệ, động viên HS tự do trình bày quan điểm, suy nghĩ, cảm xúc; tôn trọng sự sáng tạo, sự mới lạ của mỗi học sinh khi viết văn miêu tả cây cối.

Thường xuyên nhận xét bài của học sinh nhằm đánh giá mức độ nắm kiến thức, kĩ năng của học sinh để nâng cao sự tiến bộ của học sinh.

.......

Chia sẻ, đánh giá bài viết
11
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Thi giáo viên dạy giỏi

    Xem thêm