Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Bình giảng bài thơ Bài ca phong cảnh Hương Sơn

Bình giảng bài thơ Bài ca phong cảnh Hương Sơn vừa được VnDoc.com sưu tập và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo để có thêm tài liệu học tập. Mời các bạn cùng tham khảo và tải về tại đây.

1. Dàn ý bình giảng Bài ca phong cảnh Hương Sơn

1. Mở bài

- Chu Mạnh Trinh (1862-1905), tự Cán Thần, hiệu Trúc Vân, là một danh sĩ thời Nguyễn, ông là người đa tài, đặc biệt trong văn chương cũng có nhiều tác phẩm để đời.

- Một trong số những sáng tác nổi tiếng của ông là bài hát nói Hương Sơn phong cảnh ca, đây được xem là một trong những áng văn hay và đặc sắc của văn học Việt Nam khi nói về chốn tôn giáo linh thiêng.

2. Thân bài

* 4 câu thơ đầu: Khái quát vẻ đẹp của Hương Sơn "Bầu trời...có phải?"

- Câu thơ mở đầu "Bầu trời cảnh Bụt" mở ra chủ đề xuyên suốt toàn bài thơ, đó là không khí linh thiêng nơi cửa phật đang bao trùm lên toàn bộ cảnh vật, gợi ra vẻ đẹp thanh tịnh, thoát tục của núi rừng Hương Sơn.

- Vẻ đẹp của nơi đây là sự phối hợp giữa vẻ đẹp của non, nước, mây cùng với hệ thống hang động đẹp nhất trời Nam.

* 10 câu thơ tiếp "Thỏ thẻ...thang mây": Vẻ đẹp chi tiết của Hương Sơn:

- "Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái/Lửng lơ khe Yến cá nghe kinh.": Vẻ đẹp thanh tịnh, cảnh vật yên bình, chậm rãi thong thả, được bao quanh bởi không khí thanh tịnh, thiền tu.

- "Thoảng bên tai một tiếng chày kình/Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.": Nghệ thuật lấy động chế tĩnh càng tô đậm cái sự yên tĩnh, thanh tịnh vô cùng của chốn Hương Sơn.

- Tiếng chuông chùa đánh thức con người khỏi giấc mộng phàm tục, giác ngộ rằng tất cả những vướng bận cuộc đời cuối cùng chỉ như là một giấc mộng tang hải thương điền, nhiều suy vi, biến đổi.

- "Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng/Này am Phật Tích, này động Tuyết Quynh.": Vẻ đẹp phong phú đa dạng với nhiều thắng cảnh, di tích.

- 4 câu cuối "Nhác trông lên...uốn thang mây": Vẻ đẹp rất đỗi phiêu diêu, thư thái, vừa huyền ảo, vừa mỹ lệ, đặc sắc mà khó nơi nào có được.

* 5 câu thơ cuối "Chừng giang sơn...còn yêu": Biến chuyển trong tâm hồn tác giả:

- Câu hỏi tu từ "Chừng giang sơn còn đợi ai đây/Hay tạo hóa khéo ra tay sắp đặt", có ý ca ngợi vẻ đẹp của Hương Sơn, vẻ đẹp ấy dường như đang chờ mỗi một người trong thế gian.

- Chu Mạnh Trinh cũng dường như tạm quên đi thân phận, rũ bỏ hết âu lo, để hòa vào không khí thanh tịnh nơi đây, tâm hướng về Phật tổ, "Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật".

- Phong cảnh Hương Sơn quả thực là mang trong mình những vẻ đẹp hấp dẫn, khó chối từ, để trong lòng thi nhân mãi một ý nghĩ "Càng trông phong cảnh càng yêu".

3. Kết bài

- Hương Sơn phong cảnh ca là một tác phẩm hay với giọng thơ nhẹ nhàng, khoan khoái như thả hồn vào cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng đã làm nổi bật vẻ đẹp thanh tịnh, nhưng cũng không kém phần thơ mộng tựa chốn bồng lai của quần thể danh thắng Hương Sơn.

- Vẻ đẹp và những xúc cảm tinh tế trong tâm hồn tác giả, đó là một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đất nước sâu sắc, kết hợp với cảm hứng Phật giáo của một danh sĩ đa tài.

2. Bình giảng Bài ca phong cảnh Hương Sơn mẫu 1

Chu Mạnh Trinh (1862-1905), tự Cán Thần, hiệu Trúc Vân, là một danh sĩ thời Nguyễn, từ bé đã nổi tiếng thông minh sáng dạ, từng làm quan dưới triều Nguyễn. Ông là một người đa tài, ngoài có tài văn chương ông còn là một nhà kiến trúc tài năng, từng thiết kế đền Hoa Đà thờ Chử Đồng Tử, lại thiết kế cả chùa Thiên Trù nằm trong khu danh thắng Hương Sơn, Mỹ Đức, Hà Tây. Cũng trong không khí liêng thiêng, thanh tịnh chốn Phật giáo, cùng với vẻ đẹp của cảnh sắc chốn bồng lai ấy đã khơi gợi trong tâm hồn Chu Mạnh Trinh những cảm hứng đặc biệt, từ đó viết nên bài hát nói Hương Sơn phong cảnh ca, đây được xem là một trong những áng văn hay và đặc sắc của văn học Việt Nam khi nói về chốn tôn giáo linh thiêng.

"Bầu trời, cảnh bụt,

Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay.

Kìa non non, nước nước, mây mây,

Đệ nhất động hỏi là đây có phải?"

Câu thơ mở đầu "Bầu trời cảnh Bụt" là một câu thơ rất đặc biệt, mở ra chủ đề xuyên suốt toàn bài thơ, đó là không khí linh thiêng nơi cửa phật đang bao trùm lên toàn bộ cảnh vật, gợi ra vẻ đẹp thanh tịnh, thoát tục của núi rừng Hương Sơn. Cảnh sắc nơi đây là sự hòa quyện, phối hợp nhịp nhàng giữa những dãy núi trùng điệp hùng vĩ, dưới chạm mặt nước trong xanh, bên trên lại quyện với từng tầng mây trắng, và đặc sắc nhất đó chính là quần thể những hang động huyền bí. Đứng trước vẻ đẹp tựa như chốn bồng lai tiên cảnh mà mình "ao ước bấy lâu nay", tác giả đã không kìm được lòng phấn khích, sự ngạc nhiên đến ngỡ ngàng trước những cảnh sắc thơ mộng ấy mà phải thốt lên câu hỏi tư từ "Đệ nhất động hỏi là đây có phải?". Quả thực, sự kết hợp hoàn hảo giữa một thiên nhiên thơ mộng, thoát tục với những vẻ đẹp hùng vĩ của non nước, của Nam thiên đệ nhất động, khó có thể khiến người ta cầm lòng vui sướng.

Vẻ đẹp thơ mộng, thoát tục của chốn Hương Sơn được tác giả dùng 10 câu thơ trong bài để gợi ra.

"Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,

Lửng lơ khe Yến cá nghe kinh.

Thoảng bên tai một tiếng chày kình,

Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.

Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng,

Này am Phật Tích, này động Tuyết Quynh.

Nhác trông lên, ai khéo vẽ hình:

Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt.

Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt,

Chập chờn mấy lối uốn thang mây."

Tác giả dùng những hình ảnh rất thú vị "thỏ thẻ rừng mai", "lững lờ khe yến", bằng nghệ thuật đảo ngữ tăng sức hấp dẫn cho câu thơ, thêm những từ láy "thỏ thẻ" "lững lờ" gợi cảm giác thanh tịnh, chậm rãi thong thả của thiên nhiên. Có lẽ được bao phủ bởi không khí linh thiêng chốn cửa Phật mà dường như mọi vật ở đây đều trở nên có Phật tính, hình ảnh nhân hóa "cá nghe kinh", "chim cúng trái" là những hình ảnh đẹp gợi liên tưởng muông thú cũng được cảm hóa, tất cả đều đang tịnh tâm thiền tu. Mọi cảnh sắc đều trở mềm mại, yên bình, tựa như chốn bồng lai tiên cảnh, tách biệt hẳn so với thế giới phàm tục, phức tạp ngoài kia. "Tiếng chày kình" dẫu ở rất xa chỉ nghe thoảng bên tai lữ khách nhưng cũng làm "Khách tang hải giật mình trong giấc mộng" nghệ thuật lấy động chế tĩnh càng tô đậm cái sự yên tĩnh, thanh tịnh vô cùng của chốn Hương Sơn. Tiếng chuông chùa xa xa ấy đã đưa người vãn cảnh, hành hương thoát khỏi những bận lòng của thế gian, để được hòa mình vào với không khí thanh cao, tịnh tâm chốn cửa Phật, để rũ bỏ những muộn phiền, mà giác ngộ rằng tất cả những vướng bận cuộc đời cuối cùng chỉ như là một giấc mộng tang hải thương điền, nhiều suy vi, biến đổi.

Vẻ đẹp của quần thể danh thắng Hương Sơn còn nằm ở các di tích thắng cảnh, Chu Mạnh Trinh đã tinh tế dùng phép liệt kê kết hợp với điệp từ "này" để diễn tả sự nối tiếp phong phú và đa dạng của khu danh thắng , đó là suối Giải Oan, chùa Cửa Võng, am Phật Tích, động Tuyết Quynh. Không chỉ dừng lại ở đó vẻ đẹp của nơi đây còn nằm ở những cảnh sắc mỹ lệ và độc đáo như "đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt', hay là vẻ đẹp có chiều sâu của các hang động "Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt", là sự hòa quyện của cái u tối, thâm sâu của hang động và cái thanh mát, dịu dàng của ánh trăng. Hay là một vẻ đẹp kết hợp giữ cái gập ghềnh của lối đi và vẻ đẹp bồng bềnh nhẹ nhàng của mây, tựa như con đường dẫn tới chốn bồng lai của một vị tiên nhân nào đó. Tất cả cùng kết hợp tạo nên một vẻ đẹp rất đỗi phiêu diêu, thư thái, vừa huyền ảo vừa mỹ lệ, đặc sắc mà khó nơi nào có được, thực sự là "ai khéo họa hình".

"Chừng giang sơn còn đợi ai đây

Hay tạo hóa khéo ra tay sắp đặt

Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật

Cửa từ bi công đức biết là bao

Càng trông phong cảnh càng yêu"

Giữa phong cảnh Hương Sơn tuyệt mỹ, tâm hồn người đã có nhiều biến đổi, câu hỏi tu từ "Chừng giang sơn còn đợi ai đây/Hay tạo hóa khéo ra tay sắp đặt", có ý ca ngợi vẻ đẹp của Hương Sơn, vẻ đẹp ấy dường như đang chờ mỗi một người trong thế gian này được một lần đến vãn cảnh, được hưởng chút không khí thanh tu, tĩnh lặng, yên bình nơi cửa Phật. Trong không khí ấy, Chu Mạnh Trinh cũng dường như tạm quên đi thân phận, rũ bỏ hết âu lo, để hòa vào không khí thanh tịnh nơi đây, tâm hướng về Phật tổ, "Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật". Phong cảnh Hương Sơn quả thực là mang trong mình những vẻ đẹp hấp dẫn, khó chối từ, để trong lòng thi nhân mãi một ý nghĩ "Càng trông phong cảnh càng yêu".

Hương Sơn phong cảnh ca là một tác phẩm hay với giọng thơ nhẹ nhàng, khoan khoái như thả hồn vào cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng đã làm nổi bật vẻ đẹp thanh tịnh, nhưng cũng không kém phần thơ mộng tựa chốn bồng lai của quần thể danh thắng Hương Sơn. Qua đó ta thấy được vẻ đẹp và những xúc cảm tinh tế trong tâm hồn tác giả, đó là một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đất nước sâu sắc, kết hợp với cảm hứng Phật giáo của một danh sĩ đa tài.

3. Bình giảng Bài ca phong cảnh Hương Sơn mẫu 2

Chu Mạnh Trinh là một người tài hoa, ông thạo đủ cầm kì thi họa lại giỏi cả nghệ thuật kiến trúc và đặc biệt say mê cả cảnh đẹp. Thi sĩ Xuân Diệu đã xếp Chu Mạnh Trinh vào hàng ngũ những tai nhân tài tử tài tình trong nền văn học Việt Nam thời cận đại. Hương sơn phong cảnh ca là một tác phẩm được ông viết khi ông đứng ra trông coi và trùng tu lại di tích quần thể thắng cảnh Hương Sơn. Hương Sơn là một thắng cảnh thuộc huyện Mỹ Đức Hà Tây. Bài thơ được viết theo thể hát nói giàu nhạc điệu, nhạc tính viết về cảnh đẹp của Hương Sơn cảnh sắc vô cùng xinh đẹp và nên thơ

Thơ viết về Hương sơn thì có rất nhiều nhưng “hương sơn phong cảnh ca”của chu mạnh trinh được xem là một áng kiệt tác. Bài thơ được viết theo thể hát nói tô đậm lên vẻ đẹp hoang sơ kì vĩ của đất trời hương sơn. Khổ thơ đầu là phong cảnh hương sơn dần lọt vào mắt của du khách khi nhìn từ phía xa. Câu thơ đầu tiên cũng là câu thơ ngắn nhất của bài thơ: “Bầu trời cảnh bụt”

Từ xa khung cảnh hương sơn dần lọt vào mắt du khách vừa thực vừa ảo, dường như ta đã lọt vào thế giới cực lạc nơi tâm hồn có thể bay bổng cùng thiên nhiên. Đó chính là thế giới của cảnh bụt. Đây không phải là thế giới nhà sư, của các nhà phật như trong chùa bái đính hay trong thần thoại tây du kí của tôn ngộ không mà cả thế giới của bụt. Ta dường như cảm nhận được sự bình yên lắng đọng, cảm giác thuộc về thiên nhiên tràn ngập trong ta khi nhìn ngắm nơi đây từ xa trong màn sương khói nửa mơ nửa thực. Dòng thơ mở đầu chỉ vẻn vẹn có bốn câu nhưng đã xác định chủ âm của bài thơ. Từ đây nhà thơ sẽ viết lên những câu thơ mang cảm hứng ấy, vị thiền độc đáo của hương sơn. Sau cái nhìn bao quát ấy khung cảnh hương sơn dần lộ ra dưới nét bút điêu luyện của thi sĩ.

”Kìa non non nước nước mây mây”

Đọc đến đây ta như cảm giác có ai đó đang thúc giục ta nhanh nhanh lên đường tìm hiểu hương sơn tìm hiểu cảnh đẹp nơi đây. Nhịp thơ nhanh cho ta thấy cảm giác hối hả có phần háo hức của tác giả khi khung cảnh hương sơn phút chốc đã dần lộ ra. Cảnh non nước đã được nhà thơ điệp trùng luyến láy khiến cho không cảnh đẹp nơi đây như đang trải dài ra cùng non nước trời mây. Cảnh trí hùng vĩ cùng non nước mây trời là vẻ đẹp riêng của bầu trời cảnh bụt. Du khách vui thú tự hỏi liệu đây có phải là đệ nhất động đầy ngạc nhiên tự hào xúc động. Những câu thơ sau là minh chứng cho khẳng định bầu trời cảnh bụt trong câu thơ đầu tiên.

“Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái

Lửng lơ khe yến có nghe kinh

Thoảng bên tai một tiếng chày kinh

Khách tang hải giật mình trong giấc mộng”

Rừng mai và khe Yến là hai cảnh đẹp nổi tiếng của hương sơn. Chim “thỏ thẻ gọi nhai mổ trái mai vàng “chim cúng trái”. Cá lửng lơ bơi lội nơi khe yến “có nghe kinh”. Hình ảnh ẩn dụ với đường nét am thanh gợi mùi thiền. Đến chim cá là những con vật không hiểu được cũng lửng lơ nghe kinh. Phải chăng ta đã lạc vào chốn thiên đường nơi chỉ có những đạo lí những điều tốt đẹp mà mọi người dành cho nhau không có bất cứ tranh đua nào. Đây rốt cuộc là chốn bồng lai tiên cảnh nào mà chim cúng trái cá lại có thể nghe kinh và con người lạc vào đây thì lại thảng thốt tiếng chày kinh bên tai. Hương sơn kì thú đến thế nào mà cả con người, chim cá đều dường như thoát tục hòa nhập hòa tan vào trong tất cả để rồi giật mình ngỡ đang trong mộng. Những câu thơ cho ta nhiều thú vị về nhạc điệu du dương, âm hưởng trầm bổng của vần thơ. Chu Mạnh Trinh không chỉ tạo lên những vần thơ nhịp nhàng khi tả về cảnh chim cá nơi đây mà còn thể hiện hồn cảnh của phong cảnh hương sơn nam thiên đệ nhất động. Thi sĩ mân mê dẫn đường khi tiếp tục kể ra những địa danh nổi tiếng của hương sơn.

“Này suối Giai Oan, này chùa Cửa Võng

Này am Phật Tích, này động Tuyết Quynh

Hương sơn có rất nhiều danh lam thắng cảnh nhưng Chu Mạnh Trinh chỉ nêu lên bốn danh lam suối Giai Oan, chùa cửa võng, phật tích động tuyết quynh , nhà thơ chỉ kể mà không tả dường như cố ý muốn gây sự tò mò cho người đọc , mời mọi người hãy đến đây để cùng thưởng ngoạn vẻ đẹp hương sơn và tìm hiểu vùng đất thiền bằng việc tác giả nêu ra những danh lam đậm chất “bụt” Ta như đang được hòa cùng nhà thơ vào cảnh bụt đem lại nhiều tư tưởng hướng thiện trong ta khiến ta không khỏi mong muốn được đến thăm hương sơn một lần.

Tiếp tục ý thơ, tác giả lại đưa người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác khi miêu tà cảnh vật hương sơn lộ ra mỗi lúc một gần, ngày một chi tiết hơn.

“Nhác trông lên ai khéo họa hình

Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt

Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt

Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây”

Nghệ thuật so sánh đá ngũ sắc với gấm dệt nhằm thể hiện niềm tự hào của nhà thơ về đất nước và con người Việt Nam. các từ “thăm thẳm”, “gập ghềnh” diễn tả sự cheo leo của các hang động và đây dường như các chướng ngại vật mà thiên nhiên cố tình tạo ra để con người phải vượt qua thì mới chiêm ngưỡng được hết thảy tất cả mọi cảnh vật kì thú nơi đây. Phép đảo ngũ đã làm nổi bật cái độ sâu thẳm của các hang động, cái gập ghềnh của các sườn núi và những thang mây cao vút. Với những câu thơ này du khách dường như đã đặt những bước chân cuối cùng đến Hương sơn

Tiếng chày kinh động, tiếng chuông Hương sơn đánh thức người khách tang hải trong giấc mộng thì đến đây cuộc hành hương mới đi vào hồi kết thúc.

“Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật,

Cửa từ bi công đức, xiết là bao

Càng trông phong cảnh càng yêu”

Đoạn kết bài thơ là nơi tập trung thể hiện tư tưởng à cảm hứng tình yêu quê hương, niềm tự hào dân tộc của nhà thơ. Đồng thời cũng nhắc nhở mọi người có cùng trách nhiệm làm đẹp cho giang sơn đất nước. Bài thơ sử dụng từ tạo hình, giọng thơ nhẹ nhành sử dụng nhiều kiểu câu khác nhau, ngữ điệu tự do phù hợp với tư tưởng phóng khoáng. Bài ca là một sự phong phú về giá trị nhân bản cao đẹp trong thế giới tâm hồn của thi nhân. Tình yêu mến cảnh đẹp gắn với tình yêu quê hương đất nước của tác giả.

Bài thơ của Chu Mạnh Trinh đã làm làm phong phú thể ca trù hát nói của dân tộc. Có đi lễ hội chùa Hương ta mới thấy hết cái hay của bài thơ Hương Sơn phong cảnh ca.

Với ngòi bút tài hoa tác giả đã miêu tả cảnh sắc Hương Sơn rất đẹp, vẻ đẹp thiên nhiên với suối, hang đông, trời mây non nước, đượm mùi thiền mà thoát tục. Yêu hương sơn đến độ say sưa của một tâm hồn thi sĩ tài hoa, tác giả đã phát hiện ra vẻ đẹp thanh thoát độc đáo ở nơi đây. Sống hòa hợp , chân thành hơn sau khi đến đây là chia sẻ của rất nhiều du khách.

Chính cái thiền cái đất trời bụt trong hương sơn đã tạo cho nó một cái gì đó khác lạ mà huyền bí đến lạ thường mà mỗi du khách sau khi đến đây đều mong một lần nữa được đặt chân lên mảnh đất thiền này. Bởi cảnh đẹp nơi đây là vô tận là mênh mông non nước , cũng vì thế mà tác giả không hề nói chi tiết về các danh thắng mà chỉ nêu tên có lẽ vì vẻ đẹp và kiến trúc nơi đây không chỉ nói một hai câu là xong mà là cả một chặng đường dài mới có thể tìm hiểu được thiên nhiên phong phú nơi đây.

4. Bình giảng Bài ca phong cảnh Hương Sơn mẫu 3

Chu Mạnh Trinh (1862-1905) đậu tiến sĩ, nổi danh tài hoa phong nhà văn chương lỗi lạc, âm nhạc, hội hoạ, kiến trúc đều tinh thông. Chu Mạnh Trinh là người vẽ kiểu, trùng tu chùa Thiên Trù ở Hương Sơn. Thi sĩ Xuân Diệu đã xếp Chu Mạnh Trinh vào hàng ngũ những tao nhân – tài tử – tài tình trong nền văn học Việt Nam thời cận đại.

Hương Sơn thuộc huyện Mĩ Đức, tỉnh Hà Tây, một vùng sơn thuỷ hữu tình có động Hương Tích với nhiều chùa chiền tuyệt đẹp, được coi là “Nam thiên đệ nhất động”. Hội chùa Hương là một lề hội lớn nhất ở miền Bắc nước ta, kéo dài từ tháng giêng đến tháng ba âm lịch hàng năm, có ngày đông tới hàng vạn người. Thám hoa Vũ Phạm Hàm đã từng viết:

Người tai mắt kẻ nhân gian,

Ai chẳng đến Hương Sơn thì cùng tục.

(Hương Sơn phong cảnh)

Thơ viết về Hương Sơn khá nhiều. Trong hàng trăm bài thơ của các thi sĩ thời cận đại và hiện đại, bài thơ Hương Sơn phong cảnh ca của Chu Mạnh Trinh được xem là áng thơ kiệt tác. Bài thơ được viết theo thể hát nói (đôi hai khổ giữa) gồm 19 câu thơ. Tính nhạc du dương, cảnh đẹp thiên nhiên đượm mùi Thiền, được miêu tả và cảm nhận qua tâm hồn nghệ sĩ tài hoa là nét đặc sác của bài thơ này.

Khổ thơ đầu giới thiệu khái quát phong cảnh Hương Sơn được tả từ xa trong tầm mắt của du khách. Giọng thơ trang trọng, từ điệu khoan thai thể hiện du khách vừa đi vừa đứng lại ngắm cảnh và suy ngẫm:

Bầu trời cảnh Bụt,

Thú Hương Sơn ao ước bây lâu nay.

Kìa non non, nước nước, mây mây,

Đệ nhất động hỏi đây có phải?

Một thiên nhiên mênh mông chan hoà với màu sắc Phật giáo. Hương Sơn là thiên tạo nhưng cũng là cảnh Bụt đã và đang vẫy gọi người đời. Đi lễ hội chùa Hương là thú vui, là niềm ước ao bấy lâu nay của nhiều người.

Vốn từ xưa, trong dân gian lưu truyền câu: “Dục đáo Hương Sơn bất khả ước”, nghĩa là muốn đến Hương Sơn không thể nói trước. Người đời tin rằng nếu nói trước sẽ gặp điều trở ngại không đi được. Câu thơ thứ hai của Chu Mạnh Trinh mang một ý mới mẻ: cảnh đẹp Hương Sơn và lễ hội chùa Hương là thú vui mà nhiều người từng ao ước bấy lâu nay. Kìa là đại từ để trỏ một vật từ xa; ở trong văn cảnh biểu lộ sự ngạc nhiên trước cảnh tri thiên nhiên hùng vĩ. Ba chữ non non, nước nước, mây mây được điệp lại hai lần chỉ số nhiều, gợi tả cảnh núi non, sông nước, mây trời tầng tầng lớp lớp, nhấp nhô trùng điệp như mở ra và dẫn dụ khách vào một thế giới thiên nhiên kì vĩ hấp dẫn. Khách trầm trồ, tự hỏi để rồi khẳng định: Hương Sơn là Nam thiên đệ nhất động. Cảm xúc mà vần thơ tạo nên vừa hư vừa thực, lâng lâng mộng ảo. Du khách như mở rộng tâm hồn chiếm lĩnh bầu trời cảnh Bụt kì quan tạo hoá xây đắp đã bao đời nay, đã tô điểm giang sơn gấm vóc.

Khổ thơ tiếp theo trong bài hát nói gọi là khổ giữa, nhà thơ nói về suối, rừng và tiếng chuông chùa. Ba chi tiết nghệ thuật này đều tô đậm nét đặc trưng của Hương Sơn. Rừng là rừng Mai với trái mơ đặc sản của chùa Hương. Tiếng chim hót thỏ thẻ – chậm rãi, nỉ non – gọi bầy tìm bạn, kết đôi. Bầy chim trời vừa hót vừa mổ trái mơ. Hình ảnh chim cúng trái là nét vẽ độc đáo, tài hoa. Bầy chim mổ trái mơ như khách hàng hương đứng dưới mái chùa cổ trong hang động đang khom lưng khấn vái trước mâm ngũ quả dâng trên bàn thờ Phật. Suối ở đây là suối Yến. Chơi chùa Hương ai cũng phải đi đò dọc bến Đục suối Yến? Đàn cá nơi suối Yến lững lờ bơi từ từ thong thả – như đang cùng du khách thưởng ngoạn cảnh trí. Cá nghe kinh cũng là một hình ảnh sáng tạo, đầy chất thơ. Đây là hai câu thơ hay nhất trong bài hát nói:

Thỏ thẻ rừng Mai, chim cúng trái

Lửng lơ khe Yến, cá nghe kinh.

Cảnh lâm tuyền hữu tình đăng đối hài hòa, có chim có cá, có khe Yến rừng Mai, tạo vật được nhân hòa đượm mùi Thiền; Chim cúng trái, cá nghe kinh. Có âm thanh thỏ thẻ, có đường nét lửng lơ. Nét vẽ vừa thanh vừa nhẹ thể hiện bút pháp điêu luyện của nghệ sĩ tài ba. Cũng tả cảnh rừng mơ Hương Tích, một thi sĩ khác cảm nhận:

Trong bụi rậm đàn chim thỏ thẻ

Dưới rừng xanh mấy chị tìm mơ

Lá vàng man mác ngẩn ngơ…

(Hương Sơn phong cảnh — Vũ Phạm Hàm)

Lội suối trèo non… thăm thú chùa xưa, hang động nơi cảnh Bụt, bỗng một tiếng chuông chùa xa đưa tới thoảng bên tai êm ái mơ hồ. Khách hành hương như trút đi bao nỗi ưu phiền trong cuộc đời tang hải – bể dâu – đầy biến động, nhọc nhằn. Tiếng chuông như ru hồn khách tang hải, giật mình trong khoảnh khắc chìm sâu hơn vào giấc mộng diệu huyền:

Thoảng bên tai một tiếng chày kình

Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.

Câu thơ cho ta nhiều thú vị về nhạc diệu du dương. Hai thanh bằng có K âm vang ngân nga, ngọt ngào vần với nhau: kình – mình tạo nên nhạc điệu, âm hưởng trầm bổng của vần thơ. Chỉ một tiếng chày kình êm ái trầm bổng nơi chùa Hương cũng đủ rửa sạch bụi trần làm thanh thản, thảnh thơi tâm hồn khách tang hải. Chu Mạnh Trinh không chỉ tạo nên những vần thơ có nhạc có hoạ khi tả chim, tả cá, tả tiếng chuông chùa mà còn thế hiện sự kì diệu của hồn cảnh vật Hương Sơn Nam thiên đệ nhất động.

Hai khổ thơ 3 và 4 tiếp theo là hai khổ dôi của bài hát nói. Hương Sơn có biết bao cảnh đẹp nên thi sĩ phải sử dụng khổ dôi để diễn tả cảm xúc và miêu tả cảnh vật. Du khách như đi dần vào thế giới Hương Sơn, nơi bầu trời cảnh Bụt. Chu Mạnh Trinh dùng biện pháp tu từ liệt kê và điệp từ để tả, để vẽ, để tạo nên nhạc điệu trầm bổng của vần thơ. Hai cập song hành với bức tranh tứ bình nối tiếp hiện ra. Bốn chữ này vang lên như bốn nốt nhấn của khúc ca:

Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng,

Này am Phật Tích, này động Tuyết Quynh.

Sự phối thanh bằng, trắc ở hai tiếng chẵn (2, 4, 6, 8) trong hai câu thơ này cũng cho thấy bút pháp già dặn, tài hoa của tác giả đế làm nối bật tính nhạc của bài hát nói. Hương Sơn có rất nhiều di tích thắng cảnh nhung Chu Mạnh Trinh chỉ giới thiệu bốn cảnh điển hình, chỉ gợi ra mà không tả. Suối Giải Oan, chùa Cửa Võng, am Phật Tích, động Tuyết Quynh mỗi đi tích mỗi thắng cảnh đều đem đến cho ta nhiều liên tưởng và hướng thiện lòng người hành hương. Ai cũng cảm thấy mình đang cùng nhà thơ chan hòa vào cảnh Bụt, được sống lại giây phút mà chỉ có bầu trời, cảnh Bụt nơi Hương Sơn mới ban phát cho mình. Cảm hứng tín ngưỡng về đạo Phật được thể hiện qua những vần thơ nói về suối, chùa, am, động như mời gọi du khách, lắng nghe tiếng chuông chùa xa đưa lại mà ngạc nhiên, mà ngỡ ngàng…

Chu Mạnh Trinh có những vần thơ đầy màu sắc tả hang động. Cảnh sắc ấy được tạo dựng nên bởi hoá công và tài trí của con người:

Nhác trông lên ai khéo vẽ hình

Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt.

Những liên tưởng so sánh về nhũ đá trong các hang động biểu lộ niềm tự hào của nhà thơ về đất nước và con người Việt Nam: yêu đời, yêu tạo vật, biết đem bàn tay khéo léo tô điểm cảnh trí non sông.

Hương Sơn có đường lên trời có hang xuống âm ti địa ngục dẫn khách hành hương du nhập vào thế giới siêu thoát. Cảnh được tả từ xa tới gần, từ khái quát đến cụ thể, từ cao xuống thấp, từ thấp lên cao, huyền ảo. Các từ láy: thăm thẳm, gập ghềnh gợi tả độ sâu, nét lượn cheo leo, khúc khuỷu của sườn non, hang động mà du khách lần bước vượt qua để hoà nhập với thiên nhiên, để chiếm lĩnh cái hồn của cảnh bụt. Phép đảo ngữ đã làm nổi bật cái độ sâu thăm thẳm của hang động, cái nét gập ghềnh của những sườn non, những thang mây cao vút:

Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt.

Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây.

Có hang sâu thăm thẳm, lại có lối uốn gập ghềnh, có bóng nguyệt lồng hang, lại có thang mây uốn lối… Câu thơ mềm mại uyển chuyển, mỗi một chi tiết nghệ thuật là một nét vẽ, nét khắc tài hoa. Cảnh đẹp mang tình người và hồn người, đáng yêu và đáng nhớ. Hương Sơn là mảnh hồn thiêng liêng sông núi, là gấm hoa giang sơn. Mọi di tích cảnh đẹp chùa chiền hang động, suối Yến, rừng Mai, am Phật Tích… tuy hùng vĩ, đượm mùi Thiền nhưng không xa lạ cõi trần. Khách hành hương không hề cảm thấy rợn ngợp nhỏ bé, trái lại luôn luôn tìm thấy niềm vui hòa nhập chiêm ngưỡng. Con người đã tìm thấy niềm vui trong thiên nhiên. Tình yêu thiên nhiên cũng là tình yêu quê hương đất nước:

Chừng giang sơn còn đợi ai đây,

Hay tạo vật khéo ra tay xếp đặt.

Ở trên tác giả đã viết: ai khéo vẽ hình, ở dưới lại nói: hay tạo hoá khéo ra tay xếp đặt. Có biết Chu Mạnh Trinh là người từng đem tiền của, công sức, tài năng ra trùng tu chùa Thiên Trù, tạc tượng đúc chuông… mới cảm nhận được một chữ ai đáng tự hào kín đáo đã hai lần xuất hiện trong bài thơ này.

Ba câu cuối gọi là khổ xếp của bài hát nói. Câu cuối chỉ có sáu từ gọi là câu keo. Luật thơ đã qui định chặt chẽ như vậy. Không gian nghệ thuật được miêu tả theo bước chân xa dần của đoàn người hành hương. Họ vừa đi vừa ngắm cảnh, miệng tụng kinh, tay lần tràng hạt. Không khí thành kính trang nghiêm. Lòng hướng thiện của du khách đều hướng về cửa từ bi của đạo Phật, ai cũng cảm thấy tự hào đối với giang sơn đất nước:

Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật

Cửa từ bi công đức biết là bao!

Càng trông phong cảnh càng yêu.

Câu keo láy lại hai lần chữ càng – càng trông… càng yêu – nói lên thật hay cái thú vị đi hội chùa Hương của nhân dân ta. Chẳng có cách nào nói hay hơn, hồn nhiên hơn và đậm đà hơn cách nói của Chu Mạnh Trinh vậy.

Lễ hội nói chung, hội chùa Hương nói riêng thể hiện bản sắc vãn hoá dân gian Việt Nam vô cùng phong phú. Cảnh Hương Sơn vốn đã được chúa Trịnh Sâm ngợi ca là Nam thiên đệ nhất động. Đó là một niềm thiên nhiên kì thú hữu tình. Bài thơ của Chu Mạnh Trinh giúp chúng ta chiếm linh vẻ đẹp hồn thiêng núi sông. Thơ nên hoạ nên nhạc cho thấy chất tài hoa nghệ sĩ của Chu Mạnh Trinh. Bài thơ dã làm đẹp làm phong phú thể ca trù – hát nói của dân tộc. Có đi lễ hội chùa Hương mới thấy hết cái hay của bài thơ Hương Sơn phong cảnh ca. Có được nếm vị chua giòn mơ Hương Tích, có được ăn rau sắng chùa Hương ta mới yêu hơn nhiều lần Hương Sơn, mới thêm tự hào vẻ đẹp thiên nhiên đất nước. Tổ quốc ta không chi có Hương Sơn mà còn có trăm sông nghìn núi tráng lệ, bao thắng cảnh kì quan. Hãy làm cho đất nước mãi mãi thanh bình, nhân dân được sống yên vui trong những mùa xuân tung bừng lễ hội…

Trên đây VnDoc.com vừa giới thiệu tới các bạn Bình giảng bài thơ Bài ca phong cảnh Hương Sơn, mong rằng qua bài viết này các bạn có thể học tập tốt hơn môn Ngữ văn 11 nhé. Mời các bạn cùng tham khảo thêm các môn Toán 11, tiếng Anh 11, đề thi học kì 1 lớp 11, đề thi học kì 2 lớp 11...

Mời bạn đọc cùng tham gia nhóm Tài liệu học tập lớp 11 để có thêm tài liệu học tập nhé

Chia sẻ, đánh giá bài viết
1
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Ngữ văn lớp 11

    Xem thêm