Tác giả Hồ Chí Minh
1. Những nét chính trong tiểu sử
- Hồ Chí Minh (19/5/1980 - 2/9/1969). Quê hương: Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An.
- Gia đình: nhà nho có truyền thống khoa bảng và yêu nước.
- Những nét chính trong cuộc đời:
| 1919 | Tìm đường cứu nước, hoạt động cách mạng ở Pháp, Liên Xô, Trung Quốc. |
| 1925 | Tham gia thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội. |
| 3/2/1930 | Chủ trì hội nghị thống nhất Đảng cộng sản trong nước. |
| 1941 | Về nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng, giành thắng lợi ở cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8/1945, được bầu làm chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. |
| 2/9/1969 | Người mất tại Hà Nội. |
2. Quan điểm sáng tác
a. Sứ mệnh thiêng liêng của văn chương và vai trò người nghệ sĩ:
- Chủ tịch Hồ Chí Minh xem văn nghệ là một hoạt động tinh thần phong phú, phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng;
⇒ Vị trí nhà văn: phải ở giữa cuộc đời, không được trốn tránh, góp phần vào cuộc đấu tranh và phát triển xã hội.
⇒ Nghĩa là: văn học nghệ thuật phải là vũ khí, phục vụ tốt cho sự nghiệp cách mạng, nhà văn là người chiến sĩ trong cuộc đấu tranh.
Trong Cảm tưởng đọc Thiên gia thi, Người xác định: (Nay ở trong thơ nên có thép…). Chất thép: là xu hướng tiến bộ tích cực, là cảm hứng đấu tranh xã hội của thơ ca. Hay sau này người phát biểu và yêu cầu: Văn hoá văn nghệ là một mặt trận
b. Rất chú trọng đối tượng thưởng thức của văn chương.
Người nêu kinh nghiệm sáng tác viết văn và báo chí: khi viết đặt ra và trả lời 4 câu hỏi: Viết cho ai? Viết để làm gì? Viết cái gì? Viết như thế nào? Nghĩa là đối tượng phải đặt lên hàng đầu. Đối tượng và mục đích sẽ quyết định nội dung và hình thức nghệ thuật phù hợp.
- Văn chương thời đại cách mạng phải lấy quần chúng nhân dân làm đối tượng phục vụ chủ yếu. Viết cho ai?( Cho nhân dân). Tránh lối viết không mục đích, không đối tượng.
- Nhưng cần chú ý kết hợp tính phổ cập và nâng cao trong văn nghệ. Khi nào viết phổ cập, khi nào viết nâng cao là hoàn toàn phụ thuộc vào đối tượng. Điều này có liên quan đến ý thức trách nhiệm của người cầm bút. Quan điểm này sẽ giải thích vì sao trong sáng tác của Người có những bài đặt cạnh nhau không nghĩ là sáng tác của cùng một tác giả: có những bài rất giản dị, mộc mạc, vần vè nôm na - có những bài hàm súc uyên thâm, nghệ thuật rất điêu luyện; có những bài chính luận sắc sảo hùng hồn - có bài gần gũi dễ hiểu; có truyện ngắn rất Pháp - có những bài thơ rất Đường. Chỉ có thể giải thích bằng quan điểm sáng tác của Người: trước mỗi đối tượng, với mỗi mục đích, Người biết chọn nội dung và hình thức phù hợp.
c. Yêu cầu với tác phẩm văn chương (phẩm chất của văn chương)
* Về nội dung: Phải đảm bảo tính chân thực, và mang tính dân tộc. Vì tính chân thực là cái gốc của văn chương muôn đời; còn tính dân tộc là một thuộc tính, một phẩm chất cần có của văn chương. Văn học phải phản ánh chân thật cuộc sống; phải miêu tả cho hay, cho chân thật, cho hùng hồn hiện thực đời sống cách mạng; phải nêu gương người tốt việc tốt… Người uốn nắn một xu hướng nghệ thuật đầu kháng chiến chất mơ mộng nhiều quá mà chất thật của sự sinh hoạt rất ít. Văn học nghệ thuật làm sao phản ánh được cuộc sống của dân tộc và được nhân dân yêu thích, phải mang hồn dân tộc.
* Về hình thức biểu hiện: Phải trong sáng, giản dị mà hấp dẫn, có chọn lọc, nghệ thuật, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Tránh lối viết cầu kì, xa lạ, khó hiểu, khuôn sáo, nặng nề; nghệ thuật chứ không thái quá thành kĩ thuật bí hiểm. Nghĩa là tính dân tộc không chỉ ỏ nội dung mà còn ở hình thức biểu hiện, được nhân dân yêu thích.
3. Sự nghiệp văn học
3.1. Giới thiệu chung:
- Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại di sản vô cùng quý giá cho dân tộc và nhân loại.
- Do điều kiện hoạt động cách mạng ở nước ngoài, nên sáng tác của Người viết bằng 3 thứ tiếng: Pháp, Hán, Việt.
- Sáng tác của Người trên nhiều thể loại, nhưng chủ yếu là 3 lĩnh vực chính : văn chính luận, truyện và kí, thơ ca.
3.2. Văn chính luận:
| a. Đánh giá chung | Đây là lĩnh vực nổi bật trong sự nghiệp của Hồ Chí Minh; sáng tác từ những năm 20 ở Pháp trên các báo Pháp với bút danh Nguyễn Ái Quốc, cho tới cuối đời. |
| b. Mục đích sáng tác |
- Đấu tranh trực diện với kẻ thù - Tuyên truyền cho những nhiệm vụ của cách mạng trong từng giai đoạn. |
| c. Tác phẩm tiêu biểu |
- Bản án chế độ thực dân Pháp (1925): Thiên phóng sự điều tra quy mô về tội ác của thực dân Pháp ở các nước châu Phi, á; nỗi thống khổ của các tầng lớp nhân dân thuộc địa. Tập hồ sơ chi tiết, bản cáo trạng đanh thép về tội ác của chủ nghĩa thực dân. Đồng thời chỉ ra con đường đấu tranh để thoát khỏi áp bức của nhân dân thuộc địa. - Tuyên ngôn độc lập (1945): kết tinh những quyền cơ bản nhất, nguyện vọng tha thiết nhất của nhân dân Việt Nam về độc lập tự do; áng văn chính luận mẫu mực. - Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946), Không có gì quý hơn độc lập tự do (1966): ra đời trong những giờ phút thử thách nhất của lịch sử, là lời kêu gọi của non sông, văn phong hào hùng, làm rung động hàng triệu con tim Việt Nam. - Di chúc (1969): lời căn dặn thiết tha đồng chí đồng bào, chứa đựng cả đường lối chiến lược phát triển đất nước, và tình thương bao la với nhân dân trước lúc đi xa. |
| d. Nghệ thuật |
Hồ Chí Minh là một trong những người viết văn chính luận mẫu mực. Thể hiện: - Lập luận chặt chẽ, lí lẽ xác đáng, bằng chứng xác thực. - Không chỉ thấu lí, mà còn rất đạt tình, truyền cảm, rung động lòng người. |
3.3. Truyện và kí:
| a. Đánh giá chung |
Đây là lĩnh vực đặc sắc trong sự nghiệp của Bác. Được viết từ những năm 20 ở Pháp và rải rác sau này. |
|
b. Mục đích sáng tác |
Đấu tranh cách mạng, tố cáo tội ác trực diện của thực dân, phong kiến tay sai. |
|
c. Tác phẩm tiêu biểu |
Vi hành, Những trò lố…, Con người biết mùi hun khói, Lời than vãn của bà Trưng Trắc… |
| d. Nghệ thuật |
Ngắn gọn, trí tuệ, cốt truyện sáng tạo, ý tưởng thâm thuý, thể hiện rõ lối viết theo bút pháp văn phong phương Tây; bút pháp sở trường là châm biếm và đả kích. |
3.4. Thơ ca:
a. Đánh giá chung: Đây là lĩnh vực nổi bật trong di sản văn học của Người. Khoảng 250 bài.
b. Hành trình sáng tác:
- Những sáng tác trước cách mạng:
- Tiêu biểu là tập Nhật kí trong tù (1942-1943).
- Ngoài ra, còn có thể kể đến chùm tác phẩm là những bài ca tuyên truyền vận động cách mạng những năm 40, rất giản dị, dễ hiểu, mộc mặc, mang phong vị thơ ca dân gian ; một số bài thơ tức cảnh thiên nhiên Việt Bắc
- Những sáng tác sau cách mạng: đa dạng:
- Chùm bài thơ tặng đồng bào thi đua sản xuất và chiến đấu.
- Chùm bài thơ chúc tết đồng chí đồng bào.
- Những vần thơ lẻ rải rác trong các bài nói chuyện.
- Có giá trị nhất là thơ tức cảnh thiên nhiên ở Việt Bắc, thơ thù tiếp. Qua đó thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của vị chủ tịch nước: nỗi lo lắng cho nước, tình yêu thiên nhiên, yêu con người, tinh thần lạc quan cách mạng.
4. Phong cách nghệ thuật
4.1. Nét chung:
Dù viết văn chính luận hay truyện kí, thơ ca, nhưng nổi lên mấy điểm:
- Ngắn gọn, giản dị mà sâu sắc, kết hợp hài hoà giữa cổ điển và hiện đại, chính trị và văn học.
- Linh hoạt trong vận dụng các hình thức thể loại, bút pháp, thủ pháp NT khác nhau, nhằm đạt mục đích thiết thực trong từng tác phẩm.
- Tư tưởng hình tượng luôn vận động nhất quán hướng về sự sống, ánh sáng, tương lai.
4.2. Nét riêng:
a. Văn chính luận: kế thừa xuất sắc thể văn chính luận của cha ông, mang hơi thở văn chính luận của thời đại mới.
- Lập luận chặt chẽ, lí lẽ xác đáng, đanh thép, bằng chứng xác thực, kết hợp lí luận và thực tiễn.
- Truyền cảm: giàu hình ảnh, nhiều biện pháp tu từ, thấu lí mà đạt tình.
b. Truyện và kí: Nổi bật là chất trí tuệ và tính hiện đại.
c. Thơ ca:
- Những bài viết theo lối cổ thi: rất hàm súc cổ điển, mang hơi thơ Đường Tống,
phong vị Đường thi.
- Những bài viết theo lối khác: phù hợp với từng đối tượng và đạt hiệu quả thiết
thực; nhiều khi mang phong vị thơ ca dân gian.
5. Kiến thức nâng cao
- Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh không tự nhận mình là nhà văn nhà thơ, mà chỉ là người bạn của văn nghệ. Người bộc lộ: Ngâm thơ ta vốn không ham (Nhật kí trong tù). Người tự thuật: Cả đời tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được độc lập, dân ta được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Bởi vậy Người đã dồn tất cả tâm huyết sức lực cho sự nghiệp cứu nước cứu dân, trở thành nhà chính trị, nhà cách mạng vĩ đại của dân tộc. Nhưng trên thực tế Người lại để lại cho dân tộc một di sản văn học to lớn, là nhà thơ, nhà văn, được suy tôn là Danh nhân văn hoá thế giới. Có nhiều nguyên nhân lí giải điều này:
- Do hoàn cảnh thôi thúc, nhiệm vụ cách mạng yêu cầu. Nghĩa là trên con đường hoạt động cách mạng, Người nhận thấy văn chương thực sự là một vũ khí lợi hại, sắc bén phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng, Người đã nắm lấy nó, mài sắc nó bằng nhiệt tình cách mạng và trở thành nhà văn ngoài dự định của mình. Phần lớn sáng tác của Người được làm để phục vụ cho cuộc đấu tranh cách mạng của dân tộc (VD: Truyện và kí, Bản án chế độ thực dân Pháp, Tuyên ngôn độc lập, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến).
- Do môi trường thiên nhiên gợi cảm, đặc biệt do tài năng nghệ thuật và tâm hồn nghệ sĩ thực sự chứa chan cảm xúc trước thiên nhiên và cuộc đời. Những bài thơ hầu hết được làm trong giây phút dạt dào cảm hứng của một nhà thơ đích thực.
- Người còn am hiểu quy luật và đặc trưng của hoạt động nghệ thuật. Điều đó thể hiện trong hệ thống quan điểm sáng tác.
- Đây là quan niệm Bác đã kế thừa tiếp tục truyền thống của cha ông, có nâng cao ở thời đại cách mạng. Cha ông ta từng có quan niệm Văn dĩ tải đạo, thơ văn giúp đời, vì nhân sinh, văn chương là vũ khí của người chiến sĩ. Đó là tinh thần Thoái lỗ thi (thơ đuổi giặc) của Lí Thường kiệt, là tinh thần dùng văn chương làm vũ khí tâm công phạt mưu của Nguyễn Trãi, được người đời sau ngợi ca là ngòi bút có sức mạnh hơn 10 vạn hùng binh; là tinh thần văn chương chuyên chú ở con người của Nguyễn Văn Siêu; là tinh thần văn chương chở đạo đâm gian của Đồ Chiểu. Cùng thời đại cách mạng, nhà thơ Sóng Hồng cũng quan niệm: Dùng cán bút làm đòn chuyển xoay chế độ/ Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền. Quan điểm này giải thích vì sao trong sáng tác của Người chủ yếu là văn chính luận tuyên truyền phục vụ cuộc đấu tranh cách mạng.
⇒ Đánh giá: đây là quan niệm nghệ thuật đúng đắn, tiến bộ, phù hợp với lí luận văn nghệ cách mạng; không những thể hiện nhất quán trong toàn bộ sáng tác của Hồ Chí Minh, mà còn trở thành đường lối lãnh đạo văn nghệ của Đảng; là kim chỉ nam dẫn đường chỉ lối cho nền văn nghệ cách mạng.