Phân tích bài thơ Bài ca phong cảnh Hương Sơn
Phân tích bài thơ Bài ca phong cảnh Hương Sơn của Chu Mạnh Trinh
- I. Dàn ý phân tích Bài ca phong cảnh Hương Sơn
- II. Phân tích Bài ca phong cảnh Hương Sơn
- 1. Phân tích bài Bài ca phong cảnh Hương Sơn mẫu 1
- 2. Phân tích bài Bài ca phong cảnh Hương Sơn mẫu 2
- 3. Phân tích bài Bài ca phong cảnh Hương Sơn mẫu 3
- 4. Phân tích bài Bài ca phong cảnh Hương Sơn mẫu 4
- 5. Phân tích bài Bài ca phong cảnh Hương Sơn mẫu 5
- 6. Phân tích bài Bài ca phong cảnh Hương Sơn mẫu 6
- 7. Phân tích bài Bài ca phong cảnh Hương Sơn mẫu 7
- 8. Phân tích bài Bài ca phong cảnh Hương Sơn mẫu 8
Phân tích bài thơ Bài ca phong cảnh Hương Sơn vừa được VnDoc.com sưu tập và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo và có thêm tài liệu học tập. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết và tải về tại đây.
I. Dàn ý phân tích Bài ca phong cảnh Hương Sơn
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Chu Mạnh Trinh và bài thơ Hương Sơn phong cảnh ca, một trong những tác phẩm có giá trị nhất miêu tả vẻ đẹp của dãy núi Hương Sơn.
2. Thân bài
- 4 câu thơ đầu: Bầu trời cảnh Bụt.
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay
Kìa non non, nước nước, mây mây,
"Đệ nhất động" hỏi là đây có phải?
+ Vẻ đẹp chốn bồng lai tiên cảnh, núi non hùng vĩ, mây trời bảng lảng, sông nước mênh mông, một vẻ đẹp siêu thực mà con người ao ước bấy lâu được diện kiến.
+ Câu thơ hỏi khẳng định vẻ đẹp "đệ nhất động", hang động đẹp nhất
- 12 câu thơ tiếp theo: Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,
Lững lờ khe Yến cá nghe kinh.
Vẳng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.
Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng,
Này hang Phật Tích, này động Tuyết Quynh.
Nhác trông lên ai khéo họa hình,
Đá ngủ sác long lanh như gấm dệt
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt,
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây
Chừng giang sơn còn đợi ai đây,
Hay tạo hóa khéo ra tay xếp đặt.
+ Từng khung cảnh, từng sự vật đều mang không khí thần tiên mà không kém phần hùng vĩ. Suối dẫn tới chùa, hang nối tiếp động, hệ thống núi nước được thiên nhiên ban tặng có một không hai.
+ Trong cảm xúc choáng ngợp về khung cảnh Hương Sơn, tác giả bày tỏ tình yêu và lòng ngưỡng mộ đối với quê hương, đất nước.
- 3 câu thơ cuối: Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật;
Cửa từ bi công đức biết là bao!
Càng trông phong cảnh càng yêu.
+ Màu sắc linh thiêng và kì bí của Phật pháp
→ Người đọc cảm nhận được sự giao thoa và hòa hợp giữa con người và thiên nhiên, không chỉ có núi non nước ngự trị mà còn có cả đình chùa do con người xây dựng, lòng hướng Phật do con người truyền bá.
3. Kết bài
Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, vẻ đẹp nước non phong cảnh hữu tình của cảnh sắc Hương Sơn.
II. Phân tích Bài ca phong cảnh Hương Sơn
1. Phân tích bài Bài ca phong cảnh Hương Sơn mẫu 1
Chu Mạnh Trinh sinh năm 1862, mất năm 1905. Tự là Cán Thần, hiệu là Trúc Vân, quê làng Phú Thị, huyện Mễ Sở, huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu (nay là Mễ Sở, huyện Văn Giang) tỉnh Hưng Yên. Ông là người tài hoa, thạo đủ cầm, kì, thi, họa, lại giỏi cả nghệ thuật kiến trúc, và đặc biệt say mê cảnh đẹp. Chính cái lòng yêu cảnh đẹp kết hợp với tài hoa của tâm hồn thi sĩ đã kết tinh thành những áng thiên cổ kỳ bút mãi còn tỏa sắc hương nơi hậu thế. Một trong số đó là áng thơ “Hương Sơn phong cảnh ca”.
Hương Sơn phong cảnh ca là một trong ba bài thơ được Chu Mạnh Trinh viết vào dịp ông đứng trông coi việc trùng tu tôn tạo quần thể thắng cảnh Hương Sơn. Bài thơ viết theo thể hát nói. 19 câu thơ vẽ nên một bức tranh thiên nhiên xinh đẹp và nên thơ về phong cảnh Hương Sơn. Đây là một bài thơ vịnh cảnh và thể hiện tâm sự. Không chỉ vẽ cảnh đẹp, mà còn vẽ lòng người, đó là tâm sự yêu nước, tự hào với cảnh đẹp quê hương đất nước của nhà thơ.
Bốn câu thơ đầu giới thiệu bao quát toàn cảnh Hương Sơn và trực tiếp nêu cái thú ban đầu khi đến với Hương Sơn của tác giả:
“Bầu trời, cảnh bụt,
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay
Kìa non non, nước nước, mây mây
Đệ nhất động hỏi là đây có phải?”
Qua 2 câu thơ đầu, Chu Mạnh Trinh đã khái quát cảnh sắc Hương Sơn bằng một nhận xét tinh tế: vừa là danh lam thắng cảnh do tạo hoá ban tặng vừa là công trình tôn giáo. Thể hát nói tạo nên tính nhạc du dương, cảnh đẹp thiên nhiên đượm mùi Thiền, được miêu tả và cảm nhận qua tâm hồn nghệ sĩ tài hoa là nét đặc sắc của bài thơ này. Phong cảnh Hương Sơn được tả từ xa trong tầm mắt của du khách. Giọng thơ trang trọng, từ điệu khoan thai thể hiện du khách vừa đi vừa đứng lại ngắm cảnh và suy ngẫm. Một thiên nhiên mênh mông chan hòa với màu sắc Phật giáo. Hương Sơn là thiên tạo nhưng cũng là cảnh Bụt đã và đang vẫy gọi người đời. Đi lễ hội chùa Hương là thú vui, là niềm ước ao bấy lâu nay của nhiều người.
Cảnh được dựng lên vừa mang nét bình dị, gần gũi,vừa thấm đượm không khí huyền diệu, linh thiêng. Đó là niềm “ao ước” không chỉ trong giây lát mà đã trở thành niềm khát khao “bấy lâu nay” của bao du khách. Câu thơ thứ ba có giá trị tạo hình đặc sắc nhờ cách kết hợp giữa hình thức điệp từ liệt kê và thủ pháp luyến láy “non non, nước nước, mây mây”… Vừa vẽ ra cảnh tượng hùng vĩ của non nước, mây trời Hương Sơn như một bức tranh thủy mặc cổ điển vừa tạo được âm điệu ngân nga, bâng khuâng man mác như cảm xúc của du khách trước vẻ huyền ảo chốn bồng lai tiên cảnh.
Ba khổ tiếp theo miêu tả cảnh đẹp cụ thể của Hương Sơn. Khổ thơ tiếp theo trong bài hát nói gọi là khổ giữa, nhà thơ nói về suối, rừng và tiếng chuông chùa. Ba chi tiết nghệ thuật này đều tô đậm nét đặc trưng của Hương Sơn. Rừng là rừng Mai với trái mơ đặc sản của chùa Hương. Tiếng chim hót thỏ thẻ – chậm rãi, nỉ non – gọi bầy tìm bạn, kết đôi. Bầy chim trời vừa hót vừa mổ trái mơ. Hình ảnh chim cùng trái là nét vẽ độc đáo, tài hoa. Bầy chim mổ trái mơ như khách hàng hương đứng dưới mái chùa cổ trong hang động đang khom lưng khấn vái trước mâm ngũ quả dâng trên bàn thờ Phật. Suối ở đây là suối Yến. Chơi chùa Hương ai cũng phải đi đò dọc bến Đục suối Yến? Đàn cá nơi suối Yến lững lờ bơi từ từ thong thả – như đang cùng du khách thưởng ngoạn cảnh trí.
“Cá nghe kinh” là một hình ảnh sáng tạo, đầy chất thơ. Cảnh sắc Hương Sơn mang màu sắc tôn giáo của Đạo Phật:
“Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái;
Lững lờ khe Yến cá nghe kinh
Thoảng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng”
Cảnh vật nhuốm màu sắc của Phật giáo. Những loài chim cá dường như cũng hoà cùng không khí thần tiên. Cá bơi lững lờ như để nghe những bài thuyết pháp của đức Phật, ở đây, cảm hứng tôn giáo không mang màu sắc mê tín dị đoan mà là nhu cầu về mặt tinh thần mang tính tâm linh trong tâm hồn một thi sĩ tài hoa. Khách vãn cảnh Hương Sơn khi nghe tiếng chuông chùa cũng phải thảng thốt:
Vẳng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.
Khách hành hương như trút đi bao nỗi ưu phiền trong cuộc đời tang hải – bể dâu – đầy biến động, nhọc nhằn. Tiếng chuông như ru hồn khách tang hải, giật mình trong khoảnh khắc chìm sâu hơn vào giấc mộng diệu huyền: Thoảng bên tai một tiếng chày kình / Khách tang hải giật mình trong giấc mộng. Câu thơ cho ta nhiều thú vị về nhạc điệu du dương. Hai thanh bằng có K âm vang ngân nga, ngọt ngào vần với nhau: kình – mình tạo nên nhạc điệu, âm hưởng trầm bổng của vần thơ.Chỉ một tiếng chày kình êm ái trầm bổng nơi chùa Hương cũng đủ rửa sạch bụi trần làm thanh thản, thảnh thơi tâm hồn khách tang hải. Chu Mạnh Trinh không chỉ tạo nên những vần thơ có nhạc có họa khi tả chim, tả cá, tả tiếng chuông chùa mà còn thể hiện sự kì diệu của hồn cảnh vật Hương Sơn Nam thiên đệ nhất động.
Hai khổ thơ 3 và 4 tiếp theo là hai khổ đội của bài hát nói. Hương Sơn có biết bao cảnh đẹp nên thi sĩ phải sử dụng khổ dôi để diễn tả cảm xúc và miêu tả cảnh vật. Du khách như đi dần vào thế giới Hương Sơn, nơi bầu trời cảnh Bụt. Chu Mạnh Trinh dùng biện pháp tu từ liệt kê và điệp từ để tả, để vẽ, để tạo nên nhạc điệu trầm bổng của vần thơ. Hai cặp song hành với bức tranh tứ bình nối tiếp hiện ra. Bốn chữ này vang lên như bốn nốt nhấn của khúc ca:
“Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng
Này am Phật Tích, này động Tuyết Quynh”
Cách phối thanh bằng, trắc trong hai câu thơ này cũng cho thấy bút pháp điêu luyện, tài hoa của tác giả để làm nổi bật tính nhạc của bài hát nói. Hương Sơn có rất nhiều di tích thắng cảnh nhưng Chu Mạnh Trinh chỉ giới thiệu bốn cảnh điển hình, chỉ gợi ra mà không tả. Suối Giải Oan, chùa Cửa Võng, am Phật Tích, động Tuyết Quynh mỗi di tích mỗi thắng cảnh đều đem đến cho ta nhiều liên tưởng và hướng thiện lòng người hành hương. Ai cũng cảm thấy mình đang cùng nhà thơ chan hòa vào cảnh Bụt, được sống lại giây phút mà chỉ có bầu trời, cảnh Bụt nơi Hương Sơn mới ban phát cho mình. Cảm hứng tín ngưỡng về đạo Phật được thể hiện qua những vần thơ nói về suối, chùa, am, động như mời gọi du khách, lắng nghe tiếng chuông chùa xa đưa lại mà ngạc nhiên, mà ngỡ ngàng…
Tả hang động, Chu Mạnh Trinh dùng những từ ngữ đầy màu sắc, giàu tính tượng hình. Cảnh sắc hang động ấy được tạo dựng nên bởi hóa công và tài trí của con người:
“Nhác trông lên ai khéo vẽ hình
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt”
Những liên tưởng so sánh về nhũ đá trong các hang động biểu lộ niềm tự hào của nhà thơ về đất nước và con người Việt Nam: yêu đời, yêu tạo vật, biết đem bàn tay khéo léo tô điểm cảnh trí non sông. Hương Sơn có đường lên trời có hang xuống âm ti địa ngục dẫn khách hành hương du nhập vào thế giới siêu thoát. Cảnh được tả từ xa tới gần, từ khái quát đến cụ thể, từ cao xuống thấp, từ thấp lên cao, huyền ảo.
“Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt.
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây”.
Tiếp theo là những câu thơ giàu chất họa, chất nhạc với các từ láy gợi hình long lanh, thăm thẳm, gập ghềnh vẽ ra vẻ đẹp mộng ảo, thần tiên huyền bí của “Nam thiên đệ nhất động". Các từ láy: thăm thẳm, gập ghềnh gợi tả độ sâu, nét lượn cheo leo, khúc khuỷu của sườn non, hang động mà du khách lần bước vượt qua để hòa nhập với thiên nhiên, để chiếm lĩnh cái hồn của cảnh bụt. Phép đảo ngữ đã làm nổi bật cái độ sâu thăm thẳm của hang động, cái nét gập ghềnh của những sườn non, những thang mây cao vút. Có hang sâu thăm thẳm, lại có lối uốn gập ghềnh, có bóng nguyệt lồng hang, lại có thang mây uốn lối… Câu thơ mềm mại uyển chuyển, mỗi một chi tiết nghệ thuật là một nét vẽ, nét khắc tài hoa. Cảnh đẹp mang tình người và hồn người, đáng yêu và đáng nhớ.
“Chừng giang sơn còn đợi ai đây,
Hãy tạo vật khéo ra tay xếp đặt”.
Con người đã tìm thấy niềm vui trong thiên nhiên, thiên nhiên cũng như hòa quyện vào con người, con người lại càng góp phần điểm tô cho thiên nhiên, cảnh sắc. Vậy mới nói vậy thật mà ảo mộng như cõi tiên, tuy đẹp như chốn bồng lai mà lại chân thực, bình dị đến từng lá cây, ngọn cỏ!. Bởi thế mới nhớ, mới lại càng yêu. Tình yêu thiên nhiên cũng là tình yêu quê hương đất nước. Trong những câu thơ trên, tác giả đã viết: ai khéo vẽ hình, đến đây lại nói: hay tạo hóa khéo ra tay xếp đặt. Phải tìm hiểu lịch sử, phải biết Chu Mạnh Trinh là người từng đem tiền của, công sức, tài năng ra trùng tu chùa Thiên Trù, tạc tượng đúc chuông… mới cảm nhận được một chữ” ai” đáng tự hào kín đáo đã hai lần xuất hiện trong bài thơ này.
Ba câu cuối gọi là khổ xếp của bài hát nói. Câu cuối chỉ có sáu từ gọi là câu keo. Luật thơ đã qui định chặt chẽ như vậy. Không gian nghệ thuật được miêu tả theo bước chân xa dần của khách tang hải. Khách tang hải vừa chậm rãi đi vừa ngắm cảnh, tay lần tràng hạt miệng nam mô, lưu luyến chẳng muốn rời, đến mức phải thốt lên: “càng trông phong cảnh càng yêu!” Cách nói mới hồn nhiên làm sao, mới chân thật làm sao! giản dị nhưng giàu chất biểu cảm:
“Lần tràng hạt niệm nam mô Phật
Cửa từ bi công đức biết là bao!
Càng trông phong cảnh càng yêu”
Không khí thành kính trang nghiêm phủ lên hai câu thơ trước, khiến người đọc càng thấy chân thật như đang thấy được hình ảnh một đoàn khách thập phương vừa đi vừa niệm nam mo, tay lần tràng hạt, tĩnh tâm theo tiếng chuông chùa, nổi bật giữa bạt ngàn hương sắc Hương Sơn huyền ảo. Câu thơ cuối như một tiếng thổ lộ, lại vừa giống một tiếng reo cảm thán. Qua đó không chỉ nâng cao vẻ đẹp hoàn mỹ của phong cảnh Hương Sơn, mà còn bộc lộ được tình yêu, niềm tự hào dân tộc của “con rồng cháu tiên” với non sông gấm vóc.
“Hương Sơn phong cảnh ca” là một trong những tác phẩm hay nhất viết về đề tài cảnh sắc thiên nhiên. Đặc biệt, ở bài thơ này, không những chỉ vẽ lên bức tranh danh lam thắng cảnh đẹp tựa chốn bồng lai bao người mơ ước, mà còn khéo léo thể hiện lòng yêu thiên nhiên, yêu non sông đất nước, tự hào, tự tôn dân tộc của Chu Mạnh Trinh. Cảnh thiên nhiên đẹp hài hòa khi kết hợp với bàn tay của con người, sự xuất hiện của con người. Con người đứng giữa thiên nhiên đẹp kỳ vỹ mà vẫn không hề thấy xa lạ, choáng ngợp. Hơn nữa còn qua đó mà càng thêm yêu, càng thêm muốn cống hiến, muốn giữ gìn. Quả là một bài thơ vừa đẹp, lại vừa hay!
2. Phân tích bài Bài ca phong cảnh Hương Sơn mẫu 2
Vẻ đẹp của thắng cảnh, vị thiền của danh lam đã hòa nhập kẻ vãn cảnh với người hành hương trong cái trạng thái tâm linh thanh cao và yên tịnh ấy. Sức quyến rũ cuối cùng của Hương Sơn dường như ở đấy! Có lẽ danh lam thắng cảnh nào cũng sẵn sàng ban tặng cho con người muôn vàn tứ thơ. Nhưng không phải danh thắng nào cũng được đền bù xứng đáng. Có biết bao cảnh trí thần tiên chẳng cần đợi thơ ca tôn vinh - tự nó đã làm một bài thơ tuyệt mĩ. Ở những trường hợp như thế phải chăng thơ ca đã trở nên bất lực? Nhưng cũng có những thắng cảnh vốn đã mĩ lệ, lại được soi mình vào thơ thì càng quyến rũ bội phần. Khi ấy, cảnh thì dâng hiến cho thơ hào phóng, còn thờ dường như cũng trả xong món nự của mình. Trường hợp phong cảnh Hương Tích với Chu Mạnh Trinh chẳng phải là như thế sao? Hương Sơn được vào hàng “Nam thiên đệ nhất động”. Còn Hương Sơn phong cảnh ca của Chu Mạnh Trinh cũng đáng là một áng thơ long lanh như gấm dệt. Có thể gọi là “Hương Sơn đệ nhất thi” được chứ sao? Thơ ca và thắng cảnh đâu phải lúc nào cũng được đẹp duyên như thế!
Phải nói ngay rằng âm nhạc đã góp phần tạo nên vẻ đẹp quyến rũ của bài thơ này. Bình thường, bài thơ chân chính nào cũng có một nền nhạc riêng của nó, cho dù nó được viết lối tự do hay theo cách luật. Nhưng khi một thi sĩ lại chủ động viết theo thể hát nói, thì rõ ràng nhạc điệu (gồm cả của âm nhạc lân của ngôn ngữ) càng muốn giành lấy địa vị tiên phong. Có thế thấy khá rõ lời thơ chập chờn, chấp chới bay trong nhịp điệu, còn nhạc điệu như đang đìu từng lời thơ bay lượn trong cái thế giới trong lành, thanh tịnh của chốn Hương Sơn. Tất cả cứ lâng lâng chơi vơi, cứ khoan hòa dìu dặt như cái nhịp chèo, nhịp bước của du khách càng ngày càng nhập sâu vào lòng cảnh trí thanh vắng, mơ màng, vừa trần gian, vừa thoát tục. Nếu như đang nghe lời thơ được hát ngâm theo thế thức ca trù, với lối ngàn rung, buông bắt, với tiếng đàn, tiếng phách, tiếng trống điểm nhịp rất riêng thì tất cả giọng ngất ngây, khoan khoái của một tâm hồn đang ân thưởng cái “Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay” càng có dịp tràn ra đầy đủ. Vâng, chọn hát nói để phô bày những cảm xúc Hương Sơn của mình, dường như hồn thơ của Chu Mạnh Trinh đã gửi mình đúng chỗ. Vậy là thơ và nhạc đã được Hương Tích xe duyên nên thi phẩm này. Chẳng phải đây cũng là một nét duyên nữa của Hương Sơn phong cảnh ca đó ư?
Nếu người nghệ sĩ cảm nhận danh thắng Hương Sơn cũng như Bồng Lai hay Thiên Thai, Từ Thức..., thì xem như chưa bắt được cái “thần” của chốn này. Những nơi kia là cảnh tiên, là chốn mộng mơ tình tứ, hứa hẹn những mối phong tình lãng mạn. Còn Hương Sơn khác! Hương Sơn là cảnh bụt, là nơi du khách tìm đến văn cảnh nhưng cũng để hành hương. Con người đến đây để thưởng ngoạn một danh lam, nhưng cũng là một dịp dọn lòng khỏi những tục lụy để mà thanh lọc tâm hồn, thanh thản tâm linh. Vì thế, thắng cảnh Hương Sơn thơ mộng mà linh thiêng, quyến rũ mà thanh tịnh, mĩ lệ nhưng bàng bạc vị thiền. Thi nhân có nhận ra điều đó, mới là thấm canh Hương Sơn. Hồn thơ phải dồi dào sự đắm say nhưng cũng không thể thiếu thành kính. Có như thế mới đồng điệu được với Hương Sơn. Và may thay, Hương Sơn phong cảnh ca của Trúc Vân Chu Mạnh Trinh đã thu được vào từng lời thơ cái hồn riêng của cảnh.
Bài thơ mở đầu bằng một câu thơ ngắn với bốn tiếng.
Bầu trời cảnh bụt
Toàn bài đều viết bằng những câu dài với 7 hoặc 8 tiếng. Duy có câu mở đầu này là ngắn đặc biệt. Cái hình thức kia đâu phải ngẫu nhiên. Câu thơ vẽ không gian, nhưng vang lên như một vỡ lẽ kì thú của chốn nước non này: Đây là thế giới của cảnh bụt. Câu thơ bốn tiếng khác nào như mỡ ra một cổng trời, một miền non nước, một thế giới, mà ở trên trán v,m cổng ấy khắc bốn chữ giới thiệu du khách về cái xứ sở sắp bước vào. Kia là thuộc về cảnh bụt. Nó không phải là đất Phật như Tây Trúc, nhưng canh sắc ở đây đều thuộc về bụt, đều ngấm vị thiền.
Và bốn tiếng ấy dường như cũng đã xác định chủ âm của bài thơ. Bắt đầu từ đây ngòi bút của Chu Mạnh Trinh sẽ chuyển động theo cảm hứng ấy và làm sống dậy từng nét thanh tú của danh lam, vừa đem lại vi thiền cho thắng cảnh. Toàn bộ bài thơ được kết cấu theo các lớp cảnh cứ dần dần mở ra cùng với bước chân của du khách, thì ở lớp cảnh nào thi hứng của Chu Mạnh Trinh, cũng được khơi từ hai nguồn ấy. Đây là cái nhìn lướt bao quát:
Kìa non non, nước nước, mây mây,
Cảnh non nước đã được điệp trùng, luyến láy theo cái lối đặc trưng của ca trù, khiến cho cảnh non nước, mây trời vừa có được vẻ quấn quýt lại vừa trái dài như vô tận. Giọng điệu thơ có cái vẻ náo nức, ngất ngây của người dược thỏa lòng ao ước, lại cũng nghiêm trang chứ không hẳn là đong đưa tình tứ. Câu chữ như thế thật tài hoa và cũng thật tự nhiên!
Phần lớn những nơi được xem là danh thắng đều là chốn sơn thủy hữu tình, có núi non, có rừng suối, với những chim bay, cá lượn. Hương Sơn cũng thế! Nhưng Hương Sơn là cảnh bụt, cho nên:
Thỏ thể rừng mai chim cúng trái,
Lửng lơ khe Yến có nghe kinh
Thoảng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.
Chim ở đây dường như đã quên mình là chim, cá ở đây đã quên mình là cá. Tự bao giờ chúng đã thành những tín đồ. Có phái bầu không khí bao trùm lên Hương Sơn là không khí thiền - vị thiền tan vào rừng mơ, vị thiền đã hòa vào suối Yến mà chim cá ở đây nhiễm vào minh Phật tinh? Hay sống trong cảnh bụt, ngay đến chim, cá cũng thanh lọc, cùng được khơi dậy cái cốt cách bụt kia chăng? Du khách từ cái thế giới đầy biến động vào đây dường như cũng bừng ngộ, nghĩa là cũng nhập vào làm một với cảnh bụt chốn này. Tiếng chim “thỏ thẻ“, dáng cá “lửng lư” và giờ đây là “tiếng chày kình”... Những âm thanh, dáng diệu ấy tạo nên cái bầu không khí rất Hương Sơn. Chim cúng trái, cá nghe kinh, con người đi vào cảnh thảng thốt với tiếng chày kình... Tất cả đều cời bò hệ lụy trần gian, đang hòa nhập vào không khí linh thiêng. Tại khoảnh khắc ấy cả chim, cả cá, cả người đều dường như đang thoát tục. Làm sao Chu Mạnh Trinh có thể viết được như thế? Cái sinh khí Hương Sơn vô hình là thế, vậy mà thi nhàn đã thấy nó hiện hình trong tất cả, hòa nhập vào tất cả, hòa tan trong tất cả! Có lẽ chỉ với những hình ảnh như thế thôi, cái thần thái của Hương Sơn đã nhập vào thơ rồi!
Thế rồi, thi sĩ cứ say sưa thưởng ngoạn cảnh Hương Sơn như một tạo tác nguy nga, mĩ lệ của tạo hóa bày ra sống động dưới trời Nam bằng lối kể điểm danh những địa đanh nổi tiếng của Hương Sơn:
Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Vũng
Này am Phật Tích, này động Tuyết Quỳnh
Những từ “này” để trỏ liên tiếp gợi sự phong phú, gợi thê liên hoàn, lại gợi được cả cái cảm xúc được ân thưởng thỏa thuê. Cảnh sắc thật giàu có, đủ cả suối, chùa, am, động... tất cả cứ như bày đặt ra theo bước du khách. Chu Mạnh Trinh lại kết hợp cả lối tạo hình với những nét vừa mĩ lệ vừa hư huyền, với những màu vừa lộng lẫy vừa cách điệu, với những mảnh vừa trầm tĩnh vừa biến ảo. Trong dăm ba câu mà ta thấy được con mắt tạo hình của thi sĩ lúc ngây ngất ngước lên, khi mải mê nhìn xuống, vừa nắm bát cái bóng nguyệt lồng trong thăm thẳm tầng hang, đã đuổi theo những thang mây lượn cùng vách núi:
Nhác trông lên ai khéo họa hình,
Đá ngũ sắc Long lanh như gấm dệt.
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt.
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây.
Với những câu thơ này, du khách đường như đã đặt những bước chân cuối cùng vào chốn Hương Sơn. Tuy nhiên, thú Hương Sơn chưa phải đã hết.
Nếu như tiếng chày kình động tiếng chuông Hương Sơn mới đánh thức người khách tang hải trong cái giấc mộng lớn của cuộc đời, thì đến đây cuộc hành hương mới kết thúc. Ấy là cái khoảnh khắc thi nhân quên mình là thi sĩ để mà sống trong phút giây cái nỗi niềm Phật tử:
Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật,
Cửa từ bi công đức, xiết là bao
Kẻ vãn cảnh đã cởi bỏ lốt tục lấm bụi trần ai để tâm hồn chan hòa với chốn này. Vẻ đẹp của thắng cảnh, vị thiền của danh lam đã hòa nhập kẻ vãn cảnh với người hành hương trong cái trạng thái tâm linh thanh cao và yên tịnh ấy. Sức quyến rũ cuối cùng của Hương Sơn dường như ở đấy!
3. Phân tích bài Bài ca phong cảnh Hương Sơn mẫu 3
Chu Mạnh Trinh (1862-1905) là một viên quan dưới triều Nguyễn, là người tài hoa, lại giỏi làm thơ Nôm, hơn thế nữa còn rất am hiểu kiến trúc. Hương Sơn là một là một quần thể kiến trúc và thắng cảnh nổi tiếng ở huyện Mỹ Đức, Hà Nội, hằng năm thu hút biết bao nhiêu du khách ghé lại thăm quan vãn cảnh. Chính vì phong cảnh duy mỹ của Hương Sơn, mà trong lần tham gia trùng tu chùa Thiên Trù thuộc quần thể này, Chu Mạnh Trinh đã hết lời khen ngợi, thưởng thức mà viết nên bài thơ Hương Sơn phong cảnh ca hay còn gọi là bài ca phong cảnh Hương Sơn.
Mở đầu bài thơ là một câu thơ bao quát khung cảnh Hương Sơn nghe có vẻ lạ:
"Bầu trời cảnh Bụt"
Sao lại là "cảnh Bụt" mà chẳng phải một thứ cảnh núi non, nước biếc nào khác, ấy là vì tác giả đang đứng trước một phong cảnh mà nơi ấy là chốn tâm linh Phật giáo thật linh thiêng, tác giả đứng giữa đất Hương Sơn mà tưởng như phía trên có thần phật đang chiếu xuống khắp núi rừng quang cảnh. Câu "Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay" là niềm hạnh phúc vui sướng cửa nhà thơ khi cuối cùng cũng được một lần chiêm ngưỡng vẻ đẹp chốn Hương Sơn, để thỏa cái chí chu du, mãn nguyện cái tấm lòng đam mê kiến trúc và cảnh đẹp ở nơi tràn đầy màu sắc Phật giáo này. Như nhiều phong cảnh khác nơi đây cũng "non non, nước nước, mây mây" vốn là những cảnh căn bản và hầu như dễ tìm gặp, thế nhưng ở Hương Sơn, những cảnh mây, cảnh núi ấy lại mang một phong thái khác hẳn, không những đẹp và còn nhuốm đầy phong vị phật pháp, đem lại cho người ngắm cảnh một cảm giác khác hẳn, ấy là cảm giác tĩnh tại, an yên từ tâm hồn. Qủa đúng như lời chúa Trịnh Sâm một lần ghé thăm đã ban cho cái tên trứ danh "Nam thiên đệ nhất động", âu cũng vì lẽ huyền diệu kể trên.
Bốn câu thơ:
"Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái
Lững lờ khe Yến cá nghe kinh
Vẳng bên tai một tiếng chày kình
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng"
Gợi cho chúng ta liên tưởng đến sự tĩnh lặng và khoan thai của cảnh vật nơi đây, chim thì "thỏ thẻ" nhẹ nhàng vờn hoa trái, chay tịnh, dòng nước "lững lờ" trôi bình lặng, cá cũng chẳng tung tẩy trong dòng nước mà lại lặng lẽ "nghe kinh". Khách đến viếng thăm như lạc vào nơi chốn Bồng lai tiên cảnh, lòng ngẫm nghĩ về thế sự đổi thay, rồi chỉ một "tiếng chày kình" văng vẳng đâu đây cũng làm bừng tỉnh đại mộng, khách vãng lai bỗng như được giác ngộ. Trải qua bao trầm luân thế sự, nhưng chỉ một tiếng chuông nơi cửa phật cũng đủ để "Thương hải biến vi tang điền" - Biển xanh cuối cùng cũng nương dâu, những gì là chấp niệm cuối cùng cũng được rũ bỏ nhờ chốn linh thiêng đầy sinh khí tươi đẹp này.
Trong những câu thơ tiếp bức tranh phong cảnh Hương Sơn được tác giã vẽ nên một cách thật tinh tế, vừa mang cái tình cái hồn thổi vào cảnh vật, khiến cho mọi thứ trở nên sinh động, trong trẻo đến lạ thường. Tưởng như nơi đây là chốn ở của thần tiên thoát tục, rời xa khỏi chốn hồng trần hỗn tạp, để tìm kiếm sự thanh tịnh, khoáng đạt, yên ổn nơi tâm hồn. Và những vị khách du ngoạn đến đây hành hương, thưởng ngoạn cảnh đẹp cốt là để lấy cái thanh tịnh từ sâu trong tâm hồn, để được thư giã thoải mái với một tấm lòng đầy thành kính dưới chân Phật, bưới cảnh Bụt.
"Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng
Này hang Phật Tích, này động Tuyết Quynh
Nhác trông lên ai khéo họa hình
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây"
Những câu thơ chỉ đơn giản là liệt kê những địa điểm nổi tiếng nằm trong quần thể Hương Sơn, nhưng lại nhấn một chút ở vài chữ "ai khéo họa hình", chính tỏ phong cảnh Hương Sơn phải tuyệt mỹ lắm, tựa như được người họa sĩ khéo léo vẽ lên. Và đỉnh cao sự khen ngợi đó là câu "Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt", đá mà lại có thể mịn màng xinh đẹp như gấm dệt long lanh. Hai câu "Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt/Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây", thể hiện một vẻ đẹp mơ màng, trữ tình nơi chốn thanh tịnh, vừa có trăng lại có mây, khung cảnh hang động trở nên hấp dẫn và huyền bí, càng làm tăng tính vị thiền vảng vất nhưng không kém phần quyến rũ mê say, cho cảnh vật.
"Chừng giang sơn còn đợi ai đây
Hay tạo hóa khéo ra tay sắp đặt
Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật
Cửa từ bi công đức biết là bao
Càng trông phong cảnh càng yêu"
Có thể thấy, đứng giữa khung cảnh chốn linh thiêng, non nước hữu tình, trong tâm hồn của tác giả đã có những nỗi niềm mới bén rễ trong lòng.Tiếng chuông chùa văng vẳng từ xa, bỗng đánh thức người thi nhân từ trong mộng mị và thi nhân muốn một phút quên đi tạp niệm hồng trần mà bước vào cửa từ bi ăn chay niệm phật, tích chút công đức cho đời. Hương Sơn quả thực có sức hấp dẫn không thể chối từ, đi từ cái không khí thanh tịnh, chan hòa giữa thiên nhiên và Phật giáo, giữa hương khói và tâm hồn người khách vãng du.
Thi nhân hoàn toàn cảm nhận được vẻ đẹp của chốn Hương Sơn xinh đẹp bằng một tâm hồn thanh tịnh, rũ bỏ sạch bụi trần, để bản thân hoàn toàn chìm đắm vào cảnh sắc mà cảm nhận linh khí nơi thiền tu trầm tĩnh. Như vậy, những câu thơ với từ ngữ trong sáng vừa khẳng định vẻ đẹp của Hương Sơn vừa thể hiện lòng ngưỡng mộ của tác giả trước phong cảnh duy mỹ, đồng thời cũng thể hiện lòng yêu quê hương đất nước đầy sâu kín trong tâm hồn tác giả.
4. Phân tích bài Bài ca phong cảnh Hương Sơn mẫu 4
Cảnh sắc luôn là thứ khiến cho tâm hồn con người ta xao động, ngay cả người bình thường,đứng trước cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp cũng phải mềm lòng. Cho nên, đứng trước một cảnh tượng như thế những thi sĩ không thể không kiềm lòng mình lại. Sự nhạy cảm của một tâm hồn tràn ngập thơ ca, cũng khiến cho không ít thi gia bối rối và phải đặt ngay ngòi bút xuống, để cho cảnh sắc đó ngấm vào cơ thể rồi mới lay ngòi bút xuống trang giấy. Cũng bởi chới với trước vẻ đẹp của thiên nhiên Hương Sơn, mà tác giả Chu Mạnh Trinh quả thật không sai khi đã dùng những mỹ từ để ca ngợi vẻ đẹp nơi đây.
Cùng với những sự nhạy cảm của bản thân và một con mắt tinh tế,mọi thứ ở Hương Sơn đã trở thành một đề tài cho giới văn nghệ sĩ tìm tới. Không chỉ xuất hiện trong các bài thơ mà còn xuất hiện trong những câu hát,người ta thấy Hương Sơn hiện ra như cảnh ở chốn tiên giới. Đây quả thực là một món quà mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người chốn nhân gian. Sự kết hợp hài hòa giữa cảnh sắc con người càng làm cho bài thơ thêm đẹp đẽ. Đối với Chu Mạnh Trinh thì Hương Sơn chính là chốn thoát ra khỏi vẻ đẹp trần tục ở nhân gian. Chính vì vậy, ngay từ khi mở đầu , chỉ với 4 từ mà tác giả đã lột tả được đa số cái thần thái nơi đây:
"Bầu trời cảnh bụt"
Cảnh ở đây là cảnh bụt, vừa miêu tả một chốn bồng lai tiên cảnh lại miêu tả được sự yên tịnh linh thiêng. Dù dùng bao nhiêu từ cũng không thể miêu tả hết cái vẻ đẹp ấy. Không diễn giải dài dòng, chỉ với 2 từ " cảnh Bụt" mà gợi ra trong trí tưởng tượng của người đọc bao nhiêu thứ. Bầu trời mở rộng, không khí hư không, mọi thứ trở nên mở rộng hết cỡ, và có cái gì đó rất riêng.Ngòi bút của Chu Mạnh Trinh như bắt được nhịp chuyển động theo cảm hứng ấy và làm sống dậy từng nét thanh tú của danh lam, vừa đem lại vi thiền cho thắng cảnh.
Kìa non non, nước nước, mây mây,
Cảnh núi non trùng điệp cảnh mây trời lồng lộng cảnh sông nước hữu tình, càng làm cho không gian của Hương Sơn mở rộng ra, làm cho chúng ta cảm nhận như tác giả đang đứng từ trên một điểm cao để có cái nhìn bao quát nhất về phong cảnh hương Sơn. Những nơi được xem là danh thắng đều là chốn sơn thủy hữu tình, có núi non, có rừng suối, với những chim bay, cá lượn. Hương Sơn cũng thế! Nhưng Hương Sơn là cảnh bụt. Những thức xung quanh hương Sơn cũng bị thấm nhuần trở nên có linh hồn, có suy nghĩ.
Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,
Lửng lơ khe Yến cá nghe kinh
Thoảng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.
Bằng nghệ thuật nhân hóa những sinh vật ở đây có hồn, có suy nghĩ có tâm niệm, nhưng không chỉ là có tâm niệm không thôi, chúng cũng bị ảnh hưởng bởi vẻ linh thiêng nơi đây. "chim cúng trái, cá nghe kinh", những nhân vật ở đây giống như những tín đồ của chốn này. Du khách tới đây không chỉ để thưởng thức phong cảnh mà còn để hòa mình vào không khí nơi đây. Những âm thanh "thỏ thẻ", hình ảnh "dáng cá lửng lơ" và kết thúc là tiếng chày kình tạo nên không khí chỉ có ở Hương Sơn.
Bước chân của tác giả không dừng lại đó, bằng việc liệt kê các địa danh ở đây, Hương Sơn lại càng nổi bật với cảnh vật phong phú:
Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Vũng
Này am Phật Tích, này động Tuyết Quynh
Cảnh sắc thật giàu có, đủ cả suối, chùa, am, động… tất cả cứ như bày đặt ra theo bước du khách dẫn du khách từ bất ngờ này tới bất ngờ khác. Chu Mạnh Trinh tạo ra bức tranh Hương Sơn với những nét vừa mĩ lệ vừa hư huyền, những màu vừa lộng lẫy vừa cách điệu, với những mảnh vừa động vừa tĩnh:
Nhác trông lên ai khéo họa hình,
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt.
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt.
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây.
Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật,
Cửa từ bi công đức, xiết là bao
Những bước chân cuối của du khách khi đến với Hương Sơn cũng đến chỗ dừng chân. Nhưng hình ảnh đấy hiện ra vẫn đẹp đẽ mĩ lệ. Những từ ngữ được tác giả sử dụng như đính thêm những hạt pha lên trong suốt trên nền màu sắc rực rỡ, càng làm thêm vẻ tráng lệ của Hương Sơn. Những cảm xúc của tác giả khiến chúng ta cũng như vừa bước ra khỏi thế giới thần tiên. Tác giả như dẫn dắt chúng ta đi từ một nơi trần tục tới một nơi thần tiên thanh tịnh. Cho nên, cũng không kiềm lòng trước cảnh sắc ấy cho nên mới thốt lên."
"Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật,
Cửa từ bi công đức, xiết là bao
"Hương Sơn phong cảnh ca" là một bức tranh phong cảnh nhưng được vẽ bằng ngôn từ, là một sợi dây kết nối giữa con người và thiên nhiên. Vẻ đẹp thiên nhiên càng được khắc họa với những nét vẽ vừa tráng lệ lại vừa yểu điệu uyển chuyển. Qua đó, cũng thể hiện tình yêu thiên nhiên và cũng như sự tinh tế, con mắt tinh tường của tác giả trước vẻ đẹp mà thiên nhiên ban tặng.
5. Phân tích bài Bài ca phong cảnh Hương Sơn mẫu 5
Đã từ rất lâu rồi những cảnh đẹp tự nhiên xuất hiện một cách vô hình, tất cả đều đẹp dần theo thời gian làm nguồn cảm hứng cho vô vàn những nhà văn nhà thơ lãng mạn yêu thiên nhiên, muốn đắm mình cùng những vẻ đẹp đó, rồi cũng từ thơ ca mà thiên nhiên gần gũi hơn với con người, đẹp lên đôi khi không thể dùng từ ngữ để lột tả hết được, dẫn chứng cụ thể cho những luận điểm trên là bài thơ “Hương Sơn phong cảnh ca” của Chu Mạnh Trinh
Bài thơ được ông viết khi ông đứng coi trùng tu tôn tạo quần thể thắng cảnh Hương Sơn, một bài thơ với những vần thơ long lanh mềm mại như dải lụa đào, rồi thơ ca và thắng cảnh cũng hòa quyện vào nhau như là sinh ra để dành riêng cho nhau. Nhà văn đến với chùa Hương, phóng tầm mắt ra xa với cảnh nhìn bao quát đẹp vô cùng, bức tranh sơn thủy hữu tình hiện ra trước mắt:
Bầu trời, cảnh bụt
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay
Kìa non non, nước nước, mây mây
Đệ nhất động hỏi là đây có phải?
Bầu trời, cảnh bụt, toàn bài là những câu với 7 và 8 tiếng liền mạch, nhưng mở đầu lại vô cùng ngắn gọn và xúc tích, cái sự ngắn riêng biệt đó đâu phải là ngẫu nhiên, bầu trời hiện lên như vẽ lên hình ảnh thiên nhiên trong đó, cảnh bụt như chốn bồng lai mờ ảo mà vô cùng thơ mộng, ngắn gọn là vậy nhưng mang đầy đủ ý nghĩa, mở ra trước mắt người đọc cổng trời, chốn thần tiên, đưa con người bước vào một thế giới mà chỉ có ở trong mơ, chỉ có trong tưởng tượng.
Và thú vui đó đều là niềm ao ước của bất cứ ai trên thế gian này, không phải là ao ước bất chợt, không phải ngẫu hứng mà muốn có mà đây đã làm khát vọng từ rất lâu của tất cả những người có niềm khao khát được ngắm tác phẩm tự nhiên đó, và đến ngay chính bản thân tác giả cũng không thể kìm lòng trước những gì mình được chứng kiến, hình ảnh non, nước, mây trời trùng trùng điệp điệp cuộn lại như đang vui đùa với nhau, cảm giác đứng trên đỉnh núi có thể vươn tay tới mây trời thật là không có gì bằng trên thế gian này.
Cảnh vật hiện lên là cảnh của tôn giáo, những hình ảnh cổng phật với cảm nhận tinh tế khiến tác giả không thể không thốt lên đây có phải đệ nhất động.
Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,
Lửng lơ khe Yến cá nghe kinh
Thoáng bên tai một tiếng chày Kình
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng
Hương Sơn là cảnh bụt, và cảnh bụt hiện lên bao trùm toàn bộ không gian và thời gian, âm thanh hình ảnh hòa quyện vào với nhau một cách hợp lí nhất, chim quên mất bản thân mình là chim để cất cao tiếng hót, cá quên mất bản thân mình là cá tung tăng vui đùa, chẳng biết từ đâu mà chúng trở nên như vậy, có phải sự thanh tịnh đã làm cho chính những sự vật tưởng chừng như không có nhận thức đó lại chậm dãi đến vậy.
Cũng chẳng biết là có phải phật đã khơi dậy cốt cách của phật trong chúng, thanh lọc tâm hồn chúng, khe Yến cá chẳng còn tung tăng, chẳng còn kiếm ăn nữa, lặng lẽ nghe kinh như có thể hiểu được phần nào đó cuộc sống trên thế gian này, những du khách từ thế giới đầy bon chen, thế giới của sự tranh giành, đấu đá lẫn nhau khi vào tới đây cũng chợt bừng tỉnh, xua tan đi những phiền muộn ở ngoài kia, giảm đi những áp lực trong cuộc sống này.
Chim thỏ thẻ, cá lửng lơ, nghe kinh, tiếng chày kình, tất cả tạo nên một khung cảnh rất Hương Sơn, khung cảnh mà bất cứ ai cũng muốn hòa tan luôn vào trong đó, và giữa chốn Hương Sơn đó là sự mê mẩn, mải mê giữa âm thanh và hình, tiếng chày kình xen lẫn tiếng chuông, cảnh vật như khựng lại, tất cả đều chậm dãi thật yên bình mà cuốn hút vô cùng. Những khổ thơ tiếp theo của bài thơ là một bài hát nói, bài hát đưa du khách tới gần thật gần với Hương Sơn, với những âm trầm âm bổng của vần thơ khiến du khách không khỏi ngạc nhiên và ngỡ ngàng.
Hương Sơn phong cảnh ca là tác phẩm đặc sắc nhất cho thấy được nét đẹp của thiên nhiên qua nhịp điệu từng vần thơ, đặc biệt bài thơ không chỉ thể hiện những cảnh đẹp đó bằng mắt nhìn mà chúng được thể hiện bằng trái tim qua tình yêu quê hương đất nước, yêu con người, cuộc sống, phong cảnh quê hương, niềm tự hào tự tôn về đất nước của chính mình, qua đó muốn đưa đến người đọc cái đẹp mà không phải ai cũng có thể tận mắt chứng kiến, đồng thời thể hiện khát vọng gìn giữ lưu truyền tới muôn đời sau.
6. Phân tích bài Bài ca phong cảnh Hương Sơn mẫu 6
Chu Mạnh Trinh (1862- 1905) tự là Cán Thần, hiệu Trúc Vân, người làng Phú Thị, huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu (nay là xã Mễ Sở, huyện Văn Giang), tỉnh Hưng Yên, đỗ tiến sĩ khoa Nhâm Thìn-1892, và làm quan đến chức án sát (ở Thái Nguyên; Hưng Yên). Ông là người tài hoa, thạo đủ cầm- kì thi hoạ.
Chu Mạnh Trinh nổi tiếng về thơ từ sau khi đạt giải nhất thơ Nôm trong cuộc thi vịnh Kiều ở tỉnh Hưng Yên, tháng 3 năm 1905. Tác phẩm ông đê lại không nhiều: Trúc Vân thi tập (tập thơ chữ Hán), Thanh Tâm tài nhân thi tập (tập thơ chữ Nôm) và một số bài thơ lẻ. Hương Sơn phong cảnh ca là một trong số những bài thơ hay nhất của ông.
Hương Sơn phong cảnh ca được Chu Mạnh Trinh sáng tác khi ông có dịp đứng trông coi trùng tu tôn tạo quần thể danh thắng Hương Sơn. Bài thơ được viết theo thể hát nói biến cách đôi khổ (bài hát nói thường có 3 khổ, mỗi khổ có 4 câu: khổ đầu, khổ giữa, khổ cuối. Nếu không có khổ giữa, hoặc khổ giữa tách thành 2 khổ, người ta gọi là biến cách).
Đây là thể thơ mang đậm bản sắc dân tộc và hội tụ được nhiều nhất những ưu điểm đồng thời hạn chế những nhược điểm về mặt thể loại so với các thể thơ Trung đại (các thể vay mượn của Trung Quốc, cũng như các thể lục bát, song thất lục bát của ta). Có thể nói, trước thơ Mới 1932-1945, hát nói là hình thức thơ tự do nhất. Và Chu Mạnh Trinh- một nhà thơ say mê cảnh đẹp, đã phát huy được sức mạnh ấy trong bài Hương Sơn phong cảnh ca.
Hương Sơn là dãy núi thuộc huyện Mĩ Đức, tỉnh Hà Tây. Trên núi có chùa Hương (còn gọi là Hương tích) thờ Phật Bà Quan Thế Âm. Hương Sơn vừa là danh lam, vừa là danh thắng đã nổi tiếng từ xưa. Hiện trên cửa động Hương Tích (động lớn nhất trong quần thể) còn hàng chữ khắc trên vách đá:
"Nam thiên đệ nhất động" (động đẹp nhất trời Nam), tương truyền là của chúa Trịnh Sâm (1767-1782) tặng. Một động đẹp nhất trời Nam, một không gian thần tiên thoát tục, đến với Hương Sơn con người như được sống trong một bầu không khí vô trùng:
Bầu trời cảnh Bụt
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay.
Kìa non non, nước nước, mây mây…
"Đệ nhất động'" hỏi rằng đây có phải?
Đọc bốn câu thơ, ta thấy Hương Sơn được giới thiệu ở nhiều góc độ: từ ao ước chủ quan của tác giả, từ hình ảnh thực đang bày ra trước mắt chúng ta và từ ý kiến xếp hạng của người xưa. Cách giới thiệu của tác giả, tựu chung lại là để nói điều chưa nói được: Hương Sơn rất đẹp, hứa hẹn những thú vị và hấp dẫn.
Ao ước đến với Hương Sơn của tác giả (và cả chúng ta nữa) không phải là ngày một ngày hai mà là bấy lâu nay, nghĩa là ao ước đã thành khao khát. Khao khát đã được đáp đền khi Hương Sơn hiện ra trước mắt chúng ta. Khi chưa tận mắt chứng kiến, ta chỉ biết Hương Sơn đẹp trong tưởng tượng, và rồi trong tưởng tượng cái đẹp đó cũng không thể sánh được với cái đẹp của Hương sơn đang bày ra trước mắt chúng ta. Chính vì thế tác giả phải ngạc nhiên thốt lên: "Kìa non non, nước nước, mây mây"… Quả là một chốn bồng lai.
Hương Sơn không giống như một thắng cảnh bất kì nào, nghĩa là không chỉ có non nước mây trời mà là trập trùng non nước mây trời. Tác giả Chu Mạnh Trinh đã sử dụng phép lặp từ (ở tính từ gọi là láy toàn phần) tạo cho phong cảnh Hương Sơn cái đẹp trùng điệp, kì vĩ. Cách giới thiệu của tác giả thật khéo léo, thật thuyết phục, thật cuốn hút bởi vì cái hăm hở, tò mò trong mỗi con người chúng ta bị đánh thức.
Mặc dù chưa thật rõ đường nét, nhưng qua lời giới thiệu của tác giả, Hương Sơn đã có cái thế của một quần thể không gian nhiều tầng, hứa hẹn đang phong giữ nhiều vẻ đẹp kì vĩ ở bên trong. Hương Sơn đẹp! Hương Sơn kì vĩ! Nhưng đến với Hương Sơn, ta không phải chỉ được thưởng thức một vẻ đẹp của phong cảnh mà còn được sống trong một bầu không khí thanh cao, pha chút màu tôn giáo thiêng liêng mà Chu Mạnh Trinh gọi đó là cảnh Bụt. Cảnh Bụt (Phật) luôn gắn liền với việc thờ cúng. Chính vì thế tác giả viết:
Thỏ thè rừng mai chim cúng trái
Lững lờ Khe Yến cá nghe kinh
Thoảng bên tai một tiếng chày kình
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.
Quả là sống trong cảnh Bụt, nhìn con chim ăn trái mai (mơ) mà tác giả tưởng tượng ra con chim đang cúng trái (cái đầu gật lên, gật xuống để mổ trái cây), nhìn con cá đang lặng lờ bơi mà tác giả nghĩ cá đang nghe kinh (im lặng để nghe). Chim cúng trái, cá nghe kinh… rồi cả không gian cũng như loãng ra trong tiếng chuông chùa không dứt (tiếng chày kình). Và, đến lượt con người (khách tang hải) lại say bởi cảnh vật, say bởi cái không gian say sưa ấy.
Không khí thần tiên thoát tục đã bao trùm Hương Sơn. Cả một vùng trời đất, từ không gian đến cảnh vật, con người đều ngất ngây trong khí đạo, mùi thiền. Tác giả Hương Sơn phong cảnh ca gọi đó là cảnh Bụt. Thực ra cảnh Bụt cũng là cảnh Tiên (đẹp), người ta thường dùng nó để chỉ cái đẹp khác với cái đẹp thông thường.
Nhưng Chu Mạnh Trinh không gọi là cảnh Tiên mà gọi là cảnh Bụt, vì gọi như thế vừa tránh được cái sáo mòn của chữ, lại vừa gợi được khí vị thiêng liêng phù hợp với đối tượng miêu tả; mặt khác gọi là cảnh Bụt cũng vừa thể hiện được cái đẹp vừa thể hiện được hành động từ bi cứu nhân độ thế của đạo Phật.
Cảnh có hồn hay hồn người đã nhập vào cảnh? Ở đời có cái đẹp đánh thức cái ham muốn tầm thường của con người, nhưng cũng có cái đẹp làm cho con người thánh thiện hơn lên. vẻ đẹp đó là của Hương Sơn. Con người trong cuộc sống đời trần (như khách tang hải chẳng hạn) vốn nhuộm đầy ưu tư phiền muộn và cả bụi bặm đời thường. Nhưng khi đến vói Hương Sơn tất cả sẽ được rũ bỏ để thành cao khiết hơn lên, thánh thiện hơn lên, bởi ở đây con người có đủ điều kiện để trở nên trong sạch:
Này suối giải oan, này đền cửa Võng
Này Am Phật Tích, này động Tuyết Quynh
Nhác trông lên ai khéo hoạ hình
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây.
Chỉ là một lời kể ngắn gọn trong hai câu thơ (2 câu đầu đoạn) nhưng đã khắc họa ấn tượng về một quần thể vừa thiên tạo, vừa nhân tạo và có đủ suối - chùa - am - động… nghĩa là có đủ tên gọi ở quần thể Hương Sơn này. Như vậy là không thể kể hết mà đã kể hết.
Bôn câu thơ tiếp theo tác giả tả chi tiết mà vẫn là điểm xuyết. Nhác trông nghĩa là chỉ trông thoáng qua chứ không soi xét kĩ càng, nhưng cảnh Hương Sơn vẫn long lanh cuốn hút. Câu thơ "Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây" cho ta một vẻ đẹp nhiều tầng của một quần thể hùng vĩ, tráng lệ, một vẻ đẹp của Thiên triều (cũng có thế hiểu theo nghĩa thực: đường lên Hương Sơn rất cao và gập ghềnh, uốn khúc).
Tựu trung lại, cả đoạn thơ tác giả nhằm thể hiện vẻ đẹp siêu thoát của Hương Sơn; nhưng siêu thoát chứ không siêu hình. Chính vì thế ai chưa một lần đến Hương Sơn, sau khi đã thưởng thức bài thơ này rất khao khát được đến và rồi sẽ nghiệm ra vẻ đẹp để càng yêu mến Hương Sơn hơn. Hương Sơn đẹp! vẻ đẹp của Hương Sơn suy rộng ra cũng là vẻ đẹp của giang sơn, đất nước:
Chừng giang sơn còn đợi ai đây
Hay tạo hóa khéo tay xếp đặt?
Một câu hỏi không cần câu trả lời nhưng chắc chắn ai cũng có thể trả lời được: đợi chủ nhân của nó. vẫn biết cảnh đẹp Hương Sơn chủ yếu là do thiên tạo, nhưng sao không phải là trên đất khác mà lại trên đất này- đất Việt Nam? Chính vì thế Hương Sơn là của người Việt Nam, của giang sơn Việt- Nam.
Và từ đó ta cũng có thể hiểu ra: yêu Hương Sơn là yêu giang sơn Việt Nam. Câu thơ kết thúc tác giả còn bỏ lửng: Càng trông phong cảnh càng yêu… như có ý để người đọc tự viết tiếp những từ mà tự mình cho là hợp lí nhất, ví như: nước mình chẳng chẳng hạn:
Chu Mạnh Trinh yêu Hương Sơn đến độ say sưa bằng tình yêu của một thi sĩ tài hoa, uyên bác. Ông có tới ba bài thơ viết về Hương Sơn, nhưng Hương Sơn phong cảnh ca có thể xem là bài hay nhất. Với tài năng nghệ thuật kiệt xuất, với tình yêu quê hương đất nước thiết tha, ông đã phát hiện ra và truyền tả được vẻ đẹp độc đáo, thanh cao, thoát tục của danh thắng Hương Sơn. Có thể nói, viết về Hương Sơn, cho tới nay chưa ai vượt tầm Chu Mạnh Trinh.
7. Phân tích bài Bài ca phong cảnh Hương Sơn mẫu 7
Chu Mạnh Trinh sinh 1862 và mất 1905, đỗ Tiến Sĩ 1892. Ông là nhà thơ tài hoa của thơ ca Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Ông thạo đủ cầm, kì, thi hoạ, giỏi về nghệ thuật kiến trúc. Năm 1905, ông đoạt giải nhất thơ Nôm trong cuộc thi vịnh Kiều tại Hưng Yên. Chu Mạnh Trinh là người có công trong việc trùng tu, tôn tạo chùa Thiên Trù- ngôi chùa nổi tiếng trong quần thể Hương Sơn. Ông có sáng tác thơ về Hương Sơn được đánh giá là hay nhất từ trước đến nay, đặc biệt qua bài: Bài ca phong cảnh Hương Sơn.
Bài hát nói này tương truyền được sáng tác năm 1903, trong dịp Chu Mạnh Trinh trùng tu chùa Thiên Trù ở Chùa Hương. Hương Sơn thường gọi là Chùa Hương là một quần thể thắng cảnh và kiến trúc nổi tiếng của huyện Mĩ Đức, tỉnh Hà Tây. Chùa Hương được mệnh danh là “Nam thiên đệ nhất động” (Động đẹp nhất trời Nam).
Lễ hội Chùa Hương được tổ chức vào mùa xuân từ tháng giêng đến tháng 3 âm lịch hàng năm. Bài thơ được sáng tác theo thể hát nói. Đó là một điệu của ca trù nên có người gọi chung là ca trù. Hát nói khá phổ biến ở các thế kỉ trước, nhất là ở cuối thế kỉ XVIII, nhưng đến thế kỉ XIX hát nói mới có nhiều thành tựu, gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Công Trứ, Chu Mạnh Trinh,… Từ lâu, chùa Hương đã là một nguồn thơ, nguồn cảm hứng sáng tạo của nhiều nghệ sĩ. Tản Đà có bài Vịnh chùa Hương:
Chùa Hương trời điểm lại trời tô
Một bức tranh tình trải mấy thu
Nguyễn Nhược Pháp có bài Chùa Hương nổi tiếng, Nguyễn Bính có bài Cô hái mơ; cả hai bài thơ này đều đã được phổ nhạc. Ngay Chu Mạnh Trinh cũng đã có ba bài thơ viết về chùa Hương, trong đó Hương Sơn phong cảnh ca được xem là bài hay nhất.
Bầu trời cảnh Bụt,
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay.
Kìa non non, nước nước, mây mây,
Đệ nhất động hỏi là đây có phải?
Bốn tiếng trong câu thơ đầu đọc liền nhau, cùng chung một nhịp như những bước chân cuối cùng đưa du khách lên tận đỉnh cao của Hương Sơn. Dừng lại. Đúng là Hương Sơn rồi. Vì đã có dấu hiệu đặc trưng đậm chất Hương Sơn mà không đâu có; đó là cảnh đẹp thiên nhiên hòa hợp trong không khí tâm linh: "Bầu trời cảnh Bụt". Ngẩng đầu lên : bầu trời, mình như đang ở trên trời, cách xa cõi nhân thế dưới kia; đưa mắt nhìn quanh: cảnh Bụt, bao bọc lấy mình là cõi phật, cõi Bụt, cõi thần tiên, cõi mà ta ao ước bấy lâu nay.
Cái thú đến với Hương Sơn là đến với “Bầu trời cảnh bụt” là sự ao ước của bao người trong đó có nhà thơ “Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay”. Cảnh vật hiện ra là cảnh của thiên nhiên và cảnh tôn giáo. Lòng ngưỡng mộ với cảnh phật cộng với cảm nhận tinh tế của một nhà thơ, Chu Mạnh Trinh đã bật lên câu hỏi “Đệ nhất động hỏi là đây có phải?”.
Giọng thơ khoan thai, nhẹ nhàng như ru, như mời mọc. Tâm hồn thi sĩ như bâng khuâng, bảng lảng trong tĩnh tại của tâm linh mà vẫn tỉnh táo lạ thường. Con người đến nơi này như rũ sạch mọi thứ phàm tục. Bốn câu thơ đầu tạo cảm xúc cho bài thơ hát nói.
Mười hai câu tiếp theo, tác giả tập trung miêu tả thể hiện những nét đẹp tiêu biểu của Hương Sơn: vẻ đẹp thần tiên siêu thoát, đạm màu thiền và vẻ đẹp kì thú tự nhiên mà hết sức gần gũi đối với con người. Ở khổ thơ thứ 2 tác giả đã chú ý thể hiện hình ảnh của cảnh vật và con người gợi không khí thần tiên:
Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,
Lửng lơ khe Yến cá nghe kinh.
Thoảng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.
Bằng cách ấy, Chu Mạnh Trinh đã làm bật lên vẻ đẹp siêu thoát, thanh tịnh, mang đậm màu thiền của cảnh trí Hương Sơn. Hình ảnh, âm thanh là những chất liệu chính để gợi cảnh. Đó là hình ảnh của chim, cá, của khách tang hải. Đó là âm thanh thỏ thẻ của tiếng chim mổ vào trái mơ, là tiếng kinh niệm phật, tiếng chuông chùa (Vẳng bên tai một tiếng chày kình)…
Những hình ảnh và âm thanh đó giúp người đọc cảm nhận một cách rõ ràng hơn vẻ đẹp thanh tịnh, siêu thoát, hết sức thi vị của Hương Sơn. Các từ láy: thỏ thẻ, lững lờ gợi ra hình ảnh sinh động về cảnh vật: chim mổ nhẹ vào trái cây, cá gần như bất động giữa làn nước trong. Thủ pháp nhân hoá được sử dụng trong hai câu thơ này đến cho khoái cảm nghệ thuật rất thú vị.
Trong cảm nhận của tác giả, hình ảnh chim ăm trái giống như động tác cúng vái của phật tử. Con cái bơi lững lờ giống như đang chìm đắm vào tiếng kinh niệm Phật. Trong thế giới ấy, các con vật cũng mang dáng dấp của những tín đồ nhà Phật. Ở hai khổ thơ tiếp, tác giả tập trung làm rõ vẻ kì thú tự nhiên mà cũng rất gần gũi thân thuộc của cảnh sắc Hương Sơn:
Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng,
Này am Phật Tích, này động Tuyết Quynh.
Nhác trông lên, ai khéo vẽ hình:
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt.
Từ những cảnh sắc của tự nhiên, đất trời, nhà thơ Chu Mạnh Chinh đã liệt kê những địa điểm nổi tiếng của địa danh Hương Sơn, đó chính là suối Giải Oan, chùa Cửa Võng, am Phật Tích, động Tuyết Quỳnh, đó đều là những địa điểm đẹp, hấp dẫn tạo nên nét đẹp của Hương Sơn. Nhà thơ đã điệp ngữ từ “này” vừa thể hiện được cảm xúc nồng nhiệt đồng thời cũng thể hiện được sự tự hào trước những địa điểm ấy.
Trong các hang động, tạo hóa đã tạo cho Hương Sơn một vẻ đẹp hiếm thấy “Nhác trông lên, ai khéo vẽ hình”, đó là những hình thù độc đáo do bàn tay của tạo hóa chế tác lên, những viên đá thạch nhũ trong những hang động ấy cũng mang vẻ đẹp độc đáo, khác thường “Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt”.
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt
Chập chờn mấy lối uốn thang mây
Chừng giang sơn còn đợi ai đây
Hay tạo hóa khéo ra tay xếp đặt?
Hang đá Hương Sơn không chỉ đẹp bởi sự điểm xuyết của những viên đá ngũ sắc, không chỉ ở những hình thù độc đáo, kì dị mà còn có sự giao lưu với thế giới bên ngoài, tuy là hang nhưng sự thông thoáng của mặt hang còn làm cho ánh trăng chiếu rọi “Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt”, và dưới ánh trăng ấy, cảnh vật không tồn tại độc lập mà nó đan lồng với ánh trăng, tạo nên một vẻ đẹp độc đáo.
Những lỗi vào, đường đi vào vào hang cũng không phải những con đường thẳng tắp mà là những lối đi uốn khúc, mà trong cảm nhận của nhà thơ thì nó như một lối uốn thang mây “Chập chờn mấy lối uốn thang mây”.
Tác giả sử dụng những từ tạo hình (phương thức láy): Long lanh, thăm thẳm, gập ghềnh, kết hợp với cảm hứng khoan khoái, ngây ngất của nhân vật trữ tình. Cách miêu tả làm cho bức tranh Hương Sơn nên thơ nên hoạ. Đó là sản phẩm của một cảm hứng thẩm mĩ cao độ. Yêu cái đẹp của cảnh vật đã gắn liền với lòng yêu quê hương đất nước.
Hai câu thơ: "Chừng giang sơn… sắp đặt" là những câu hỏi liên tiếp thể hiện tâm trạng say đắm trước cảnh bầu trời cảnh bụt. Ở đây, tình yêu cảnh Hương Sơn hòa vào với tình yêu lớn: tình yêu giang sơn, tổ quốc. Ca hát Hương Sơn tuyệt mĩ cũng là ca hát Tổ quốc ngàn đời tươi đẹp mà ta yêu. Bài ca kết lại trong sự hòa quyện cảm hứng đầy thành kính, trang nghiêm đối với đạo Phật và cảm hứng yêu quý cảnh đẹp Hương Sơn đến độ mê đắm:
Lần tràng hạt niệm “Nam vô Phật”,
Cửa từ bi công đức biết là bao.
Càng trông phong cảnh càng yêu!
Cảnh vật mang màu sắc tôn giáo (đạo phật) với tất cả tấm lòng ngưỡng mộ trang nghiêm nhưng gắn kết với yêu cái đẹp của thiên nhiên: “Thỏ thẻ rừng mai”, “Lững lờ khe Yến”, “Lồng bóng nguyệt”, “Uốn thang mây". Lời kết của bài thơ nhưng lại có sức vang ngân tưởng chừng không dứt trong lòng thi nhân.
Nó còn ngân nga mãi trong lòng người đọc xưa, cả hôm nay và mai sau để ngợi ca những con người góp phần làm cho Hương Sơn thêm đẹp, thể hiện tình yêu say đắm đối với non sông đất nước. Sự hòa quyện giữa cảm hứng tôn giáo trang nghiêm này với lòng yêu quê hương đất nước là giá trị nhân bản cao đẹp trong tâm hồn thi nhân. Nó trọn tạo ra sự thanh cao, tinh khiết, lâng lâng của hồn người. Cảm hứng tôn giáo không phải là sự mê tín dị đoan mà là một nhu cầu tinh thần mang tính người của một bút pháp tài hoa.
Hương Sơn phong cảnh ca ghi nhận một bút pháp, một giọng thơ, một năng lực gợi cảm, gợi tình đầy tài hoa của một tấm lòng yêu cái đẹp của thiên nhiên đất nước. Bài thơ đã miêu tả thành công cảnh vật nên thơ, nên hoạ của Hương Sơn. Đồng thời thể hiện sự hòa quyện giữa cảm hứng tôn giáo đầy thành kính, trang nghiêm với tình yêu giang sơn đất nước tươi đẹp.
8. Phân tích bài Bài ca phong cảnh Hương Sơn mẫu 8
Hương Sơn phong cảnh ca - một bức tranh non nước kì thú và thiêng liêng. Hương Sơn phong cảnh ca có nghĩa là bài ca về phong cảnh Hương Sơn. Gọi là ca vì nó được làm theo thể hát nói. Hát nói là một thể thơ mà lời của nó có thể được hát lên theo làn điệu dân ca ca trù. Mở đầu bài ca là phong cảnh bao quát, tổng quan của quần thể Hương Sơn trong con mắt của một du khách đứng nhìn từ xa:
Bầu trời cảnh Bụt,
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay.
Kìa non non, nước nước, mây mây,
“Đệ nhất động” hỏi là đây có phải?
Với con mắt kinh ngạc trước vẻ đẹp của Nam thiên đệ nhất động, người du khách tiến dần đến cận cảnh:
Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,
Lững lờ khe Yến cá nghe kinh.
Nghệ thuật nhân hóa kết hợp với đảo ngữ, tác giả đã gợi tả được tiếng chim hót trong lành như tiếng trẻ thơ thỏ thể, gợi tả được hình bóng từng đàn cá lượn lững lờ trong khe nước. Hình ảnh chim cúng trái, cá nghe kinh đượm màu sắc thiêng liêng của tôn giáo, ở đây là Phật giáo.
Vẳng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.
Câu thơ biểu hiện nỗi thảng thốt của tâm hồn du khách đi giữa cảnh trí quần thể Hương Sơn như đi trong mộng. Cảnh trí Hương Sơn được nhà thơ nói đến nửa mộng nửa thực ngay từ trong tên gọi:
Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng,
Này hang Phật Tích, này động Tuyết Quynh,
Nhà thơ chưa tả, chỉ nhắc đến tên thôi mà lòng ta đã say mê cảnh Tiên, cảnh Phật. Có ma lực gì trong những tên gọi ấy?
Nhác trông lên ai khéo họa hình,
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt.
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt,
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây.
Nhà thơ dùng nghệ thuật so sánh để làm tôn lên màu sắc rực rỡ của cảnh; lại dùng nghệ thuật ẩn dụ để điểm tô cho cảnh một làn ánh sáng thiêng liêng, huyền ảo: hang lồng bóng nguyệt, lối uốn thang mây. Nghệ thuật dùng từ ai phiếm chỉ thường gặp trong ca dao, dân ca được sử dụng ở đây đã góp phần biểu hiện những rung động tinh tế của tâm hồn nhà thơ trước cảnh đẹp: nhác trông lên ai khéo họa hình; chừng giang sơn còn đợi ai đây.
Bài thơ có lối dùng ngôn ngữ giao tiếp, cứ như là người làm thơ đang nói với người đọc thơ đứng ở trước mặt mình. Cho nên tả cảnh thì dùng nhiều từ để chỉ, để trỏ: kìa, này. Trữ tình thì dùng lối tự bạch: càng trông phong cảnh càng yêu. Tình yêu quê hương đất nước hiển hiện trên từng dòng thơ.
Giai điệu hát ca trù vang vọng đâu đây nâng cánh cho lời thơ. Bầu trời cảnh Bụt, sắc thái thiêng liêng, huyền diệu của tín ngưỡng Phật giáo: cửa từ bi công đức biết là bao - hòa quyện con người, thiên nhiên và vũ trụ, làm say đắm mà cũng nâng cao mở rộng tầm vóc cho hồn thơ.
Tất cả những cái đó tạo nên vẻ đẹp độc đáo và sức hấp dẫn cho Hương Sơn phong cảnh ca. Với Hương Sơn phong cảnh ca, Chu Mạnh Trinh đã có một “chứng minh thư” để đứng vào đội ngũ những nhà thơ tài hoa miêu tả phong cảnh đất nước.
-------------------------
Trên đây VnDoc.com vừa giới thiệu tới các bạn Phân tích bài thơ Bài ca phong cảnh Hương Sơn, chắc hẳn qua bài viết bạn đọc đã nắm được những ý chính cũng như trau dồi được nội dung kiến thức của bài viết rồi đúng không ạ? Mong rằng qua bài viết này các bạn có thể học tập tốt hơn môn Ngữ văn 11 nhé. Để giúp bạn đọc có thêm nhiều tài liệu học tập hơn nữa, VnDoc.com mời các bạn cùng tham khảo thêm các môn Toán 11, tiếng Anh 11, đề thi học kì 1 lớp 11, đề thi học kì 2 lớp 11...