Mẹo khắc phục lỗi chính tả tiếng Việt

Khắc phục lỗi chính tả trong tiếng Việt là điều mà rất nhiều người mắc phải. Không chỉ mỗi trẻ em dễ bị mắc các lỗi sai chính tả mà ngay cả người lớn đôi khi cũng không biết làm thế nào để viết đúng chính tả ở một số trường hợp dễ nhầm lẫn. Trong bài viết này VnDoc sẽ chia sẻ cho bạn một số kinh nghiệm viết đúng chính tả, mời các bạn cùng tham khảo.

Luật chính tả tiếng Việt tổng hợp các quy tắc chính tả cần biết như quy tắc viết hoa, quy tắc chính tả i và y, luật chính tả l và n, quy tắc viết tr và ch, phân biệt s và x, chính tả r/d/gi, quy luật chính tả c/k/q…

1. Quy tắc viết hoa cơ bản

– Đầu câu, danh từ riêng.

Ví dụ: Bác Hồ, Tổ quốc, Mặt Trời,…

– Viết hoa khi dẫn lời nói trực tiếp.

Ví dụ: Thanh gọi mẹ ríu rít: – Mẹ ơi !

– Sau dấu hai chấm mà kiểu câu liệt kê thì không viết hoa.

Ví dụ: Xoài có nhiều loại: xoài tượng, xoài cát, xoài thanh ca,…

– Viết hoa tên người, tên địa danh nước ngoài: phiên âm, dịch ra tiếng Việt.

+ Trường hợp phiên âm qua âm Hán Việt: Viết theo quy tắc viết tên người, tên địa lí Việt Nam.

Ví dụ: Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành, Khổng Tử, Đức, Nhật Bản, Bồ Đào Nha, Triều Tiên …

+ Trường hợp phiên âm không qua âm Hán Việt (phiên âm trực tiếp, viết sát theo cách đọc): Đối với mỗi bộ phận tạo thành tên riêng, viết hoa chữ cái đầu và có gạch nối giữa các âm tiết.

Ví dụ: Phơ-ri-đơ-rích Ăng-ghen, Vơ-la-đi-mia I-lích Lê-nin, Mát-xcơ-va, I-ta-li-a, An-giê-ri, …

2. Quy tắc chính tả do một âm có nhiều cách viết

Luật chính tả I/Y

– Có 3 trường hợp viết y:

+ Bắt buộc viết y đứng sau âm đệm như: huy, tuy, thúy,…

+ Đứng sau nguyên âm ngắn a như ây

+ Đứng trước ê khi chữ đó không có âm đầu như: yêu, yết, yếm

– Trường hợp bắt buộc viết i:

+ Sau các nguyên âm dài, trong đó các vần kết thúc bằng phụ âm mà không có âm đệm.

Ví dụ : kim, tim, tin, …

+ Trước a khi chữ đó không có âm đệm như: lía, kia, chia,…

– Trường hợp viết i/y đều đúng trong trường hợp có âm tiết mở (Khuyến khích học sinh viết i: Châu Mĩ/Châu Mỹ, Địa lí/Địa lý, Bác sĩ/Bác sỹ,…)

– Phải viết i hoặc y bắt buộc do phân biệt nghĩa.

Ví dụ: bàn tay – lỗ tai; ngày mai – may mắn; khoái chí – cái khoáy âm dương.

3. Quy tắc sử dụng âm đầu l/n; ch/tr; s/x; r/d/gi; c/k/q; g/gh/ng

Có thể nói, chính tả là một vấn đề có tính phổ quát đối với mọi thứ chữ viết ghi âm được dùng hiện nay trên thế giới. Ở mỗi thứ chữ viết ghi âm, bao giờ cũng có vấn đề nên viết thế nào cho đúng chính tả.

Tiếng Việt là ngôn ngữ thống nhất. Chính tả tiếng Việt về căn bản là một chính tả thống nhất. Tuy nhiên, do tiếng Việt có nhiều phương ngữ, thổ ngữ nên bên cạnh tính thống nhất là chủ đạo, nó cũng có những nét dị biệt khá rõ ràng trong cách phát âm, cách dùng từ giữa các vùng và tạo ra ấn tượng mạnh mẽ về sự tồn tại trong thực tế ba “giọng” nói khác nhau: “giọng miền Bắc, giọng miền Trung và giọng miền Nam”, tương ứng với ba vùng phương ngữ Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ.

Đặc điểm phát âm đặc trưng cho từng vùng khác với phát âm chuẩn chính là nguyên nhân dẫn đến những cách viết sai chính tả. Chẳng hạn, chính tả phân biệt tr và ch, s và x… nhưng phát âm của người Hà Nội không có sự phân biệt này. Vì vậy, khi viết, họ rất dễ nhầm lẫn các phụ âm này với nhau. Trong khi đó, phát âm của người miền Trung lại không phân biệt thanh hỏi/ thanh ngã nên khi nói cũng như khi viết, họ thường nhầm lẫn các thanh ấy v.v…

Trong thực tế, những lỗi chính tả thường gặp trong tiếng Việt khá đa dạng, phản ánh bức tranh phương ngữ của tiếng Việt trên các miền đất nước. Song, lỗi chính tả mà chúng ta hay mắc phải nhất là lỗi về phụ âm đầu. Để khắc phục lỗi này, chúng ta có nhiều cách. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi sẽ đề cập tới giải pháp khắc phục lỗi chính tả một cách đơn giản và tương đối hiệu quả, đó là dùng các mẹo chính tả.

Có thể coi, mẹo chính tả là những cách thức giản tiện, dễ nhớ do các nhà ngôn ngữ đặt ra. Mẹo chính tả giúp cho người viết dễ dàng tìm ra cách viết đúng một cách nhanh nhất mà không cần phải tra cứu từ điển.

Quy tắc viết s/x

Mẹo kết hợp âm đệm:

S không đi với các vần oa, oă, oe, uê, chỉ có X là đi với các vần này.

Ví dụ: Xoa tay, xoay xở, cây xoan, xoắn lại, tóc xoăn, xòa tay, xoen xoét, xuề xòa, xuyên qua… (Có các trường hợp ngoại lệ như soát trong rà soát, kiểm soát…, soạn trong soạn bài và những trường hợp điệp âm đầu trong từ láy: suýt soát, sột soạt, sờ soạng…)

Mẹo láy âm:

Chỉ có X mới láy âm với các âm đầu khác, còn S không có khả năng này.

Ví dụ như: Bờm xơm, bờm xờm, lao xao, lòa xòa, liêu xiêu, loăn xoăn, liểng xiểng, lộn xộn, lì xì, xoi mói, xích mích…

Mẹo từ vựng:

Tên các thức ăn và đồ dùng liên quan đến việc nấu nướng, ăn uống thường viết với X.

Ví dụ như: Xôi, xa lat, lạp xường, xúc xích, cái xanh, cái xoong, cái xiên nướng thịt…

Hầu hết các danh từ còn lại viết với S. Chặng hạn như: Ông sư, bà sãi, cây sen, cây sim, cây sồi, cây sung, cái sọt, sợi dây, sao, sương giá, sông, suối, sấm, sét… (Có các trường hợp ngoại lệ: Chiếc xe, cái xuồng, cây xoan, cây xoài, trạm xá, xương, cái túi sách hay cái xắc, cái xẻng, mùa xuân…)

Quy tắc viết l/n

Đây là lỗi khá phổ biến ở ngoại thành Hà Nội và đồng bằng Bắc Bộ nói chung. Sự lẫn lộn về mặt từ vựng đã khiến nhiều trường hợp trong khi nói và viết đã nhầm lẫn giữa L và N. Để khắc phục lỗi này, ta có các mẹo sau:

Mẹo về âm đệm:

L có thể đứng trước âm đệm, còn N thì không.

Theo thống kê, các vần có âm đệm trong tiếng Việt là oa, oă, uâ, oe, uê, uy. Vì vậy, chỉ cần nhớ câu sau “Ngoa ngoắt Tuấn khoe quê Thúy” để nhận biết vần có âm đệm là có thể áp dụng mẹo này.

Theo mẹo này, ta có thể yên tâm viết: lòa xòa, cái loa,loắt choắt, loăn quăn, luẩn quẩn, lí luận, quần loe, lóe sáng, luyến tiếc, luyện tập, lũy thừa, liên lụy…

Mẹo này có một ngoại lệ: noãn nghĩa là trứng chỉ dùng trong hai từ Hán Việt là noãn cầu và noãn sào.

Mẹo láy âm:

Khi ở vị trí thứ nhất trong một từ láy âm, L có thể láy âm với các âm đầu khác, còn N thì không có khả năng này.

Vậy, nếu gặp một tiếng không rõ viết với L hay N, ta hãy thử tạo một từ láy âm phụ âm đầu. Nếu tiếng đó có thể đứng trước thì nó được viết với L.

Sau đây là một số ví dụ về khả năng láy phụ âm đầu rất rộng rãi của L:

  • L láy với B: lắp bắp, lõm bõm, lạch bạch, lấn bấn, lu bù…
  • L láy với C (K, Q): la cà, lục cục, lấn cấn, lẩm cẩm, luẩn quẩn, loăng quăng…
  • L láy với D: lở dở, lim dim, lai dai…
  • L láy với Đ: lốm đốm, lục đục, lờ đờ, lao đao, long đong, lênh đênh…
  • L láy với H: lúi húi, loay hoay…
  • L láy với M: lơ mơ, liên miên, lễ mễ, lan man, lề mề…
  • L láy với X: lao xao, lăng xăng, loăn xoăn, lèo xèo…
  • L láy với T: le te, lon ton, lách tách, lung tung, lả tả…
  • L láy với R: lai rai, lâm râm, lè rè…
  • L láy với V: lởn vởn, lảng vảng, lặt vặt…
  • L láy với CH: loắt choắt, loạc choạc, lanh chanh, loạng choạng…
  • L láy với NH: lăng nhăng, lam nham, lải nhải, lảm nhảm…
  • L láy với KH: lom khom, lọm khọm, lụ khụ…
  • L láy với NG: lơ ngơ, loằng ngoằng, lêu nghêu…

Trong trường hợp tiếng đang xét ở vị trí thứ hai của từ láy âm, ta lại có một quy tắc khác: L láy âm với các âm khác ngoài GI và âm đầu zêzo mà không láy âm với các âm khác.

Chẳng hạn ta có:

  • L láy âm với B: bông lông, bảng lảng, bằng lăng…
  • L láy với CH: chói lọi, cheo leo, chìm lỉm…
  • L láy với KH: khóc lóc, khéo léo, khét lẹt…

Trong khi đó, N chỉ láy với GI và âm đầu zêzo: giãy nảy, gian nan, áy náy, ảo não…

Mẹo đồng nghĩa lài – nhài:

Khi gặp một tiếng chưa rõ viết với L hay N mà thấy đồng nghĩa với một tiếng khác viết với NH thì có thể kết luận tiếng chưa rõ ấy sẽ được viết với L.

Có thể minh họa mẹo này qua các ví dụ sau:

Lài – nhài, lầm – nhầm, lem – nhem, lời – nhời, loáng – nhoáng, lố lăng – nhố nhăng…

Quy tắc viết r/d/gi

Người miền Bắc không phân biệt R với D và GI trong phát âm nên thường lẫn lộn chúng trong chữ viết. Có thể dùng một số mẹo đơn giản sau để khắc phụ lỗi này.

Mẹo về âm đệm:

R và GI không kết hợp với âm đệm, chỉ có D mới kết hợp với các vần này. Chẳng hạn như: Dọa nạt, hậu duệ, kiểm duyệt, duy trì, duy nhất… (Trường hợp ngoại lệ roa trong cu – roa).

Mẹo láy âm “Co ro – bịn rịn”:

R láy âm với B và C (K) là những hình thức mà D không có. Ví dụ như: Bịn rịn, bủn rủn, bứt rứt, bối rối, co ro, cập rập…

Mẹo run rẩy – rừng rực:

Những từ láy điệp âm đầu R mô phỏng tiếng động tượng thanh, chỉ sự rung động ở nhiều cung bậc khác nhau, chỉ những sắc thái ánh sáng động, tươi, chói đều viết với R. Ví dụ như: Rì rào, rả rích, răng rắc, rầm rập, róc rách, rúc rích, ra rả, run rẩy, rung rinh, rón rén, rập rình, rạo rực, rần rật, rực rỡ, rừng rực, roi rói, rạng rỡ…

Quy tắc viết ch/tr

Mẹo thanh điệu trong từ Hán – Việt:

Những từ Hán – Việt mang dấu nặng và dấu huyền đều chỉ đi với TR mà không đi với CH.

– TR đi với dấu nặng: Trịnh trọng, trị giá, trụy lạc, trục lợi, trụ sở, vũ trụ, thổ trạch, trạm xá, hỗ trợ, triệu phú, trận mạc…

– TR đi với dấu huyền: Truyền thống, từ trường, trần thế, trù bị, trùng hợp, phong trào, lập trường, trầm tích, trừng trị…

Mẹo láy âm:

CH láy âm với các phụ âm khác ở vị trí đứng trước hoặc đứng sau, trái lại TR không láy âm đầu với các phụ âm khác, trừ bốn ngoại lệ đều là láy với L: Trọc lóc, trụi lũi, trót lọt, trẹt lét…

– CH đứng ở vị trí thứ nhất: Chơi bời, chèo bẻo, cheo leo, chìm lỉm, chi li, chói lọi, chểnh mảng, chào mào, chộn rộn, chình rình, choáng váng, chờn vờn, chon von, chơi vơi, chót vót, chênh vênh, chạng vạng…

– CH đứng ở vị trí thứ hai: Loắt choắt, lau chau, lanh chanh, lã chã, loạng choạng, lởm chởm, loai choai…

Mẹo đồng nghĩa tranh – giành:

Khi gặp một tiếng chưa rõ viết với CH hay TR mà lại đồng nghĩa với một từ viết với GI thì từ đó phải được viết với TR.

Ví dụ: Tranh – giành, nhà tranh – nhà gianh, trầu – giầu, trai – giai, trăng – giăng, tráo trở – giáo giở, trối trăng – giối giăng, trời- giời, tro – gio, trả – giả…

Mẹo trường từ vựng:

– Mẹo cha – chú: Những từ chỉ quan hệ thân thuộc trong gia đình thì viết với CH chứ không viết với TR: Cha, chú, chị, chồng, cháu, chắt, chút, chít…

– Mẹo chum – chạn: Đồ dung trong gia đình được viết với CH chứ không viết với TR: Cái chạn, cái chum, cái chai, cái chiếu, cái chăn, cái chõng, cái chày giã gạo, cái chổi, cái chuồng gà, cái chĩnh, cái chậu… (Có một ngoại lệ: Cái tráp).

– Mẹo kết hợp âm đệm: TR không đi với các vần oa, oă, oe. Chỉ có CH là đi với các vần này.

Tuy nhiên, đó không phải là cách duy nhất. Những mẹo nêu trên chỉ là một trong rất nhiều cách để giúp chúng ta viết đúng chính tả. Song, có thể nói, các mẹo chính tả đó có tác dụng như những đơn thuốc mà các nhà ngôn ngữ học đã pha chế cho chúng ta (bằng cách hệ thống hóa các hiểu biết thực tế và các tri thức ngữ học thành những công thức giản tiện), giúp cho việc chữa lỗi chính tả hàng ngày./.

Quy tắc viết c/k/q

+ Giúp cho học sinh nắm được các qui luật:

+ q luôn bao giờ cũng đi với âm đệm u để thành qu

+ c luôn đứng trước các nguyên âm: a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư.

+ k luôn đứng trước các nguyên âm: i, e, ê.

Quy tắc viết g/gh/ng

  • Gh, ngh: Viết trước các nguyên âm e, ê, i, iê (ia). Ví dụ: nghỉ ngơi, lắng nghe, suy nghĩ...
  • G, ng: Viết trước các nguyên âm khác còn lại. Ví dụ: ngày tháng, nghi ngờ, ngọt ngào…

4. Quy tắc đánh dấu thanh

- Dấu thanh thường đặt ở trên hoặc dưới âm chính (VD: loá mắt, khoẻ khoắn,…)

- Ở các nguyên âm có dấu mũ thì các dấu thanh được viết hơi cao lệch về bên phải của dấu mũ (VD: trồng nấm, biển khơi, cố gắng,…)

- Trong tiếng có nguyên âm đôi mà không có âm cuối vần thì dấu thanh được viết ở con chữ thứ nhất của nguyên âm đôi. (VD: cây mía, lựa chọn, múa hát,…)

- Trong tiếng có nguyên âm đôi mà có âm cuối vần thì dấu thanh được viết ở con chữ thứ hai của nguyên âm đôi (VD: ước muốn, chai rượu, sợi miến,…).

5. Một số giải pháp khắc phục lỗi chính tả

5.1. Về phía giáo viên

1. Các lỗi cơ bản

1.1 Kiểm tra phân loại trình độ chữ viết chính tả của các em lớp mình ngay từ đầu năm, nắm rõ về trình độ chữ viết của từng em, biết được những lỗi chính tả mà từng em hay mắc phải.

1.2 Linh hoạt trong phương pháp giảng dạy tạo hứng thú và lòng say mê luyện viết ở các em . Sử dụng phương tiện day học hợp lý đầy đủ khoa học

1.3 Đối với những em học sinh trung bình yếu và chậm, cần dành nhiều thời gian để hướng dẫn chỉ bảo những em học sinh này. Cần động viên khuyến khích kịp thời, tạo điều kiện cho các em tham gia học tập tích cực.

1.4 Điều đặc biệt lưu ý là trong quá trình giảng dạy, giáo viên luôn phải là người đọc đúng, viết chuẩn.Trong quá trình đọc cho học sinh viết bài cần đọc to, rõ ràng, chính xác, đọc lại nhiều lần ở những từ, tiếng khó.

1.5 Trong quá trình học sinh viết bài giáo viên phải luôn luôn theo dõi, uốn nắn học sinh ngay, đặc biệt chú ý những lỗi sai cơ bản của địa phương như: b/v; t/th; l/đ, và một số lỗi chính tả khác học sinh hay viết sai như: ch/tr; r/d/gi; s/x;...

GV phải là người nắm được những lỗi sai cơ bản của từng em hay mẵc phải, sau đó ghi tổng hợp lại những lỗi này và hướng dẫn học sinh luyện viết đúng chính tả trong các giờ chính tả- trong các buổi học thêm - và viết mẫu cho các em, yêu cầu các em về nhầ tập viết lại những từ đó nhiều lần để ghi nhớ.

1.6 Việc chấm chữa bài phải được tiến hành thường xuyên, liên tục trong giờ chính tả và sau mỗi lần chấm giáo viên phải tổng hợp lại những lỗi mà học sinh vừa viết sai để hướng dẫn học sinh phát âm lại, đồng thời cho học sinh luyện viết lại ngay trên bảng con hoặc bảng lớp để các em sửa sai và ghi nhớ luôn.

1.7 Giao bài tập chính tả, bài luyện viết về nhà.Yêu cầu mỗi em có một quyển vở luyện viết riêng ở nhà, giáo viên giao bài luyện viết về nhà và kiểm tra học sinh thường xuyên. Sau mỗi lần đánh giá cần tuyên dương sự tiến bộ của học sinh.

1.8 Phương pháp phân tích so sánh.

Trong quá trình dạy với những tiếng khó học sinh thường hay viết sai giáo viên nên phân tích cấu tạo riêng, rồi có thể so sánh với những tiếng dể lẫn lộn, nhấn mạnh những đặc điểm khác nhau để học sinh ghi nhớ.

Ví dụ: HS hay nhầm: muốn/muống

GV có thể yêu cầu học sinh phân tích cấu tạo hai tiếng này: Hai tiếng này khác nhau ở âm cuối n/ng

+ Muống = m + uông + thanh sắc

+ Muốn = m + uôn + thanh sắc

1.9 Biện pháp giải nghĩa từ

Việc giải nghĩa từ thường được thực hiện trong các tiết tập đọc, tập làm văn, luyện từ và câu, chính tả

Giải nghĩa từ nhằm giúp các em hiểu rõ, ghi nhớ và khắc sâu từ đó.

Có nhiều cách giải nghĩa từ : Cho học sinh đọc chú giải, tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa hoặc sử dụng vật thật mô hình thật hay tranh ảnh.

Ví dụ : Khi các em hay mắc lỗi sai khi viết các âm chính như : ắt/ắc; an/ang; ết/ếch...trong các từ: giặt quần áo; cây bàng; chênh chếnh...thì GV có thể giải nghĩa rõ các từ này để học sinh ghi nhớ và không viết sai thành: giặc quần áo; cây bàn; chênh chết...

2. Về lỗi viết hoa

- Luôn nhắc học sinh phải ghi nhớ viết hoa các tên riêng tên người, tên đất, sông núi, tên cơ quan tổ chức.

- Cần hướng dẫn học sinh viết hoc cụ thể cho từng loại tên riêng; Như viết hoa tên người Việt; địa danh Việt; dân tộc thiểu số; tên người; tên nước ngoài.

Ví dụ: Tên riêng Đinh Tuấn Dũng

Tên sông núi: sông Lam, sông Hồng...

Tên cơ quan: Phòng Giáo Dục Than Uyên...

Tên người nước ngoài: I- ta- li-a; Pa-xcan...

- ở lớp tôi đầu năm một số em học sinh còn có thói quen không viết hoa tên riêng của mình ở phần tên đệm; tôi đã phải bắt các em tập viết nhiều lần tên mình để các em tạo thành thói quen và ghi nhớ.

2.1 Giúp học sinh ghi nhớ mẹo luật chính tả

Là những hiện tượng chính tả mang tính quy luật phổ biến

Ví dụ: - Về âm đầu: gh/ ngh/ k chỉ kết hợp với các nguyên âm: i/e/ê/ie/iê.

- Âm đầu c/k: Nhấn mạnh để HS ghi nhớ âm c không bao giờ ghép với âm i; ê đứng đằng sau nó. Nên không bao giờ được viết: ciếm, ciến, cìm, cết ( trái)...

- Để phân biệt ch/tr ta có thể chỉ cho học sinh một số mẹo như: Đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và tên con vật nhỏ đều bắt đầu bằng ch: chăn, chiếu, chảo, chổi, chén, chày. Con vật thì có: Chuột, chó, chào mào, châu chấu, chìa vôi, chèo bẻo...

2.2 Điều rất quan trọng mà GV cần lưu ý nữa đó là cần phải sử dụng phương pháp nêu gương thường xuyên trong quá trình giảng dạy. Cụ thể đó là: Sau khi chấm, chữa các bài chính tả cần phải nêu gương những em được điểm giỏi để những em còn bị điểm kém lấy đó làm gương học tập; và khi những em học sinh yếu này có tiến bộ thì GV cũng cần phải tuyên dương động viên khuyến khích các em ngay.

2.3 Ngoài ra GV có thể giáo dục để học sinh thấy được tầm quan trọng của việc viết đúng, đẹp thông qua các môn học khác: Ví dụ Khi chấm điểm môn Toán của hai học sinh, một em làm bài đúng, trình bày sạch đẹp được điểm 10; còn em kia làm đúng nhưng trình bày còn bẩn, lại viết sai lỗi chính tả GV có thể trừ điểm trình bày của các em từ 1-2 điểm để các em thấy được hậu qủa của việc viết xấu, sai và có ý thức trình bày đúng, đẹp hơn ở lần sau.

5.2. Về phía học sinh

- Để tạo hứng thú cho học sinh đối với môn chính tả GVCN có thể hướng dẫn các em bọc, dán nhãn vở sao cho đẹp, cũng nhằm mục đích nâng cao ý thức giữ gìn sách vở của các em.

- Điều đặc biệt quan trọng cần ở các em trong việc rèn luyện chữ viết đó là các em phải thực sự kiên trì, quyết tâm, các em phải thấy được tầm quan trọng của việc viết đúng chính tả.

- Ngoài ra các em cần học thuộc lòng các quy tắc chính tả cơ bản mà thầy cô giáo đã hướng dẫn.

- Tạo thói quen học tập, thói quen luyện viết ở nhà, làm các bài tập chính tả, các bài luyện viết thầy cô giao.

- Luôn luôn có ý thức khắc phục các lỗi sai mà thầy cô giáo đã chỉ ra bằng cách luyện viết thật nhiều lần từ đó để ghi nhớ.

- Bên cạnh đó những em còn viết xấu, sai chính tả nhiều cần phải học hỏi những bạn thường xuyên viết chữ đúng, đẹp trong lớp bằng cách mượn vở để tham khảo hoặc luyện viết theo.

Trên đây là Mẹo khắc phục lỗi chính tả tiếng Việt. Bài viết này không chỉ giúp thầy cô dạy cho học sinh mà ai cũng nên biết ít mẹo để tránh mắc lỗi trong khi làm việc hay cả trong cuộc sống hằng ngày.

Đánh giá bài viết
24 9.223
Sắp xếp theo

Mẹo dạy học hay

Xem thêm