Phân tích đoạn Dù em nên vợ nên chồng đến hết Trao duyên
Ngữ văn lớp 10: Phân tích đoạn Dù em nên vợ nên chồng đến hết Trao duyên
VnDoc xin giới thiệu tới bạn đọc tài liệu Phân tích đoạn Dù em nên vợ nên chồng đến hết Trao duyên, với nội dung được cập nhật chi tiết và ngắn gọn sẽ giúp các bạn học sinh học tập hiệu quả hơn môn Ngữ văn. Mời thầy cô cùng các bạn học sinh tham khảo.
Phân tích đoạn thơ Trao duyên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
Cảm nhận về đoạn thơ Trao duyên
Cảm nghĩ về đoạn thơ Trao duyên
Học tốt Ngữ văn 10: Phân tích đoạn Dù em nên vợ nên chồng đến hết Trao duyên
Kiều nói với em bằng tiếng nói khác. Ngôn ngữ của nàng lúc này không còn cái mạch lạc, khúc chiết của lí trí nữa mà thuần là của tình cảm và có cả ảo giác. Càng nói, Kiều càng xót xa cho duyên phận bất hanh của mình. Nàng thấy rõ là mình mệnh bạc, tình mình mất đi và tất cả đã thành quá khứ.
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc, ắt lòng chẳng quên!
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.
Đã động đến tương lai chắc chắn là mù mịt, Kiều không còn giữ được sự yên lòng trong phút giây trước đó. Như người lội nước hụt chân rớt xuống vực sâu. Kiều chới với không biết bám víu vào đâu. Nàng tưởng tượng đến lúc Thúy Vân và Kim Trọng nên vợ nên chồng, còn mình chỉ là một mảnh hồn oan vật vờ theo ngọn gió hiu hiu trên ngọn cỏ lá cây, nhưng vẫn còn vướng chặt với tình riêng, vấn vương với tiếng tơ trên phím đàn và mảnh hương nguyền ngày xưa và vẫn còn mang nặng lời thề, lời nguyền nát thân bồ liễu để đền nghì trúc mai cho người. Nghĩ đến đây, Thúy Kiều tha thiết dặn em hãy rưới xin giọt nước cho người thác oan.
Tất cả những điều ấy có mâu thuẫn với nhau không?
Trên kia, Thúy Kiều đã chẳng nói là nếu được Thúy Vân giúp cho thì dù thịt nát xương mòn, nàng vẫn ngậm cười chín suối là gì? Nghĩa là trả được món nợ tình, nàng sẽ hết giày vò vì đã lo cho người yêu chu tất. Thế mà chì sau giây lát tưởng tượng, nàng đã trở lại với nỗi xót xa, tuyệt vọng còn nặng nề hơn trước. Chút yên lòng đã bay đâu mất.
Đúng là có mâu thuẫn nhưng không phải trước sau hoàn toàn chỉ có một vấn đề. Trước, nàng đau khổ vì người. Nay, lo cho người đã xong, nàng mới nghĩ đến mình và thấy mình mệnh bạc, thấy mình sẽ mất tất cả. Nàng chới với trước tương lai mù mịt, oan nghiệt. Nàng không còn ở trạng thái tỉnh táo bình thường mà như nửa mê nửa tình, nửa phần là người sống, nửa phần đã là hồn ma. Tuy vẫn đối thoại với Vân nhưng lời Kiều đã phảng phất giống như lời nói từ cõi bên kia vọng về.
Khi đã trao duyên cho Thúy Vân, tức là đã quyết định dứt tình với Kim Trọng, Kiều thấy hạnh phúc của mình đến đây là chấm dứt nên lời lẽ của nàng chuyển hẳn sang giọng thương thân. Nghĩ đến tương lai, Kiều tưởng tượng ra cái chết và cảnh oan hồn mình sẽ tìm về theo ngọn gió. Giọng thơ cũng bất chợt thay đổi. Hình ảnh, âm điệu chập chờn, hư ảo, thời điểm không xác định (mai sau, bao giờ), không khí linh thiêng (đốt lò hương, so tơ phím hình ảnh phất phơ, ma mị (ngọn cỏ lá cây - hiu hiu gió)... tất cả đều nói lên rằng Kiều đang sống trong tâm trạng khổ đau và càng khổ đau gấp bội.
Nghĩ đến tương lai thê thảm, Kiều đau đớn tột cùng. Nàng quên hết xung quanh, chỉ còn nức nở khóc cho mình, khóc cho mối tình đầu đẹp đẽ là thế mà sao ngắn ngủi:
Bây giờ trâm gãy, gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Đó là tiếng khóc thương cho số phận bất hạnh, là tiếng kêu đứt ruột cho mối tình đầu dang dở của Thúy Kiều.
Từ chỗ nói với em, Kiều chuyển sang nói với mình, nói với người yêu, từ giọng đau đớn chuyển thành tiếng khóc than. Điều ấy thể hiện sự chuyển biến của tâm trạng Thúy Kiều mà nỗi đau cứ tăng lên mãi, đau đớn cho phận bạc như vôi, càng đau đớn do phận bạc nên buộc phải phụ tình người yêu:
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Theo đà nửa tình nửa mê, đang nói chuyện với Vân, Kiều bỗng nói với mình, nói với Kim Trọng trong tâm tưởng về sự dở dang duyên phận. Đúng là cảnh trâm gãy bình tan, ta duyên ngắn ngủi. Đúng là phận bạc như vôi và nàng đành phải chấp nhận cảnh nước chảy hoa trôi lỡ làng mà trái tim như tan ra từng mảnh. Nàng đành chịu tội với chàng Kim, và gửi vọng theo chàng muôn nghìn cái lạy. Đau đớn, xót xa đến mức Kiều phải thốt lên:
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Tiếng nấc nghẹn ngào ấy khẳng định một lần nữa mặc cảm có tội của Kiều Nghĩa là nàng phủ nhận tất cả những gì đã nói với Vân, những gì đã lo cho chàng Kim, phủ nhận nỗi yên tâm của mình trong khoảng khắc trên kia. Nghĩa là nàng tuy có đau thêm cho mình nhưng vẫn cứ một mực đau cho người, vì người. Nỗi đau khống giảm mà tăng lên gấp bội. Nàng gọi tên chàng Kim như trong cơn mê sảng. Nỗi dau đã lên đến tột đỉnh, quá sức chịu đựng của thể xác:
Cạn lời hồn ngất máu say
Một hơi lặng ngắt, đôi tay giá đồng.
Đoạn thơ trên miêu tả một cơn khủng hoảng, một trận sóng gió tơi bời trong lòng người con gái tội nghiệp Thúy Kiều. Nàng đau khổ, quằn quại đâu phải vì bản thần mình? Tất cả trái tim yêu thương nàng dành cho người yêu. Tấm lòng vị tha ấy cao đẹp biết chừng nào! Thương người yêu đằm thắm sâu xa, mong muốn cho người yêu được hạnh phúc, còn mình thì chấp nhận thiệt thòi, cam chịu hi sinh, tấm lòng ấy đă gây xúc động thật sự trong lòng người đọc. Đó cũng là nét sáng ngời trong phẩm giá của Thúy Kiều, khiến cho hình tượng khả ái của nàng sống mãi với thời gian.
---------------------------------------------
Trên đây VnDoc.com đã giới thiệu tới bạn đọc tài liệu: Phân tích đoạn Dù em nên vợ nên chồng đến hết Trao duyên. Để có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các bạn học sinh tài liệu Ngữ văn lớp 10, Học tốt Ngữ Văn lớp 10,Thi thpt Quốc gia môn Toán, Thi thpt Quốc gia môn Văn, Thi thpt Quốc gia môn Lịch sử mà VnDoc tổng hợp và đăng tải.