Top 7 Bài Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài Cảnh ngày hè Chọn lọc

Văn mẫu lớp 10: Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài Cảnh ngày hè vừa được VnDoc.com tổng hợp và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo. Bài viết được tổng hợp những bài văn mẫu lớp 10 hay. Bài phân tích cảnh ngày hè này sẽ giúp các em tranh lạc đề khi viết bài, biết cách phân tích bài thơ Cảnh ngày hè để thấy được vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết và tải về bài viết dưới đây nhé.

Ngoài ra, VnDoc.com đã thành lập group chia sẻ tài liệu học tập THPT miễn phí trên Facebook: Tài liệu học tập lớp 10. Mời các bạn học sinh tham gia nhóm, để có thể nhận được những tài liệu mới nhất.

Dàn ý vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi

I. Mở bài

- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Trãi và bài thơ Cảnh ngày hè: Nguyễn Trãi là người văn võ toàn tài, có tâm trong sáng. Cảnh ngày hè là bài thơ số 43 trong chùm “bảo kính cảnh giới” của Quốc âm thi tập.

- Khái quát vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi qua bài thơ: Yêu thiên nhiên tha thiết, gắn bó với cuộc sống của người dân quê, yêu nước thương dân luôn suy tư về hạnh phúc của nhân dân.

II. Thân bài

1. Nguyễn Trãi - một tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết

- Bức tranh thiên nhiên cảnh ngày hè được Nguyễn Trãi vẽ lên rất sinh động:

Cảnh vật gần gũi, quen thuộc của mùa hè: Lá hòe, hoa thạch lựu, hoa sen.

Cảnh vật rực rỡ, nổi bật, sinh động: Thông qua việc dùng những gam màu nóng để miêu tả cảnh vật lục, đỏ, hồng.

Cảnh vật căng tràn sức sống, sự sinh sôi cuộn trào toát ra từ trong lòng cảnh vật: Sử dụng các động từ mạnh “phun”, đùn đùn” để diễn tả những trạng thái, sức sống tràn trề của cảnh vật.

Cảnh vật tinh tế, tao nhã với hương thơm: Mùi hương nồng nàn của hoa sen cuối mùa.

=> Bức tranh thiên nhiên cuối mùa hạ nhưng không tàn úa, héo nát mà ngược lại vô cùng rực rỡ, sinh động, giàu sức sống.

- Tâm hồn Nguyễn Trãi:

Phải vô cùng yêu và say mê cảnh sắc thiên nhiên nên Nguyễn Trãi mới có những phát hiện tinh tế, tuyệt vời đến thế.

Nguyễn Trãi có tâm hồn nghệ sĩ tinh tế, nhạy cảm.

2. Nguyễn Trãi - một tâm hồn luôn tha thiết với cuộc sống làng quê

- Bức tranh cuộc sống sôi động, phong phú:

Hình ảnh cuộc sống quen thuộc: chợ cá, làng ngư phủ, lầu tịch dương.

Âm thanh cuộc sống: Tiếng lao xao của chợ cá, tiếng ve kêu dắng dỏi. Đó là những âm thanh của một cuộc sống nhộn nhịp, vui tươi, sôi nổi, tấp nập.

Cách sử dụng từ láy tượng thanh “lao xao”, “dắng dỏi” kết hợp với phép đảo trật tự cú pháp đã nhấn mạnh âm thanh sôi động của cuộc sống.

- Tâm hồn Nguyễn Trãi:

Nguyễn Trãi yêu cảnh sắc của làng quê, yêu cuộc sống nơi thôn quê.

Ông quan tâm đến cuộc sống của người dân quê lam lũ thì mới có thể để tâm, lắng nghe được những âm thanh đó.

3. Nguyễn Trãi - một tâm hồn nặng lòng với dân với nước

- Mở đầu bài thơ, Nguyễn Trãi thể hiện triết lí sống “nhàn”:

Rồi: rỗi rãi, thảnh thơi.

“Hóng mát thuở ngày trường”: hoạt động thư thái, tự do tự tại.

=> Tâm hồn thảnh thơ, nhàn tản, vô lo vô nghĩ.

- Kết thúc bài thơ, Nguyễn Trãi thể hiện tâm sự của mình:

Điển tích điển cố “Ngu cầm”: Gợi về triều đại vua Nghiêu Thuấn - thời kì nhân dân được hưởng ấm no, thái bình. Niềm vui sướng, hạnh phúc của Nguyễn Trãi khi được sống ở quê hương với những người dân thôn dã. Thể hiện ước muốn có được cuộc sống no đủ, hạnh phúc trên quê hương ông. Đó là khát khao của một người con luôn suy tư, trăn trở, một lòng hướng về quê hương.

Ước mơ của Nguyễn Trãi: “Dân giàu đủ khắp đòi phương”: Không chỉ khát khao về cuộc sống hạnh phúc, no đủ trên quê hương ông, Nguyễn Trãi còn mong muốn cuộc sống ấy có ở khắp nơi trên cả nước. Đó là tấm lòng vì nước thương dân, lo nghĩ cho vận mệnh dân tộc.

=> Dù ở những phút thanh nhàn hiếm có của cuộc đời nhưng Nguyễn Trãi vẫn nặng lòng với dân với nước, nhàn thân chứ không nhàn tâm.

4. Nghệ thuật

- Sử dụng lớp từ Hán Việt kết hợp với thuần Việt.

- Các biện pháp nghệ thuật: sử dụng từ láy, liệt kê, phép đảo trật tự cú pháp.

- Sử dụng điển tích điển cố.

- Cách tả tự nhiên, kết hợp giữa gợi và chi tiết.

III. Kết bài

- Khái quát những vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài thơ.

- Liên hệ: So sánh với những thi nhân cùng đồng điệu tâm hồn với Nguyễn Trãi tiêu biểu nhất là Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài thơ “Nhàn”.

Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi mẫu 1

Nguyễn Trãi (1380 - 1442), vị anh hùng dân tộc, “tấm lòng sáng tựa sao Khuê” (lời vua Lê Thánh Tông) dù trong bất kì hoàn cảnh nào cũng không nguôi tâm nguyện hướng về dân về nước. Ngay cả khi bị nghi kỵ, phải lui về quê ngoại Côn Sơn, ông vần bộc bạch nỗi lòng tha thiết cháy bỏng trong cuộc sống tưởng như chỉ biết vui vầy cùng mây núi cỏ cây. Nỗi lòng ấy bộc lộ rõ nét trong chùm thơ 61 bài “Bảo kính cảnh giới”. Đặc biệt, bài thơ số 43 chan chứa bao khát vọng hướng đến cuộc đời, nhân dân.

“Bảo kính cảnh giới” lấy những bài học từ thiên nhiên vĩ đại để nhà thơ soi chiếu lòng mình. Ta không chỉ gặp tấm lòng yêu thiên nhiên của một nghệ sĩ lớn mà còn thấu hiểu tâm sự của người anh hùng luôn canh cánh bên lòng nỗi niềm “ưu quốc ái dân”. Suy ngẫm và cảm xúc của nhà thơ giúp chúng ta hình dung một nhân cách lớn.

Bài thơ bắt đầu bằng hoàn cảnh hưởng nhàn bất đắc dĩ:

“Rồi hóng mát thuở ngày trường”

Nhịp thơ thật lạ lùng như kéo dài cảm giác của một ngày “ăn không ngồi rồi”: tạo điểm nhấn ở một nhịp đầu tiên, sau đó là năm chữ nối thành một hơi thơ như tiếng thở dài. Rò ràng nhà thơ nói về việc hóng mát mà không hề đem lại cảm nhận nhàn tản thật sự. Hai chừ ngày trường lại hiện ra bao nỗi chán chường của một ngày dài vô vị. Hưởng nhàn mà không hề thư thái. Có thể đó sẽ là khởi nguồn cho bao nỗi bực dọc trút ra của con người bất đắc chí. Thế nhưng, tất cả tâm tư đã được nén lại khi nhà thơ đối diện với một thiên nhiên mành liệt đầy sức sống:

“Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

Ba câu thơ đem lại một bức tranh thiên nhiên nhiều màu sắc, cùng những hình ảnh đặc trưng của không gian mùa hè. Trước hết, đó là hoè buông sắc lục như một chiếc lọng khổng lồ bao trùm lên cảnh vật, tạo cảm giác về một không gian xanh. Cái nhìn thiên nhiên của Nguyễn Trãi luôn có sức bao quát, vừa gợi sức sống của không gian trong động từ “đùn đùn” vừa gợi cảm giác phóng khoáng trong một chữ “rợp”. Tầm nhìn trải từ gần ra xa, theo quy luật đăng đối ở hai câu tả thực, khéo léo đan cài sắc đỏ của thạch lựu trước hiên nhà cùng sắc hồng của ao sen. Câu trên tả sắc, câu dưới gợi hương. Thiên nhiên ấy cũng chứa chan bao cảm xúc, lúc dịu nhẹ lan tỏa lúc bừng bừng phun trào. Để rồi cuối cùng đọng lại cảm giác man mác tiếc nhớ làn hương thanh thoát của sen hồng lúc cuối hè. Phải là một người có tâm hồn tinh tế mới cùng một lúc diễn tả được nhiều cảm giác trong chỉ vài ba câu thơ cô đọng. Giữa khung cảnh thiên nhiên ấy, nhà thơ dường như cũng nguôi ngoai bao nỗi niềm bực dọc, để lòng mình hòa cùng thiên nhiên đầy sức sống.

Không chỉ nhìn bằng mắt mà Nguyễn Trãi còn trải lòng lắng nghe những thanh âm muôn vẻ của thiên nhiên:

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

Có một sự chuyển đổi cảm xúc trong cách lắng nghe những âm thanh của cuộc sống. Giờ đây, những thanh âm lại được cảm nhận từ xa đến gần, từ “lao xao” đến “dắng dỏi”. Thiên nhiên không hề tĩnh lặng u trầm trong thời điểm chiều buông mà trái lại rất sôi động và gần gũi với tấm lòng thiết tha yêu sự sống của nhà thơ. “Lao xao” là âm thanh gợi rõ cuộc sống thanh bình của những người dân chài, cảnh mua bán tấp nập mà không quá ồn ào để khuấy động không gian hương nhàn của nhà thơ. Dường như Nguyễn Trãi đã chủ động hướng lòng mình về với chợ cá, làng ngư phú để thấy bản thân không cách xa với đời thường. Âm vang cuộc sống thực ấy tạo thành mối dây liên hệ giữa nhà thơ với nhân dân, mang lại niềm vui xôn xao trong một buổi chiều dề tạo cho nhà thơ nỗi buồn. Cấu trúc đăng đồi đã tạo nên sự hòa điệu giữa con người với thiên nhiên trong sự cân xứng làng ngư phủ - bóng tịch dương mang đậm sắc thái trang trọng cổ điển. Nghệ thuật tương phản tạo nên một cảm hứng hết sức mới mẻ trong thơ Nguyễn Trãi khi ấn tượng ám ảnh nhà thơ không phải ánh tịch dương ảm đạm mà lại là âm thanh dắng dỏi cầm ve. Sự liên tưởng bất ngờ và độc đáo này đã chứng tỏ rõ phẩm chất nghệ sĩ của Nguyễn Trãi. Tiếng ve đặc trưng của mùa hè đến cùng Nguyễn Trãi lại như một bản đàn mạnh mẽ, rạo rực hối hả nhịp sống căng tràn của thiên nhiên. Bức tranh thiên nhiên sống động ấy đã hàm chứa một nội dung thông điệp thẩm mỹ đánh động tâm tư của nhà thơ. Bản thân ông có muốn lánh đời thoát tục, ngắm ánh tịch dương, giam mình trong lầu kín cũng không thể không nghe, không thấy bao vẻ đẹp thiên nhiên tươi tắn rộn rã xung quanh. Thiên nhiên ấy xôn xao hay chính tấm lòng của nhà thơ cũng đang náo nức muốn hòa cùng niềm vui sự sống? Cuộc sống của ông không phải của một ẩn sĩ lánh đời mà chính là phản chiếu của tâm hồn yêu đời thiết tha, vần đón nhận thưởng thức được niềm vui cuộc sống thanh bình để quên đi nỗi riêng tư sầu muộn.

Thiên nhiên đã đem lại một bài học lớn. Lay thức khát vọng mãnh liệt muốn trở lại với đời của nhà thơ. Thiên nhiên ấy đã thổi bùng khát vọng của người anh hùng đầu bạc mà vẫn vẹn tấm lòng son:

“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”

Còn gì giản dị, thanh cao, súc tích hơn những lời thơ mộc mạc chân thành ấy! Giữa thiên nhiên tuyệt đẹp, Nguyễn Trãi không hề mong muốn hưởng thụ thú nhàn tản cho riêng mình. Ông không phải con người chỉ chăm chăm giữ lấy sự trong sạch cho riêng mình theo triết lí nhà Nho “độc thiện kỳ thân”. Ở sâu thẳm tâm hồn ông vẫn là nồi niềm “ưu quốc ái dân”, là khát khao hành động của một con người trọn đời vì lợi ích của nhân dân. Tinh thần Nguyễn Trãi vẫn không hề nhụt giảm, vẫn còn nung nấu hoài bão cống hiến cho đất nước thái bình thịnh trị như thời Đường Ngu - xã hội thịnh trị lý tưởng theo quan niệm nho gia. Giản dị thay và cũng cao cả thay sáu chữ đúc kết tấm lòng Nguyễn Trãi hướng về nhân dân, Quả thật, riêng ông trong hoàn cảnh bấy giờ có nhiều nỗi buồn, nhưng bản chất tâm hồn Nguyễn Trãi luôn “trong sáng và đầy sức sống” (lời cố thủ tướng Phạm Văn Đồng). Tâm hồn ấy chỉ cháy bỏng niềm mong ước đem lại cho nhân dân cuộc sống giàu đủ. Niềm mong mỏi nhân dân “khắp nơi không một tiếng hờn giận oán sầu” chính là minh chứng cho nhân cách trong sáng tuyệt vời của Nguyễn Trãi.

“Bảo kính cảnh giới” - bài học lớn từ thiên nhiên giúp Nguyễn Trãi răn mình, chứa đựng bao tình cảm yêu đời yêu sự sống. Ta nhận ra một tâm hồn nghệ sĩ - chiến sĩ của Ức Trai tiên sinh. Tấm lòng “sáng tựa sao Khuê” ấy vẫn tỏa sáng đến tận hôm nay.

Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi mẫu 2

Nguyễn Trãi là một trong những nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam. Một trong những tác phẩm nổi tiếng là “Quốc âm thi tập”. Nổi bật trong tập thơ này là chùm thơ “Bảo kính cảnh giới” với bài thơ số 43 - Cảnh ngày hè đã thể hiện được vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ.

Trước hết, Nguyễn Trãi là một nhà thơ có tình yêu thiên nhiên tha thiết. Bức tranh thiên nhiên cảnh ngày hè được ông khắc họa thật sinh động. Câu thơ mở đầu đọc lên nghe thật êm đềm gợi một cuộc sống yên bình, thư thái: “Rồi hóng mát thuở ngày trường”. Từ “rồi” ở đây có nghĩa là rảnh rỗi, nhàn hạ. Rảnh rỗi trong suốt “ngày trường” có nghĩa là ngày dài, để ngồi “hóng mát” - một hoạt động an nhàn, tĩnh tại, thư thái. Từ đó ta thấy được tâm thế an nhàn, thảnh thơi của tác giả. Nguyễn Trãi đã một đời bận rộn, tận tâm vì đất nước, chính lúc này là những giây phút rảnh rỗi hiếm hoi của cuộc đời.

Nhờ có vậy, ông được gần gũi với thiên nhiên hơn. Bức tranh cảnh ngày hè nổi lên với bức tranh thiên nhiên ngày hè rực rỡ:

“Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

Nguyễn Trãi cảm thấy say mê, thích thú trước vẻ đẹp của thiên nhiên ngày hè. Cây hoa hòe có sức sống mãnh liệt giờ tán là xanh che phủ cả khoảng không gian. Cùng với sắc đỏ của cây thạch lựu tô đậm thêm cho khung cảnh. Ao sen tỏa hương ngan ngát bay theo làn gió. Cảnh thiên nhiên của mùa hè hiện lên đầy tươi tắn, tràn đầy sức sống, tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên của của Nguyễn Trãi. Phải là người có tấm lòng yêu thiên nhiên sâu sắc thì Nguyễn Trãi mới có những phát hiện tinh tế, tuyệt vời đến vậy.

Không chỉ có bức tranh thiên nhiên, nhà thơ còn khắc họa vẻ đẹp của bức tranh cuộc sống con người:

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

Việc sử dụng nhiều từ Hán Việt như “ngư phủ, cầm ve, tịch dương” kết hợp nhuần nhuyễn với những từ thuần Việt như “lao xao”, dắng dỏi” tạo nên vẻ đẹp vừa mộc mạc, bình dị, vừa trang trọng tao nhã. Cuộc sống của con người không chỉ được cảm nhận bằng thị giác mà còn được cảm nhận bằng thính giác. Đó là âm thanh từ làng chợ cá, của tiếng ve râm ran mỗi độ hè về. Những âm thanh đặc trưng của ngày hè nơi làng quê khiến ngày hè trở nên vui vẻ, nhộn nhịp. Tác giả đã rất tinh tế khi sử dụng các động từ: “rợp, đùn, tiễn đưa” khiến cho người đọc thấy được cảm giác sức sống trỗi dậy của cảnh vật mùa hè. Thế mới thấy được một tâm hồn luôn tha thiết với cuộc sống làng quê của Nguyễn Trãi.

Như vậy, cả thiên nhiên và con người đều hiện lên tràn đầy sức sống, tâm hồn lạc quan, yêu đời, tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên, tha thiết với cuộc sống quê nhà của Nguyễn Trãi. Nhưng không dừng lại ở đó, vẻ đẹp trong tâm hồn của nhà thơ còn được thể hiện qua tấm lòng sâu nặng với nhân dân, đất nước. Hai câu thơ cuối cùng bộc lộ lòng yêu nước thương dân của nhà thơ. Tuy cáo quan về ở ẩn đấy, nhưng tấm lòng của Nguyễn Trãi chưa lúc nào thôi lo lắng cho nhân dân, đất nước:

“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương”

Nhà thơ đã mượn hình ảnh “Ngu cầm” là cây đàn của vua Nghiêu vua Thuấn. Đó là một điển cố quen thuộc của Trung Hoa kể về thời đại Nghiêu Thuấn - những ông vua nhân từ đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Hằng ngày vua Nghiêu Thuấn thường đem đàn ra gảy khúc nam phong ngợi ca cảnh thái bình trên xứ sở này. Qua đó, nhà thơ bộc lộ mong muốn có được cây đàn đó đến với cuộc sống của nhân dân, để ca ngợi khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp và cuộc sống vui tươi trên quê hương ông, niềm vui sướng, hạnh phúc của tác giả khi được sống hòa hợp cùng thôn quê. Bài thơ kết lại với ước mơ được thấy cảnh thanh bình, ấm no trên đất nước của Nguyễn Trãi.

Tóm lại, bài thơ “Cảnh ngày hè” thực sự đã cho người đọc cảm nhận về một tâm hồn thanh cao của Nguyễn Trãi.

Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi mẫu 3

>>> Mời các bạn tham khảo: Dàn ý Vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi qua bài Cảnh ngày hè

Nguyễn Trãi nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam. Ông để lại sự nghiệp văn học đồ sộ, phong phú. Qua hệ thống tác phẩm phong phú người đọc đã phần nào cảm nhận được vẻ đẹp trong tâm hồn nhân cách của Nguyễn Trãi. Vẻ đẹp tâm hồn đó được thể hiện trong nhiều bài thơ, và ta không thể không nhắc đến bài Cảnh ngày hè. Tác phẩm đã cho thấy tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống sâu sắc và hơn hết là tấm lòng lo cho dân, cho nước ngay cả trong lúc rảnh rỗi cũng không thôi cháy bỏng.

Trước hết, Nguyễn Trãi là người có lòng yêu thiên nhiên sâu sắc, vẻ đẹp tâm hồn đó ẩn sau bức tranh thiên nhiên mùa hè rực rỡ màu sắc và ngập tràn sức sống. Tình yêu được thể hiện ngay trong câu thơ mở đầu:

Rồi hóng mát thuở ngày trường.

Nguyễn Trãi hiện lên trong tâm thế thảnh thơi, thư thái trước tiên nhiên. Đây là một trong những ngày nhàn rỗi hiếm hoi trong suốt cả cuộc đời bộn bề công việc của ông. Chính trong khoảnh khắc nhàn tản ấy ông dành cho thiên nhiên, hòa mình vào vạn vật. Qua đó thể hiện tình yêu thiên nhiên sâu sắc của ông.

Không chỉ vậy, tình yêu thiên nhiên còn thể hiện ở cách cảm nhận thiên nhiên, cuộc sống hết sức tinh tế. Năm câu thơ tiếp, Nguyễn Trãi hiện lên là một người có tâm lòng tha thiết yêu thiên, cuộc sống:

Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.

Ông đã rộng mở tâm hồn mình, vận dụng tất cả các giác quan để cảm nhận những chuyển động tế vi nhất của vạn vật xung quanh. Bằng thị giác, nhà thơ ngắm nhìn màu sắc của thiên nhiên: xanh của hoa hòe, đỏ của hoa lựu và ánh nắng đã nhạt của trời chiều. Bằng thính giác, bằng tất cả sự tinh tế ông lắng nghe tiếng ve ngân – thứ âm thanh đặc trưng của mùa hè, từng đàn ve ngân vang khúc ca mùa hạ; không chỉ vậy còn là tiếng “lao xao” của cuộc sống, của những làng chài. Ngoài ra, ông cảm nhận bằng khứu giác, những đóa sen ngát hương, một thứ hương thơm thanh nhã, cao sang ngập đầy trong không gian.

Bằng những cảm nhận hết sức tinh tế, tác giả đã gửi gắm tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống mãnh liệt. Nếu không có tình yêu thiên nhiên, có lẽ ông đã không cảm nhận được vẻ đẹp thiên nhiên sâu sắc đến vậy, không thể lắng nghe, đồng điệu với niềm vui cuộc sống ấm no, yên bình của những người dân quê.

Trong giây phút đắm say trước vẻ đẹp thiên nhiên, vẻ đẹp cuộc sống thanh bình, ấm no, nhân cách của một con người hết lòng vì nước lại được một lần nữa thể hiện qua hai câu thơ kết bài:

Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ khắp đòi phương.

Tình yêu thiên nhiên, yêu đời của ông luôn gắn bó mật thiết với lòng yêu nước, thiết tha với nhân dân. Đọc thơ Nguyễn Trãi, cũng như trong chính cuộc đời ông, ta hiếm khi thấy ông thực sự có được phút giây nhàn nhã, thanh thản. Đúng như một nhà nghiên cứu đã nhận xét: “Ở đây, Ức trai tự dành cho mình quyền “rồi hóng mát thuở ngày trường” bởi niềm mơ ước, bởi mục đích lớn nhất của đời ông đã được thực hiện: dân ấm no, hạnh phúc”.

Câu lục ngôn kết lại bài thơ, ngắn gọn nhưng hàm súc, giàu ý nghĩa. Mong ước của Nguyễn Trãi thật giản dị mà vô cùng cao quý. Tác giả mong muốn có được cây đàn của vua Ngu Thuấn để gảy khúc Nam phong ca ngợi cuộc sống thái bình. Đồng thời ông cũng mong muốn triều đại của chúng ta cũng giống triều đại vua Ngu Thuấn thái bình, người dân của triều đại chúng ta cũng có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đủ đầy. Suốt cuộc đời Nguyễn Trãi, ông luôn mong cho dân ấm no, hạnh phúc, khát vọng ấy cho thấy tấm lòng ưu ái với dân, với nước trong con người Ức trai. Điều này ông đã nhiều lần tâm sự trong các bài thơ:

“Bui có một lòng âu việc nước

Đêm đêm thức nhẫn nẻo sơ trung”.

“Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn

Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền”.

Cảnh ngày hè đã việt hóa thơ Đường một cách sáng tạo và điêu luyện, kết tinh ở câu lục ngôn cuối bài, ngắn gọn, hàm súc mà giàu ý nghĩa. Ngôn ngữ giản dị, dùng nhiều từ Việt cổ, từ ngữ dân dã, dễ hiểu. Sử dụng linh hoạt các động từ, từ tượng thanh diễn tả thiên nhiên và cuộc sống con người. Hình ảnh thơ sống động, phong phú.

Qua bài thơ ngắn gọn, hàm súc ta không chỉ thấy một Nguyễn Trãi có tình yêu thiên nhiên với những cảm nhận hết sức tinh tế về thế giới xung quanh. Mà nổi bật hơn, đẹp đẽ hơn tính là tâm lòng ưu ái, luôn ngày đêm lo cho dân cho nước. Điểm kết tụ trong thơ Nguyễn Trãi là vì dân, cho dân. Cả cuộc đời ông cống hiến cũng chỉ cho nhân dân.

Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi mẫu 4

Nguyễn Trãi - một nhà quân sự kiệt xuất của dân tộc. Không chỉ vậy, ông còn là một nhà văn, nhà thơ nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam. “Cảnh ngày hè” là một trong những bài thơ đã bộc lộ rõ được vẻ đẹp trong tâm hồn của ông.

Bài thơ “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi là bài số 43 thuộc chùm thơ “Bảo kính cảnh giới” trong “Quốc âm thi tập”, là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp và tấm lòng yêu nước thương dân của tác giả.

Vẻ đẹp đầu tiên trong tâm hồn của nhà thơ đó là tình yêu thiên nhiên tha thiết, nồng nàn. Điều đó được thể hiện qua bức tranh thiên nhiên cảnh ngày hè được khắc họa vô cùng sinh động:

“Rồi hóng mát thuở ngày trường,
Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

Mở đầu bài thơ, ta đã cảm nhận được sự nhàn nhã, thư thái của Nguyễn Trãi: “Rồi hóng mát thuở ngày trường”. Chữ “rồi” ở đây có nghĩa là rảnh rỗi, nhàn hạ. Nhà thơ rảnh rỗi trong suốt “ngày trường” - suốt một ngày dài, nền ngồi “hóng mát” - một hoạt động an nhàn, tĩnh tại, thư thái. Một con người đã từng một đời bận rộn nhân dân, vì đất nước. Chính lúc này khi cáo quan về ẩn, ông mới có giây phút rảnh rỗi hiếm hoi. Từ đó mà có nhiều thời gian gần gũi với thiên nhiên hơn.

Yêu thiên nhiên, ông thích thú trước vẻ đẹp của cảnh vật nơi đây vào mùa hè. Những hình ảnh đặc trưng của ngày hè được nhà thơ khắc họa với vài nét chấm phá. Cây hoa hòe có sức sống mãnh liệt giờ tán là xanh che phủ cả khoảng không gian. Cũng như sắc đỏ của cây thạch lựu tô đậm thêm cho khung cảnh. Hoa sen hồng tỏa mùi hương bay theo làn gió. Tác giả đã sử dụng các động từ mạnh “phun”, đùn đùn” để diễn tả những trạng thái, sức sống tràn trề của cảnh vật. Có thể thấy được bức tranh thiên nhiên cuối mùa hạ nhưng không tàn úa, héo nát mà ngược lại vô cùng rực rỡ, sinh động, giàu sức sống.

Không chỉ vậy, đó còn là một tâm hồn thiết tha với cuộc sống làng quê. Bức tranh cuộc sống hiện lên thật sôi động, phong phú:

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

Cuộc sống hiện lên thật quen thuộc với các hình ảnh như chợ cá, làng ngư phủ, lầu tịch dương. Cuộc sống của con người không chỉ được cảm nhận bằng thị giác mà còn được cảm nhận bằng thính giác. Đó là âm thanh từ làng chợ cá, của tiếng ve râm ran mỗi độ hè về. Những âm thanh đặc trưng của ngày hè nơi làng quê khiến ngày hè trở nên vui vẻ, nhộn nhịp. Việc sử dụng từ láy tượng thanh “lao xao”, “dắng dỏi” kết hợp với phép đảo trật tự cú pháp đã nhấn mạnh âm thanh sôi động của cuộc sống. Tác giả đã rất tinh tế khi sử dụng các động từ: “rợp, đùn, tiễn đưa” khiến cho người đọc thấy được cảm giác sức sống trỗi dậy của cảnh vật mùa hè.

Cuối cùng đó là một tâm hồn nặng lòng với dân với nước. Dù nhà thơ đã cáo quan về ở ẩn, sống một đời nhàn nhã yên bình, nhưng vẫn lo lắng cho nhân dân, cho đất nước:

“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương”

Nhà thơ đã mượn điển cố quen thuộc của Trung Hoa kể về thời đại Nghiêu Thuấn - những ông vua nhân từ đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Hằng ngày vua Nghiêu Thuấn thường đem đàn ra gảy khúc nam phong ngợi ca cảnh thái bình trên xứ sở này. Ông mong muốn cuộc sống của người dân trên quê hương mình cũng sẽ được hạnh phúc, ấm no.

Như vậy, qua bài thơ trên, người đọc có thấy được một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước của Nguyễn Trãi. Dù trong hoàn cảnh nào, ông vẫn luôn nặng lòng với nhân dân, đất nước.

Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi mẫu 5

Nguyễn Trãi là một nhà thơ kiệt xuất của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Ông để lại cho đời sau nhiều tác phẩm có giá trị lớn. Nếu như "Bình Ngô đại cáo" của ông mang đầy nhiệt huyết, lòng tự tôn dân tộc thì bài thơ "Cảnh ngày hè" là một bức tranh về vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi.

Mở đầu bài thơ "Cảnh ngày hè" là sáu câu thơ miêu tả cảnh ngày hè:

"Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng Ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương"

Tác giả đã đón nhận cảnh ngày hè trong tư thế ung dung, thoải mái khi ở ẩn, lúc nhà vua không còn trọng dụng tới nữa. Bức tranh cảnh ngày hè được tác giả vẽ lên thật rực rỡ và tươi đẹp với nhiều màu sắc. Đó là màu xanh của cây hòe, màu đỏ của hoa lựu, màu hồng của hoa sen, màu vàng lung linh của ánh nắng chiều. Tất cả hòa quyện lại với nhau. Tạo nên cảnh vật đặc trưng của mùa hè. Không chỉ cảm nhận bằng thị giác, tác giả còn cảm nhận cảnh vật bằng thính giác và khướu giác. Ông thấy mùi hương của ao sen, thấy âm thanh "lao xao" của làng chài, "dắng dỏi" của tiếng ve. Bức tranh cảnh ngày hè đã trở nên sinh động hơn, đặc sắc hơn với âm thanh và mùi vị. Mặc dù khung cảnh mà tác giả miêu tả là cuối ngày, khi mặt trời lặn nhưng mọi vật vẫn tràn đầy sức sống với những từ ngữ "đùn đùn", "giương", "phun", "tiễn", "lao xao", "dắng dỏi". Những từ ngữ đó cũng góp phần thể hiện những điều trong lòng tác giả – ước mong được cống hiến cho nhân dân, cho đất nước. Nhiệt huyết đó như muốn phun ra, trào ra và lan tỏa đi khắp nơi. Trong sáu câu thơ này, tác giả đã thay đổi, không đi theo tính quy phạm của văn học phong kiến nữa. Ông miêu tả cảnh ngày hè với những sự vật vô cùng gần gũi với cuộc sống hằng ngày.

Hai câu cuối của bài thơ đã được tác giả gửi gắm trọn vẹn tâm tư và suy nghĩ:

"Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương"

Tuy tác giả đón nhận cảnh ngày hè với tư thế ung dung trong một ngày nhàn rỗi nhưng ông vẫn luôn suy nghĩ, lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Cảm nhận cảnh ngày hè nhưng tác giả vẫn quan tâm tới cuộc sống của nhân dân. Thế nên ông nghe thấy âm thanh tấp nập, lao xao của làng chài. Ông quan tâm tới nhân dân, lo cho dân cho nước. Chính vì vậy, ông ước mong mình có cây đàn của vua Ngu Thuấn. Với cây đàn đó, Nguyễn Trãi có thể mang tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân và đất nước.

Bài thơ "Cảnh ngày hè" được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật có chen hai câu thơ lục ngôn. Tuy vậy, nhà thơ lại không tuân theo bố cục: Đề – Thực – Luận – Kết của thể thơ Đường luật. Chính vì thế, bài thơ mang nét đặc sắc riêng của một nhà thơ kiệt xuất của dân tộc Việt Nam. Không chỉ thế, bài thơ còn có hình ảnh hoa lựu khiến ta liên tưởng tới hai câu thơ của Nguyễn Du:

"Đầu tường hoa lựu lập lòe đơm bông"

Câu thơ của Nguyễn Du mang đậm chất tạo hình nhưng câu thơ của Nguyễn Trãi lại thể hiện được cá tính về nhiệt huyết của mình. Điều đó cho thấy rõ hơn tài năng của Nguyễn Trãi về thơ văn.

Bài thơ "Cảnh ngày hè" đặc sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Ông là người yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. Nhưng trên hết, ông là một người vừa có tài, vừa có tâm bởi ông luôn lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Ông muốn cống hiến nhiệt huyết của mình để nhân dân hạnh phúc, ấm no, đất nước giàu mạnh. Tư tưởng của Nguyễn Trãi như một bài học gửi gắm cho thế hệ trẻ về lòng yêu nước, ước mong cống hiến cho đất nước.

Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài Cảnh ngày hè

Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi mẫu 6

Nguyễn Trãi (1380 – 1442), vị anh hùng dân tộc, "tấm lòng sáng tựa sao Khuê" (lời vua Lê Thánh Tông) dù trong bất kì hoàn cảnh nào cũng không nguôi tâm nguyện hướng về dân về nước. Ngay cả khi bị nghi kị, phải lui về quê ngoại Côn Sơn, ông vẫn bộc bạch nỗi lòng tha thiết cháy bỏng trong cuộc sống tưởng như chỉ biết vui vầy cùng mây núi cỏ cây. Nỗi lòng ấy bộc lộ rõ nét trong chùm thơ 61 bài Bảo kính cảnh giới. Đặc biệt, bài thơ số 43 chan chứa bao khát vọng hướng đến cuộc đời, nhân dân.

Bảo kính cảnh giới (Gương báu răn mình) lấy những bài học từ thiên nhiên vĩ đại để nhà thơ soi chiếu lòng mình. Ta không chỉ gặp tấm lòng yêu thiên nhiên của một nghệ sĩ lớn mà còn thấu hiểu tâm sự của người anh hùng luôn canh cánh bên lòng nỗi niềm "ưu quốc ái dân". Suy ngẫm và cảm xúc của nhà thơ giúp chúng ta hình dung một nhân cách lớn.

Bài thơ bắt đầu bằng hoàn cảnh hưởng nhàn bất đắc dĩ:

Rồi hóng mát thuở ngày trường.

Nhịp thơ thật lạ lùng như kéo dài cảm giác của một ngày "ăn không ngồi rồi": tạo điểm nhấn ở một nhịp đầu tiên, sau đó là năm chữ nối thành một hơi thơ như tiếng thở dài. Rõ ràng nhà thơ nói về việc hóng mát mà không hề đem lại cảm nhận nhàn tản thật sự. Hai chữ ngày trường lại hiện ra bao nỗi chán chường của một ngày dài vô vị. Hưởng nhàn mà không hề thư thái! Có thể đó sẽ là khởi nguồn cho bao nỗi bực dọc trút ra của con người bất đắc chí. Thế nhưng, tất cả tâm tư đã được nén lại khi nhà thơ đối diện với một thiên nhiên mành liệt đầy sức sống:

Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.

Ba câu thơ đem lại một bức tranh thiên nhiên nhiều màu sắc, cùng những hình ảnh đặc trưng của không gian mùa hè. Trước hết, đó là hoè buông sắc lục như một chiếc lọng khổng lồ bao trùm lên cảnh vật, tạo cảm giác về một không gian xanh. Cái nhìn thiên nhiên của Nguyễn Trải luôn có sức bao quát, vừa gợi sức sống của không gian trong động từ "đùn đùn" vừa gợi cảm giác phóng khoáng trong một chữ "rợp". Tầm nhìn trải từ gần ra xa, theo quy luật đăng đối ở hai câu tả thực, khéo léo đan cài sắc đỏ của thạch lựu trước hiên nhà cùng sắc hồng của ao sen. Câu trên tả sắc, câu dưới gợi hương. Thiên nhiên ấy cũng chứa chan bao cảm xúc, lúc dịu nhẹ lan tỏa lúc bừng bừng phun trào. Để rồi cuối cùng đọng lại cảm giác man mác tiếc nhớ làn hương thanh thoát của sen hồng lúc cuối hè. Phải là một người có tâm hồn tinh tế mới cùng một lúc diễn tả được nhiều cảm giác trong chỉ vài ba câu thơ cô đọng. Giữa khung cảnh thiên nhiên ấy, nhà thơ dường như cũng nguôi ngoai bao nỗi niềm bực dọc, để lòng mình hòa cùng thiên nhiên đầy sức sống.

Không chỉ nhìn bằng mắt mà Nguyễn Trãi còn trải lòng lắng nghe những thanh âm muôn vẻ của thiên nhiên:

Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.

Có một sự chuyển đổi cảm xúc trong cách lắng nghe những âm thanh của cuộc sống. Giờ đây, những thanh âm lại được cảm nhận từ xa đến gần, từ "lao xao" đến "dắng dỏi". Thiên nhiên không hề tĩnh lặng u trầm trong thời điểm chiều buông mà trái lại rất sôi động và gần gũi với tấm lòng thiết tha yêu sự sống của nhà thơ. "Lao xao" là âm thanh gợi rõ cuộc sống thanh bình của những người dân chài, cảnh mua bán tấp nập mà khòng quá ồn ào để khuấy động không gian hương nhàn của nhà thơ. Dường như Nguyên Trãi đã chủ động hướng lòng mình về với chợ cá, làng ngư phủ để thấy bản thân không cách xa với đời thường. Âm vang cuộc sống thực ấy tạo thành mối dây liên hệ giữa nhà thơ với nhân dân, mang lại niềm vui xôn xao trong một buổi chiều để tạo cho nhà thơ nỗi buồn. Cấu trúc đăng đối đã tạo nên sự hòa điệu giữa con người với thiên nhiên trong sự cân xứng làng ngư phủ – bóng tịch dương mang đậm sắc thái trang trọng cổ điển. Nghệ thuật tương phản tạo nên một cảm hứng hết sức mới mẻ trong thơ Nguyễn Trãi khi ấn tượng ám ảnh nhà thơ không phải ánh tịch dương ảm đạm mà lại là âm thanh dắng dỏi cầm ve. Sự liên tưởng bất ngờ và độc đáo này đã chứng tỏ rõ phẩm chất nghệ sĩ của Nguyễn Trãi. Tiếng ve đặc trưng của mùa hè đến thơ Nguyễn Trãi lại như một bản đàn mạnh mẽ, rạo rực hối hả nhịp sống căng tràn của thiên nhiên. Bức tranh thiên nhiên sống động ấy đã hàm chứa một nội dung thông điệp thẩm mỹ đánh động tâm tư của nhà thơ. Bản thân ông có muốn lánh đời thoát tục, ngắm ánh tịch dương, giam mình trong lầu kín cũng không thể không nghe, không thấy bao vẻ đẹp thiên nhiên tươi tắn rộn rã xung quanh. Thiên nhiên ấy xôn xao hay chính tấm lòng của nhà thơ cũng đang náo nức muốn hòa cùng niềm vui sự sống? Cuộc sống của ông không phải của một ẩn sĩ lánh đời mà chính là phản chiếu của tâm hồn yêu đời thiết tha, vẫn đón nhận thưởng thức được niềm vui cuộc sống thanh bình để quên đi nỗi riêng tư sầu muộn.

Thiên nhiên đã đem lại một bài học lớn, lay thức khát vọng mãnh liệt muốn trở lại với đời của nhà thơ. Thiên nhiên ấy đã thổi bùng khát vọng của người anh hùng đầu bạc mà vẫn vẹn tấm lòng son:

Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương

Còn gì giản dị, thanh cao, súc tích hơn những lời thơ mộc mạc chân thành ấy! Giữa thiên nhiên tuyệt đẹp, Nguyễn Trãi không hề mong muốn hưởng thụ thú nhàn tản cho riêng mình. Ông không phải con người chỉ chăm chăm giữ lấy sự trong sạch cho riêng mình theo triết lí nhà Nho "độc thiện kì thân". Ở sâu thẳm tâm hồn ông vẫn là nỗi niềm "ưu quốc ái dân", là khát khao hành động của một con người trọn đời vì lợi ích của nhân dân. Tinh thần Nguyễn Trãi vẫn không hề nhụt giảm, vẫn còn nung nấu hoài bão cống hiến cho đất nước thái bình thịnh trị như thời Đường Ngu - xã hội thịnh trị lí tưởng theo quan niệm nho gia. Giản dị thay và cũng cao cả thay sáu chữ đúc kết tấm lòng Nguyễn Trãi hướng về nhân dân. Quả thật, riêng ông trong hoàn cảnh bấy giờ có nhiều nỗi buồn, nhưng bản chất tâm hồn Nguyễn Trãi luôn "trong sáng và đầy sức sống" (lời cố thủ tướng Phạm Văn Đồng). Tâm hồn ấy chỉ cháy bỏng niềm mong ước đem lại cho nhân dân cuộc sống giàu đủ. Niềm mong mỏi nhân dân "khắp nơi không một tiếng hờn giận oán sầu" chính là minh chứng cho nhân cách trong sáng tuyệt vời của Nguyễn Trãi.

Bảo kính cảnh giới – bài học lớn từ thiên nhiên giúp Nguyễn Trãi răn mình, chứa đựng bao tình cảm yêu đời yêu sự sống. Ta nhận ra một tâm hồn nghệ sĩ - chiến sĩ của Ức Trai tiên sinh. Tấm lòng "sáng tựa sao Khuê" ấy vẫn tỏa sáng đến tận hôm nay.

Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi mẫu 7

Nguyễn Trãi- một cái tên đã quá quen thuộc với ta trong nền văn học trung đại của Việt Nam, ông là một trong ba nhân vật duy nhất ở nước ta được UNESCO công nhận là danh nhân văn hoá thế giới. Tài năng của ông được thể hiện ở cả hai thể loại chữ Nôm và chữ Hán mà ông đã đạt được những thành tựu to lớn. Chính Nguyễn Trãi đã là người đặt nền móng đầu tiên và mở đường cho sự phát triển thơ ca tiếng Việt đương thời, nhờ những áng văn chương kì bút của ông mà nó đã giúp cho văn học trung đại sự soi sáng và phát triển mạnh mẽ. Ta từng nghe qua “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được coi là áng “thiên cổ hùng văn” và đồng thời cũng là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc với giọng văn hào hùng, mạnh mẽ, đầy tự hào; và rồi ta cũng từng nghe qua “Cảnh ngày hè” cũng là một thi phẩm của ông nhưng lại mang một vẻ đẹp vô cùng đặc biệt về cảnh sắc ngày hè nhưng lại gửi gắm trong đó biết bao điều tuyệt vời của vị thi nhân. Bài thơ “Cảnh ngày hè” là bài số 43 trên 61 mục “Bảo kính cảnh giới” thuộc phần “Vô đề” của tác phẩm nổi tiếng “Quốc âm thi tập” mà ông đã sáng tác vào những năm tháng ở ẩn, lui khỏi chốn quan trường. Bài thơ không chỉ tả cảnh đơn thuần mà còn mang trong đó chính là tâm hồn của Nguyễn Trãi chứa chan tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân và đất nước,… con người ấy ta chỉ có thể dùng hai từ để miêu tả đó chính là “tuyệt vời” mà thôi!

Thật vậy, qua từng dòng thơ trong thi phẩm đã làm hiện hữu lên vẻ đẹp tâm hồn sâu sắc ấy, ông yêu thiên nhiên là ông đang hoà hợp, gắn bó, yêu quý và đặc biệt rung động trước vẻ đẹp của nó. Rồi ông cũng yêu đời, ông luôn vui vẻ, lạc quan, trân trọng chính cuộc sống của riêng ông tạo ra bỏi vậy mà ông lúc nào cũng sống thật thanh thản và thanh tịnh. Nhưng có lẽ tình yêu lớn lao nhất chính là tình thương mà ông dành cho dân, cho nước, lúc nào cũng vậy, vị thi nhân ấy luôn nghĩ đến tình thương ấy trước bởi chăng nó đã thấm nhuần vào dòng máu của bậc tiền bối đáng quý. Vẻ đẹp tâm hồn ấy thật đáng ngưỡng mộ để rồi sau này cố thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói rằng: “trong sáng và đầy sức sống”

Trước hết bài thơ chính là tình yêu chan chứa mà ông dành cho thiên nhiên cũng như cuộc đời mình:

“Rồi hóng mát thuở ngày trường

Hoè lục đùn đùn tán rợp giương

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

Mở đầu bài thơ, người thi sĩ hiện lên với tư thế nhàn hạ, thảnh thơi và rất tao nhã:

“Rồi hóng mát thuở ngày trường”

câu thơ chỉ vọn vẹn sáu từ nhưng đã miêu tả rõ nét về thời gian, hoàn cảnh cũng như tâm trạng của ông, Nguyễn Trãi thực sự khéo léo thể hiện tài năng của mình qua câu thơ lục ngôn đầy sáng tạo và độc đáo khi đã phá vỡ tính quy phạm vốn có trong văn học trung đại lúc bấy giờ. Với cách ngắt nhịp 1/2/3 làm câu thơ tưởng như tiếng thở dài nhưng không lấy một câu từ than vãn, dường như ông vô cùng thư thái hoà trọn mình với thiên nhiên bởi ông có hẳn một “ngày trường” để làm điều ấy. Hoàn cảnh thưởng ngoại cũng thật đặc biệt biết mấy, đây chính là những giây phút hiếm hoi trong cuộc đời của vị quan thanh liêm dành cả đời vì một sứ mệnh bảo vệ, lo lắng,… cho nhân dân, cho đất nước. Hơn 57 năm cống hiến là thế nhưng những năm cuối đời ấy cũng chẳng được mang hai chữ “bình yên” bởi chăng ông chẳng khỏi đắn đo suy nghĩ một nỗi ưu phiền?

Nếu như dưới thời Hồng Đức có hai câu thơ:

“Nước nồng sừng sực đầu rô trỗi

Ngày nắng chang chang lưỡi chó lè”

Hai câu thơ cũng viết về cảnh ngày hè mang dáng vẻ mộc mạc, thô ráp và dân dã qua từng ngôn từ và cách miêu tả nhưng những điều ấy đã thay đổi hoàn toàn trong thơ ca của Nguyễn Trãi, nó được thay thế bởi sự giao cảm mạnh mẽ mà rất đỗi tinh tế của một tâm hồn chan chứa tình yêu thiên nhiên và yêu đời hiếm thấy qua năm câu thơ tiếp theo:

“Hoè lục đùn đùn tán rợp giương

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

Cảnh vật hiện lên trong bức tranh mang một sức sống mãnh liệt đến kì lạ, các nhà thơ xưa khi đến với thiên nhiên thường bằng bút pháp vịnh còn Nguyễn Trãi lại thiên về tả thực hết sức mới lạ. Bức tranh ấy hiện lên có đầy đủ đường nét, màu sắc, âm thanh, hương vị,… xen lẫn vào đó còn có cả cuộc sống của con người thật láo nhiệt, tràn đầy sức sống. Đầu tiên là màu xanh đậm của những tán hoè đang tầng tầng lớp lớp đẩy lên cao, còn kia lại là màu đỏ rực của những bông hoa lựu, và kia lại là màu hồng của những bông sen toả ngát mùi hương, trên cao ta lại bắt gặp màu vàng của nắng chiều ấm áp,… bức tranh đầy đủ màu sắc dường như đang cuốn hút ta đến với nó bởi màu sắc chan hoà, rực rỡ đến tinh tế và khéo léo. Không dừng lại ở đó, Nguyễn Trãi còn sử dụng hàng loạt những động từ mạnh diễn tả trạng thái của sự vật: “đùn đùn”, “rợp giương”, “phun”, “tiễn” khiến bức tranh càng thêm sống động và rồi cũng len lỏi vào bức tranh thiên nhiên ấy còn có âm thanh của tiếng đàn thiên nhiên, âm thanh cuộc sống con người bên làng chài lưới,… tô thêm vẻ sôi động náo nhiệt cho bức tranh thiên nhiên càng thêm phần hấp dẫn. Ta biết đến thơ văn trung đại qua đặc điểm ước lệ tượng trưng thiên về cách cảm nhận mang màu sắc sách vở, cổ điển muôn đời vì vậy mà thi nhân xưa thường tâm đắc với mùa thu hay mùa xuân hơn rất nhiều nhưng lại chỉ quanh đi quẩn lại gò bó trong cách thức miêu tả từ thể thơ đến hình ảnh như thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường Luật, thất ngôn bát cú Đường Luật,… hay là qua hình ảnh cánh chim nhạn, lá đỏ rừng phong, buổi chiều tàn đầy nỗi buồn,… Trong bức tranh này thì đã khác hoàn toàn bởi Nguyễn Trãi có tâm hôn yêu thiên nhiên vô cùng sâu sắc. Trước hết là cách chọn chủ đề mới lạ đó chính là mùa hạ và đặc biệt hơn cả là sử dụng ngôn từ tinh tế, qua đó bức tranh tràn đầy sức sống, mạnh mẽ và mãnh liệt phá cách đến cuốn hút người đọc. Sức sống ấy đã hoá thành màu sắc, thành tán, thành luồng, “đùn đùn” mà xanh, dào dạt mà “phun”, ngào ngạt mà nức, cảnh thiên nhiên không hề tĩnh lại mà vẫn động và cháy hết mình:

“Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ”

“thức đỏ” không còn chỉ dừng lại là màu sắc mà còn mang dáng vẻ của một sức sống dâng trào, sau này trong “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Duy cũng có câu thơ:

“Đầu tường lửa lựu lập loè đơm bông”

câu thơ của Nguyễn Du mang đậm chất tạo hình, thiên về tả hình sắc chấm phá nhưng cũng mang một chút tương đồng với câu thơ của Nguyễn Trãi bỏi nó đều cho ta cảm nhận được những thứ ẩn lấp sau dáng vẻ của bông hoa lựu, phải chăng đó chính là sức sống, là vẻ đẹp, là cảm xúc,… Thiên nhiên Nguyễn Trãi mang lại cho ta chứa chan biết bao xúc cảm, lúc bừng vừng phun trào với tán hoè với bông lựu, lúc lại dịu nhẹ lan toả với mùi hương sen ngào ngạt như lắng lại để tạo cho thi nhân một điểm tựa để hoà mình với thiên nhiên, để càng thêm yêu đời, yêu cuộc sống. Hẳn ông phải là một người có tâm hồn tinh tế lắm mới cảm nhận được sự chuyển động của cảnh sắc nơi đây, khi mà ông quan sát kĩ đến mức thấy nó vẫn “đang” phun màu, thấy nó “đã” tiễn mùi hương, và không chỉ cảm nhận bằng thị giác và khứu giác nữa mà Nguyễn Trãi còn cảm nhận thiên nhiên bằng cả thính giác để lắng nghe cuộc sống chốn thôn quê. Đó là âm thanh của chợ cá làng chài lưới, gợi cho ta đến một cuộc sống thanh bình ấm êm của người dân, cảnh mua bán của họ tấp nập mà không quá ồn ào để làm khuấy động cảnh sắc của bức tranh. Và rồi khi đọc đến dòng thơ này ta lại đặt ra một câu hỏi “quê hương ông không hề có biển, nhưng tại sao ở đây lại có hình ảnh của làng chài lưới?” Và câu trả lời chỉ có một, ông đã khéo léo hoà tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đời của mình với tình yêu ông dành cho dân, âm thanh “lao xao” ấy chỉ được nghe bởi một thi nhân có tình thương sâu sắc với dân và đó chính là Nguyễn Trãi. Ca dao Việt Nam có câu:

“Chiều chiều ra đứng ngõ sau

Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”

Hay là của Nguyễn Du:

“Tà tà bóng ngả về tây

Chị em thơ thẩn dan tay ra về”

Buổi chiều hiện lên mang một nét đượm buồn, từ nỗi buồn day dứt khi người phụ nữ xã hội phong kiến xưa nhớ về quê mẹ cho đến nỗi buồn man mác của chị em Thuý Kiều lúc hội xuân đã tàn. Nhưng buổi chiều qua bàn tay tài ba của Nguyễn Trãi lại ngược lại hoàn toàn, buổi chiều trong thơ ông hiện lên mang đầy âm hưởng của tiếng đàn thiên nhiên- tiếng ve kêu, nó tựa như tiếng đàn rất mạnh mẽ mà rạo rực, dân dã mà thanh tao, hối hả nhưng vẫn rất bình yên đến từ ánh nắng vàng buổi chiều tà. Nếu ở ẩn theo quan niệm đương thời chính là xa lánh với cuộc sống đời thường, khép mình với thiên nhiên, ủ rũ trong bốn bức tường,… thì Nguyễn Trãi lại thể hiện trong văn chương mình rằng: ở ẩn là để phản chiếu tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đời tha thiết và đón nhận, thưởng tức cuộc sống thanh bình để quên đi nỗi sầu phiền muộn.

Khác với những dòng thơ đầu của bài mang vẻ đẹp của tâm hồn yêu thiên nhiên và yêu đời thì hai câu thơ cuối lại là nỗi lòng của tác giả qua đó khắc hoạ một tâm hồn yêu nước, thương dân da diết đến xúc cảm của thi nhân:

“Dẽ có ngu cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ khắp đòi phương”

Tuy rằng là một vị quan thất sủng không còn được vua Lê trọng dụng như trước nữa, ông cũng đã lui về ở ẩn tránh xa cuộc sống muộn phiền nhiều ganh đua nơi mà đầy những hiểm nguy “ra luồn vào cúi” cũng như Nguyễn Bỉnh Khiểm có hai câu thơ:

“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao”

Tưởng rằng như vậy là đã được nhàn, được sống thanh thản, nhưng không, vị quan thanh liêm ấy vẫn chưa bao giờ nguôi ngoai nỗi lo cho dân, cho nước bời ông luôn có tư tưởng: thương dân, yêu dân, trọng dân, ông coi những con người “chân lấm tay bùn” ấy quyết định suy vong của một triều đại. Ông ước ao có cây đàn của vua Ngu Thuấn- một ông vua trong thần thoại Trung Quốc từng trị vì triều đại lí tưởng, đất nước thái bình thịnh tri, nhân dân yên ấm thuận hoà và đó chính là ước mơ cả đời của ông, được cầm trên tay là cây đàn kia để rồi đàn một khúc Nam Phong gửi tới muôn dân:

“Gió nam mát mẻ

Làm cho dân ta bớt ưu phiền

Gió nam thổi đúng lúc

Là cho dân ta thêm nhiều của cải”

Và rồi Lê Thánh Tông cũng từng có câu thơ:

“Nhà bắc nhà nam đều có mặt

Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình”

Dân chính là món nợ của cả cuộc đời ông chưa trả hết, vì vậy trong ông lúc nào cũng mong ước dân ta cơm ăn đủ no, áo mặc đủ ấm, hạnh phúc, yên vui, và cùng ca ngợi dân giàu khắp mọi nơi. Lại một lầm nữa Nguyễn Trãi sử dụng câu thơ lục ngôn với nhịp 3/3 kết lại ngắn gọn, cô đúc nhưng mang đầy tâm huyết, chứa đầy khát vọng của cả cuộc đời:

“Dân giàu đủ khắp đòi phương”

Quả thực tâm hồn Nguyễn Trãi chứa chan tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu dân, yêu nước, đó là một tâm hồn nhạy cảm đến thanh tao, tinh tế mà giản dị, tâm hồn ấy tựa như vì sao khuê đang toả sáng giữa bầu trời đêm cũng như Lê Thánh Tông từng viết rằng:

“Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”

Câu thơ là một lời đúc kết về Nguyễn Trãi vô cùng sâu sắc, nó thể hiện qua mỗi tác phẩm ông để lại cho hậu thế dù không nhiều nhưng đủ cho ta thấy một trí tuệ uyên bác, một chí khí hào hùng, một nhân cách cao thượng và đặc biệt là một tâm hồn tinh tế thể hiện rất rõ qua bài thơ “Cảnh ngày hè”

Bài thơ với tám câu sử dụng thể thơ Đường Luật của Trung Quốc nhưng đã khéo léo sử dụng hai câu thơ lục ngôn mang đậm bản sắc dân tộc đến tài tình để lại cho hậu thế những vần thơ vô cùng ý nghĩa, dễ đọc, dễ hiểu. Ngôn từ giản dị mà tinh tế, lồng ghép khéo léo cùng với các điền tích điền cố cũng những hình ảnh sinh động, sử dụng hàng loạt các tính từ, động từ mạnh đã góp phần tạo nên một thi phẩm, một kiệt tác, một áng văn chương để đời! Bài thơ tường chừng chỉ là một bức tranh tả cảnh sắc thiên nhiên cuộc sống đời thường nhưng ẩn sâu trong đấy lại là một bức tranh về vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi, nó chứa chan tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu đất nước, yêu dân cùng với đó là tâm hồn thanh cao, nhàn tản nhưng luôn hoài nỗi niềm đau đáu về dân về nước ấy đích thị là Nguyễn Trãi- một nhân cách sống tuyệt với đáng để cho hậu thế học tập!

Phân tích vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi qua bài Cảnh ngày hè mẫu 8

Nguyễn Trãi là một nhà thơ kiệt xuất của dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Ông để lại cho đời sau nhiều tác phẩm có giá trị lớn. Nếu như Bình Ngô đại cáo của ông mang đầy nhiệt huyết, lòng tự tôn dân tộc thì bài thơ Cảnh ngày hè là một bức tranh về vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi.

Mở đầu bài thơ Cảnh ngày hè là sáu câu thơ miêu tả cảnh ngày hè:

Rồi hóng mát thuở ngày trường

Hoè lục đùn đùn tán rợp giương

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

Lao xao chợ cá làng Ngư phủ

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương

Tác giả đã đón nhận cảnh ngày hè trong tư thế ung dung, thoải mái khi ở ẩn, lúc nhà vua không còn trọng dụng tới nữa. Bức tranh cảnh ngày hè được tác giả vẽ lên thật rực rỡ và tươi đẹp với nhiều màu sắc. Đó là màu xanh của cây hoè, màu đỏ của hoa lựu, màu hồng của hoa sen, màu vàng lung linh của ánh nắng chiều. Tất cả hoà quyện lại với nhau. Tạo nên cảnh vật đặc trưng của mùa hè. Không chỉ cảm nhận bằng thị giác, tác giả còn cảm nhận cảnh vật bằng thính giác và khướu giác. Ông thấy mùi hương của ao sen, thấy âm thanh “lao xao” của làng chài, “dắng dỏi” của tiếng ve. Bức tranh cảnh ngày hè đã trở nên sinh động hơn, đặc sắc hơn với âm thanh và mùi vị. Mặc dù khung cảnh mà tác giả miêu tả là cuối ngày, khi mặt trời lặn nhưng mọi vật vẫn tràn đầy sức sống với những từ ngữ “đùn đùn”, “giương”, “phun”, “tiễn”, “lao xao”, “dắng dỏi”. Những từ ngữ đó cũng góp phần thể hiện những điều trong lòng tác giả – ước mong được cống hiến cho nhân dân, cho đất nước. Nhiệt huyết đó như muốn phun ra, trào ra và lan toả đi khắp nơi. Trong sáu câu thơ này, tác giả đã thay đổi, không đi theo tính quy phạm của văn học phong kiến nữa. Ông miêu tả cảnh ngày hè với những sự vật vô cùng gần gũi với cuộc sống hằng ngày.

Hai câu cuối của bài thơ đã được tác giả gửi gắm trọn vẹn tâm tư và suy nghĩ:

Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ khắp đòi phương

Tuy tác giả đón nhận cảnh ngày hè với tư thế ung dung trong một ngày nhàn rỗi nhưng ông vẫn luôn suy nghĩ, lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Cảm nhận cảnh ngày hè nhưng tác giả vẫn quan tâm tới cuộc sống của nhân dân. Thế nên ông nghe thấy âm thanh tấp nập, lao xao của làng chài. Ông quan tâm tới nhân dân, lo cho dân cho nước. Chính vì vậy, ông ước mong mình có cây đàn của vua Ngu Thuấn. Với cây đàn đó, Nguyễn Trãi có thể mang tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân và đất nước.

Bài thơ Cảnh ngày hè được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật có chen hai câu thơ lục ngôn. Tuy vậy, nhà thơ lại không tuân theo bố cục: Đề – Thực – Luận – Kết của thể thơ Đường luật. Chính vì thế, bài thơ mang nét đặc sắc riêng của một nhà thơ kiệt xuất của dân tộc Việt Nam. Không chỉ thế, bài thơ còn có hình ảnh hoa lựu khiến ta liên tưởng tới hai câu thơ của Nguyễn Du:

Đầu tường hoa lựu lập loè đơm bông

Câu thơ của Nguyễn Du mang đậm chất tạo hình nhưng câu thơ của Nguyễn Trãi lại thể hiện được cá tính về nhiệt huyết của mình. Điều đó cho thấy rõ hơn tài năng của Nguyễn Trãi về thơ văn.

Bài thơ Cảnh ngày hè đặc sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Ông là người yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. Nhưng trên hết, ông là một người vừa có tài, vừa có tâm bởi ông luôn lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Ông muốn cống hiến nhiệt huyết của mình để nhân dân hạnh phúc, ấm no, đất nước giàu mạnh. Tư tưởng của Nguyễn Trãi như một bài học gửi gắm cho thế hệ trẻ về lòng yêu nước, ước mong cống hiến cho đất nước.

---------------------------------------

Trên đây VnDoc.com đã giới thiệu tới bạn đọc tài liệu văn mẫu lớp 10: Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài Cảnh ngày hè. Chắc hẳn qua bài viết bạn đọc đã nắm được những ý chính cũng như trau dồi được nội dung kiến thức của bài học rồi đúng không ạ? Bài viết được tổng hợp gồm có dàn ý và 7 bài văn mẫu cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài Cảnh ngày hè. Hi vọng qua bài viết bạn đọc có thể học tập tốt hơn môn Ngữ văn lớp 10 nhé. Để có kết quả cao hơn trong học tập, cùng với chủ đề này VnDoc.com mời các bạn học sinh tham khảo bài soạn văn mẫu bài Cảnh ngày hèphân tích bài thơ Cảnh ngày hè mà VnDoc tổng hợp và đăng tải. Qua bộ tài liệu các bạn học sinh chắc chắn sẽ nắm chắc kiến thức bài Cảnh ngày hè và học tập tốt hơn môn Ngữ văn. Chúc các bạn học tập hiệu quả!

Để giúp bạn đọc có thể giải đáp được những thắc mắc và trả lời được những câu hỏi khó trong quá trình học tập. VnDoc.com mời bạn đọc cùng đặt câu hỏi tại mục hỏi đáp học tập của VnDoc. Chúng tôi sẽ hỗ trợ trả lời giải đáp thắc mắc của các bạn trong thời gian sớm nhất nhé.

Và sau những giờ học tập và làm việc căng thẳng, mời các em học sinh, thầy cô giải lao với các bài trắc nghiệm IQ, trắc nghiệm cảm xúc EQ của VnDoc. Hy vọng rằng, các bạn sẽ có những giây phút giải lao thoải mái và nhiều niềm vui.

Đánh giá bài viết
209 254.681
Sắp xếp theo

    Soạn văn 10 sách mới

    Xem thêm