Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên Module GVPT 01

VnDoc.com xin gửi tới thầy cô bài viết Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên GVPT 01 theo quy định Thông tư 17/2019/TT-BGDĐT để thầy cô cùng tham khảo. Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVPT 01 là bài thu hoạch về phẩm chất đạo đức nhà giáo trong bối cảnh hiện nay. Mời thầy cô cùng tham khảo chi tiết bài thu hoạch tại đây.

Bài thu hoạch Module GVPT 01 số 1

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng

  1. Văn bản này quy định về đạo đức nhà giáo.
  2. Đối tượng áp dụng bao gồm các nhà giáo đang làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục ở các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân.

Điều 2. Mục đích

Quy định về đạo đức nhà giáo là cơ sở để các nhà giáo nỗ lực tự rèn luyện phù hợp với nghề dạy học được xã hội tôn vinh, đồng thời là một trong những cơ sở để đánh giá, xếp loại và giám sát nhà giáo nhằm xây dựng đội ngũ nhà giáo có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất và lương tâm nghề nghiệp trong sáng, có tính tích cực học tập, không ngừng nâng cao chuyên môn nghiệp vụ và phương pháp sư phạm, có lối sống và cách ứng xử chuẩn mực, thực sự là tấm gương cho người học noi theo.

Điều 3. Phẩm chất chính trị

  1. Chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; thi hành nhiệm vụ theo đúng quy định của pháp luật. Không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ lý luận chính trị để vận dụng vào hoạt động giảng dạy, giáo dục và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
  2. Có ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành nghiêm sự điều động, phân công của tổ chức; có ý thức tập thể, phấn đấu vì lợi ích chung.
  3. Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, tích cực tham gia các hoạt động chính trị, xã hội.

Điều 4. Đạo đức nghề nghiệp

  1. Tâm huyết với nghề nghiệp, có ý thức giữ gìn danh dự, lương tâm nhà giáo; có tinh thần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ đồng nghiệp trong cuộc sống và trong công tác; có lòng nhân ái, bao dung, độ lượng, đối xử hoà nhã với người học, đồng nghiệp; sẵn sàng giúp đỡ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người học, đồng nghiệp và cộng đồng.
  2. Tận tụy với công việc; thực hiện đúng điều lệ, quy chế, nội quy của đơn vị, nhà trường, của ngành.
  3. Công bằng trong giảng dạy và giáo dục, đánh giá đúng thực chất năng lực của người học; thực hành tiết kiệm, chống bệnh thành tích, chống tham nhũng, lãng phí.
  4. Thực hiện phê bình và tự phê bình thường xuyên, nghiêm túc; thường xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục.

Điều 5. Lối sống, tác phong

  1. Sống có lý tưởng, có mục đích, có ý chí vượt khó vươn lên, có tinh thần phấn đấu liên tục với động cơ trong sáng và tư duy sáng tạo; thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
  2. Có lối sống hoà nhập với cộng đồng, phù hợp với bản sắc dân tộc và thích ứng với sự tiến bộ của xã hội; biết ủng hộ, khuyến khích những biểu hiện của lối sống văn minh, tiến bộ và phê phán những biểu hiện của lối sống lạc hậu, ích kỷ.
  3. Tác phong làm việc nhanh nhẹn, khẩn trương, khoa học; có thái độ văn minh, lịch sự trong quan hệ xã hội, trong giao tiếp với đồng nghiệp, với người học; giải quyết công việc khách quan, tận tình, chu đáo.
  4. Trang phục, trang sức khi thực hiện nhiệm vụ phải giản dị, gọn gàng, lịch sự, phù hợp với nghề dạy học, không gây phản cảm và phân tán sự chú ý của người học.
  5. Đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ; đấu tranh, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật và các quy định nghề nghiệp. Quan hệ, ứng xử đúng mực, gần gũi với nhân dân, phụ huynh học sinh, đồng nghiệp và người học; kiên quyết đấu tranh với các hành vi trái pháp luật.
  6. Xây dựng gia đình văn hoá, thương yêu, quý trọng lẫn nhau; biết quan tâm đến những người xung quanh; thực hiện nếp sống văn hoá nơi công cộng.

Điều 6. Giữ gìn, bảo vệ truyền thống đạo đức nhà giáo

  1. Không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi trái pháp luật, quy chế, quy định; không gây khó khăn, phiền hà đối với người học và nhân dân.
  2. Không gian lận, thiếu trung thực trong học tập, nghiên cứu khoa học và thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục.
  3. Không trù dập, chèn ép và có thái độ thiên vị, phân biệt đối xử, thành kiến người học; không tiếp tay, bao che cho những hành vi tiêu cực trong giảng dạy, học tập, rèn luyện của người học và đồng nghiệp.
  4. Không xâm phạm thân thể, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người học, đồng nghiệp, ngư¬ời khác. Không làm ảnh hưởng đến công việc, sinh hoạt của đồng nghiệp và người khác.
  5. Không tổ chức dạy thêm, học thêm trái với quy định.
  6. Không hút thuốc lá, uống rượu, bia trong công sở, trong trường học và nơi không được phép hoặc khi thi hành nhiệm vụ giảng dạy và tham gia các hoạt động giáo dục của nhà trường.
  7. Không sử dụng điện thoại di động và làm việc riêng trong các cuộc họp, trong khi lên lớp, học tập, coi thi, chấm thi.
  8. Không gây bè phái, cục bộ địa phương, làm mất đoàn kết trong tập thể và trong sinh hoạt tại cộng đồng.
  9. Không được sử dụng bục giảng làm nơi tuyên truyền, phổ biến những nội dung trái với quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước.
  10. Không trốn tránh trách nhiệm, thoái thác nhiệm vụ, tự ý bỏ việc; không đi muộn về sớm, bỏ giờ, bỏ buổi dạy, cắt xén, dồn ép chương trình, vi phạm quy chế chuyên môn làm ảnh hưởng đến kỷ cương, nề nếp của nhà trường.
  11. Không tổ chức, tham gia các hoạt động liên quan đến tệ nạn xã hội như : cờ bạc, mại dâm, ma tuý, mê tín, dị đoan; không sử dụng, lưu giữ, truyền bá văn hoá phẩm đồi trụy, độc hại.

TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Điều 7. Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

  1. Chỉ đạo ngành Giáo dục phối hợp với các Ban, Ngành, Đoàn thể tổ chức thực hiện Quy định về đạo đức nhà giáo.
  2. Đảm bảo các điều kiện cho công tác bồi dưỡng, tuyên truyền, giáo dục về đạo đức nhà giáo, gương sáng nhà giáo.
  3. Định kỳ thanh tra, kiểm tra công tác tổ chức thực hiện của các cơ quan quản lý giáo dục; xử lý nghiêm túc, kịp thời đúng pháp luật các cá nhân, tổ chức vi phạm Quy định này.

Điều 8. Các Sở Giáo dục và Đào tạo

  1. Giám đốc các Sở Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các Phòng Giáo dục và Đào tạo, các cơ sở giáo dục quán triệt, học tập và triển khai thực hiện Quy định về đạo đức nhà giáo cho đội ngũ nhà giáo ở địa phương; tăng cường thanh tra, kiểm tra công tác thực hiện Quy định về đạo đức nhà giáo ở các cơ sở giáo dục và việc thực hiện của các nhà giáo; tuyên dương, khen thưởng kịp thời các tổ chức, cá nhân thực hiện tốt và xử lý nghiêm túc, kỷ luật thích đáng các cá nhân, tổ chức vi phạm; định kỳ cuối năm học báo cáo kết quả thực hiện về Bộ Giáo dục và Đào tạo.
  2. Phối hợp với Sở Lao động Thương binh và Xã hội của các địa phương trong việc chỉ đạo triển khai thực hiện Quy định về đạo đức nhà giáo cho đội ngũ nhà giáo trong các cơ sở dạy nghề tại địa phương theo phân cấp quản lý về dạy nghề.
  3. Tham mưu với cấp uỷ và chính quyền địa phương các giải pháp để thực hiện có hiệu quả các quy định trong văn bản này.

Điều 9. Các đại học, học viện, các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, các cơ sở dạy nghề. Giám đốc các đại học, học viện, Hiệu trưởng các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, Hiệu trưởng các trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề, Giám đốc các trung tâm dạy nghề căn cứ vào Quy định này để tổ chức thực hiện; tăng cường kiểm tra việc thực hiện của các nhà giáo, tuyên dương, khen thưởng kịp thời các tổ chức, cá nhân thực hiện tốt và xử lý nghiêm túc, kỷ luật thích đáng các cá nhân, tổ chức vi phạm; định kỳ cuối năm học báo cáo kết quả thực hiện về Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Điều 10. Các Bộ có quản lý các cơ sở giáo dục và đào tạo

  1. Chỉ đạo các cơ sở giáo dục và đào tạo tổ chức thực hiện Quy định về đạo đức nhà giáo.
  2. Đảm bảo các điều kiện cho công tác bồi dưỡng, tuyên truyền, giáo dục về đạo đức nhà giáo, gương sáng nhà giáo.
  3. Định kỳ thanh tra, kiểm tra công tác tổ chức thực hiện của các cơ sở giáo dục và đào tạo; xử lý nghiêm túc, kịp thời đúng pháp luật các cá nhân, tổ chức vi phạm Quy định này.

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên Module GVPT 01 số 2

1. Phẩm chất đạo đức của nhà giáo trong bối cảnh hiện nay

Đạo đức nghề nghiệp là nền tảng trong nhân cách nhà giáo. Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của họ được duy trì thành nền nếp trong nhà trường dựa trên hệ thống các khuôn phép, quy tắc đạo đức nhằm định hướng, điều chỉnh nhận thức, đánh giá thái độ, hành vi của nhà giáo phù hợp với yêu cầu mô phạm của nghề dạy học. Với nghề dạy học, người dạy muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ phải luôn tinh thông về nghề nghiệp, tiêu biểu về tri thức khoa học, tư tưởng chính trị, văn hóa, đạo đức, lối sống.

Các hành vi vi phạm đạo đức nhà giáo hiện nay:

Cô giáo “cho phép’ học sinh tát bạn, bắt học sinh quỳ, “dạy” học sinh bằng roi, thầy giáo xâm hại tình dục học sinh,…

Một giáo viên cấp THCS ở Bình Định dùng “chiêu” đổ nước vào miệng để phạt học sinh

Mặt trái của cơ chế thị trường với những yếu tố tiêu cực của nó đã xâm nhập, tác động tới nhận thức của một bộ phận giáo viên góp phần làm hình thành nên ở họ lối sống bàng quan, thực dụng.

Không ít người đã không thể cưỡng lại được trước sức cám dỗ của vật chất. Sự tha hóa về đạo đức trước sức hút của đồng tiền đã dẫn tới những hành động mù quáng như việc cướp tiệm vàng của thầy giáo Nguyễn Xuân Khôi – giáo viên trường THPT Quỳnh Lưu 4 mới đây là một minh chứng điển hình.

Một số giáo viên đã không kiềm chế được mình trước sự ngỗ ngược, chậm tiến của học trò.

Mặc dù đã được đào tạo về nghiệp vụ từ những ngày còn ngồi trên ghế giảng đường, nhiều sinh viên sư phạm sau khi ra trường tiếp nhận công tác còn tỏ ra non yếu về nghiệp vụ sư phạm, thiếu hụt những kiến thức về tâm lý sư phạm. .

2. Các quy định về đạo đức nhà giáo.

Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo: Ban hành Quy định về đạo đức nhà giáo

Điều 3. Phẩm chất chính trị

1. Chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; thi hành nhiệm vụ theo đúng quy định của pháp luật. Không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ lý luận chính trị để vận dụng vào hoạt động giảng dạy, giáo dục và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.

2. Có ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành nghiêm sự điều động, phân công của tổ chức; có ý thức tập thể, phấn đấu vì lợi ích chung.

3. Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, tích cực tham gia các hoạt động chính trị, xã hội.

Điều 4. Đạo đức nghề nghiệp

1. Tâm huyết với nghề nghiệp, có ý thức giữ gìn danh dự, lương tâm nhà giáo; có tinh thần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ đồng nghiệp trong cuộc sống và trong công tác; có lòng nhân ái, bao dung, độ lượng, đối xử hoà nhã với người học, đồng nghiệp; sẵn sàng giúp đỡ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người học, đồng nghiệp và cộng đồng.

2. Tận tụy với công việc; thực hiện đúng điều lệ, quy chế, nội quy của đơn vị, nhà trường, của ngành.

3. Công bằng trong giảng dạy và giáo dục, đánh giá đúng thực chất năng lực của người học; thực hành tiết kiệm, chống bệnh thành tích, chống tham nhũng, lãng phí.

3. Thực hiện phê bình và tự phê bình thường xuyên, nghiêm túc; thường xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục.

Điều 5. Lối sống, tác phong

1. Sống có lý tưởng, có mục đích, có ý chí vượt khó vươn lên, có tinh thần phấn đấu liên tục với động cơ trong sáng và tư duy sáng tạo; thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

2. Có lối sống hoà nhập với cộng đồng, phù hợp với bản sắc dân tộc và thích ứng với sự tiến bộ của xã hội; biết ủng hộ, khuyến khích những biểu hiện của lối sống văn minh, tiến bộ và phê phán những biểu hiện của lối sống lạc hậu, ích kỷ.

3. Tác phong làm việc nhanh nhẹn, khẩn trương, khoa học; có thái độ văn minh, lịch sự trong quan hệ xã hội, trong giao tiếp với đồng nghiệp, với người học; giải quyết công việc khách quan, tận tình, chu đáo.

4. Trang phục, trang sức khi thực hiện nhiệm vụ phải giản dị, gọn gàng, lịch sự, phù hợp với nghề dạy học, không gây phản cảm và phân tán sự chú ý của người học.

5. Đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ; đấu tranh, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật và các quy định nghề nghiệp. Quan hệ, ứng xử đúng mực, gần gũi với nhân dân, phụ huynh học sinh, đồng nghiệp và người học; kiên quyết đấu tranh với các hành vi trái pháp luật.

6. Xây dựng gia đình văn hoá, thương yêu, quý trọng lẫn nhau; biết quan tâm đến những người xung quanh; thực hiện nếp sống văn hoá nơi công cộng.

Điều 6. Giữ gìn, bảo vệ truyền thống đạo đức nhà giáo

1. Không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi trái pháp luật, quy chế, quy định; không gây khó khăn, phiền hà đối với người học và nhân dân.

2. Không gian lận, thiếu trung thực trong học tập, nghiên cứu khoa học và thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục.

3. Không trù dập, chèn ép và có thái độ thiên vị, phân biệt đối xử, thành kiến người học; không tiếp tay, bao che cho những hành vi tiêu cực trong giảng dạy, học tập, rèn luyện của người học và đồng nghiệp.

4. Không xâm phạm thân thể, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người học, đồng nghiệp, người khác. Không làm ảnh hưởng đến công việc, sinh hoạt của đồng nghiệp và người khác.

5. Không tổ chức dạy thêm, học thêm trái với quy định.

6. Không hút thuốc lá, uống rượu, bia trong công sở, trong trường học và nơi không được phép hoặc khi thi hành nhiệm vụ giảng dạy và tham gia các hoạt động giáo dục của nhà trường.

7. Không sử dụng điện thoại di động và làm việc riêng trong các cuộc họp, trong khi lên lớp, học tập, coi thi, chấm thi.

8. Không gây bè phái, cục bộ địa phương, làm mất đoàn kết trong tập thể và trong sinh hoạt tại cộng đồng.

9. Không được sử dụng bục giảng làm nơi tuyên truyền, phổ biến những nội dung trái với quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước.

10. Không trốn tránh trách nhiệm, thoái thác nhiệm vụ, tự ý bỏ việc; không đi muộn về sớm, bỏ giờ, bỏ buổi dạy, cắt xén, dồn ép chương trình, vi phạm quy chế chuyên môn làm ảnh hưởng đến kỷ cương, nề nếp của nhà trường.

11. Không tổ chức, tham gia các hoạt động liên quan đến tệ nạn xã hội như : cờ bạc, mại dâm, ma tuý, mê tín, dị đoan; không sử dụng, lưu giữ, truyền bá văn hoá phẩm đồi trụy, độc hại.

3. Tự bồi dưỡng, rèn luyện và phấn đấu nâng cao phẩm chất đạo đức nhà giáo.

- Bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức nhà giáo phải được xem là việc làm trọng tâm, thường xuyên có tính lâu dài không chỉ trong nhận thức, mà quan trọng hơn là mỗi nhà giáo phải tự xây dựng kế hoạch thực hiện nâng cao đạo đức của mình qua từng năm học.

- Thường xuyên cụ thể hóa việc thực hiện “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Coi trọng việc đổi mới, khát vọng vươn lên, hoàn thiện văn hóa sư phạm, biết tự học để có hiểu biết sâu rộng về chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng sư phạm, luôn ý thức chấp hành tốt nhiệm vụ giảng dạy và giáo dục học sinh.

- Giữ gìn tình đoàn kết, thống nhất trong tập thể sư phạm, biết lắng nghe, sẵn sàng học hỏi và cầu tiến. Nêu cao tính nguyên tắc, tính kỷ luật, tính sư phạm các hoạt động giáo dục trong nhà trường.

- Sống và làm việc theo pháp luật của Nhà nước và quy định về đạo đức nhà giáo của Bộ GDĐT, thực hiện tốt cuộc vận động “Mỗi thầy cô giáo là tấm gương về đạo đức và tự học”.

- Luôn thể hiện sự chuẩn mực, tính sư phạm trong tác phong, lối sống, xử lý khéo tình huống trong các mối quan hệ với đồng nghiệp, với PHHS, với công việc, nhất là đối với học sinh.

- Về nhiệm vụ giảng dạy mỗi nhà giáo phải luôn nhận thức trách nhiệm của mình là “Dạy tốt và học tốt” là hai nhiệm vụ không thể thiếu trong nhà trường. Thầy muốn dạy tốt, ngoài việc trau dồi kiến thức, phải luôn tìm tòi trải nghiệm những phương pháp thích hợp tuỳ theo nội dung bài học và đối tượng học sinh.

Mẫu bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên Module GVPT 01 số 3

1. Thực trạng đạo đức nhà giáo hiện nay:

Xem xét thực trạng từ nhiều góc độ khác nhau, nhiều đại biểu cho rằng đại bộ phận nhà giáo nước ta hiện nay có phẩm chất đạo đức tốt, song vẫn còn bộ phận giáo viên thiếu gương mẫu, không đấu tranh với những gian dối trong giáo dục, thậm chí còn bị lôi cuốn vào những việc làm tiêu cực, làm tổn hại đến uy tín đội ngũ người thầy. Rất nhiều nguyên nhân đã được chỉ ra như tư duy giáo dục chậm đổi mới, mặt trái của nền kinh tế thị trường; công tác quản lý đội ngũ giáo viên còn hạn chế; việc thanh kiểm tra chưa kịp thời và không nghiêm minh; công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho nhà giáo còn bị coi nhẹ,…

PGS.TS Trần Thị Mai Phương, Trường Đại học sư phạm Hà Nội cho rằng, đạo đức nhà giáo trong bối cảnh hiện nay không chỉ là những phẩm chất, năng lực cá nhân mà đã trở thành chuẩn mực pháp luật. Trong đó, vấn đề đạo đức được hiểu là sự tổng hòa giữa 3 yếu tố gồm lý tưởng nghề, đạo đức nghề và kỹ thuật làm nghề. Trong bối cảnh cả nước đang chuẩn bị thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới, ngoài yêu cầu về trình độ chuyên môn, giáo viên phải đầu tư nhiều hơn vào phương pháp, kỹ năng và thủ thuật dạy học.

2. Những bài học từ việc giáo viên vi phạm đạo đức nhà giáo.

Những câu chuyện “động trời”

Nghi án về tin nhắn gạ tình của thầy giáo Trường THPT chuyên Thái Bình gửi nữ sinh lớp 10; vụ việc thầy giáo sờ mông, sờ đùi, véo tai học sinh lớp 5 ở Bắc Giang... khiến dư luận những ngày qua dậy sóng về tình trạng vi phạm đạo đức của giáo viên. Đáng tiếc những câu chuyện này không phải lần đầu xảy ra. Vào cuối tháng 12/2018, ông Đinh Bằng My, Hiệu trưởng Trường Phổ thông dân tộc nội trú THCS Thanh Sơn (Phú Thọ) bị bắt vì lạm dụng tình dục nhiều học sinh. Cũng trong tháng 12/2018, một thầy giáo dạy thể dục ở Gia Lai đã lừa chở nữ sinh lớp 8 đi chỉ đường, sau đó dùng vũ lực thực hiện hành vi đồi bại.

Không chỉ chuyện dâm ô, xâm hại tình dục, nhiều giáo viên cũng nhẫn tâm đánh đập, có những hình phạt học sinh đến mức gây thương tích. Vụ việc giáo viên phạt tát học sinh bằng 231 cái tát, đánh học sinh bầm tím, ép học sinh súc miệng bằng nước giặt giẻ lau bảng… Dẫu rằng đây chỉ là những hiện tượng cá biệt song những hành vi lệch chuẩn này đã làm mất đi hình ảnh cao đẹp của nhà giáo, làm giảm niềm tin của xã hội với giáo dục.

Lên án những trường hợp nhà giáo vi phạm đạo đức nghiêm trọng trong thời gian qua, GS.VS Phạm Minh Hạc – nguyên Bộ trưởng Bộ GD&ĐT cho rằng, hiện nay cả nước có tới hơn 1 triệu giáo viên, học sinh cũng tới trên 24 triệu học sinh, với một quy mô lớn như vậy, rất có thể sẽ nảy sinh ra các vi phạm của nhà giáo. Tuy nhiên, dù thế nào thì giáo viên cũng không thể đổ lỗi cho sức ép nào đó mới dẫn đến hành vi lệch chuẩn, vi phạm đạo đức nhà giáo, thậm chí xâm hại, xúc phạm thân thể học sinh. Những giáo viên vi phạm, cần căn cứ vào các quy định hiện nay để xem xét loại ra khỏi ngành giáo dục.

Để làm trong sạch môi trường giáo dục, theo PGS.TS Trần Xuân Nhĩ - nguyên Thứ trưởng Bộ GD&ĐT: “Những trường hợp giáo viên vi phạm đạo đức nhà giáo trong thời gian qua là những hiện tượng dị biệt, khó có thể chấp nhận được với những người như thế khi đứng trên bục giảng. Dù chỉ là cá nhân, song liên tiếp xảy ra các vụ việc còn cho thấy một bộ phận giáo viên hiện nay đang suy thoái về đạo đức gây mất niềm tin trong xã hội. Những vụ việc vi phạm đạo đức nhà giáo phải xử lý nghiêm và cương quyết đưa ra khỏi ngành”.

Cần loại bỏ nhà giáo không xứng đáng

Theo các nhà quản lý giáo dục, hiện nay Bộ GD&ĐT đã ban hành quy định về đạo đức nhà giáo; nhiều nhà trường cũng ban hành quy chế làm việc, trong đó quy định rõ những việc nhà giáo được làm và không được làm… Bên cạnh đó là một loạt các văn bản đề nghị các địa phương chỉ đạo, quán triệt, chấn chỉnh để nâng cao đạo đức nhà giáo trong các cơ sở giáo dục. Đặc biệt là phải xử lý nghiêm với những trường hợp vi phạm.

Nhiều ý kiến cho rằng, để khắc phục phải thực hiện đồng bộ cùng lúc nhiều giải pháp. Với giáo viên, phải ý thức được giá trị nghề nghiệp cũng như lòng tự trọng nghề nghiệp để luôn không ngừng phấn đấu, hoàn thiện bản thân. Về phía các nhà trường, cần phổ biến lại các quy định về đạo đức nhà giáo, đồng thời cho giáo viên phải ký cam kết không vi phạm. Trường hợp vi phạm cam kết, vi phạm đạo đức nghiêm trọng thì xem xét loại ra khỏi ngành. Trong tuyển chọn “đầu vào” sư phạm, bên cạnh việc dựa vào điểm số cũng cần xem xét thêm các yếu tố khác như lòng yêu nghề, phẩm chất đạo đức.

Về vấn đề giải pháp, GS.VS Phạm Minh Hạc cho rằng, chúng ta đã có các quy định, Luật Giáo dục, Bộ GD&DT cũng có một số các quy định khác như:Điều lệ nhà trường, quy định nhà giáo… Song cũng cần có những quy định cụ thể hơn về vấn đề này, để tránh tình trạng giáo viên vi phạm. Các văn bản luật cũng cần được hướng dẫn cụ thể, triển khai theo các cấp, quán triệt tới từng cán bộ, giáo viên về những hành vi giáo viên không được làm. Ngành Giáo dục cũng phải có sàng lọc, nếu những giáo viên không xứng đáng là thầy cô giáo thì nên sa thải.

3. Những những tấm gương đạo đức nhà giáo tác động đến hoạt động giáo dục đạo đức và dạy học học sinh:

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng sự nghiệp “trồng người” và công tác đào tạo những người kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và của nhân dân ta. Cho nên, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, mặc dù bận rộn với vô vàn công việc lãnh đạo công cuộc kháng chiến và kiến quốc nhưng Người vẫn rất quan tâm và giành nhiều thời gian cho sự nghiệp giáo dục. Đặc biệt, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, trong lễ khai giảng của năm học đầu tiên dưới chế độ mới – chế độ dân chủ nhân dân, Người đã viết thư gửi các em học sinh bày tỏ mong muốn và đặt niềm tin của mình vào thế hệ trẻ. Người viết: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”(1). Và theo Người, một trong những nhiệm vụ quan trọng của giáo dục, của các nhà trường là phải hết sức coi trọng giáo dục đạo đức cho người học, nhất là thế hệ trẻ.

4. Giáo dục đạo đức – mối quan tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với công tác giáo dục trong nhà trường

Trong suốt thời gian ở cương vị Chủ tịch nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không ngừng chăm lo, “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”. Trong đó, giáo dục đạo đức được Người đặt lên hàng đầu. Ngay từ năm 1926, khi đang ở Quảng Châu, Người đã gửi một bức thư cho đại diện Đoàn Thanh niên cộng sản Pháp tại Quốc tế Thanh niên cộng sản nêu rõ ý định muốn gửi 3 hay 4 học sinh qua Nga để các em được tiếp thụ một nền giáo dục cộng sản chủ nghĩa tốt đẹp.

Từ năm 1945 cho đến năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi thăm nhiều cơ sở giáo dục, dự nhiều hội nghị giáo dục ở Trung ương và ở các địa phương. Đến đâu, Người cũng đề cập và yêu cầu các lực lượng giáo dục, các trường học cần phải chú trọng giáo dục đạo đức cho học sinh. Trong buổi nói chuyện với nam nữ thanh niên, học sinh các trường trung học Nguyễn Trãi, Chu Văn An và Trưng Vương (Hà Nội) ngày 18 - 12 - 1954, Người dạy các em phải yêu đạo đức. Nói chuyện tại lớp học chính trị của giáo viên năm 1959, Người khẳng định rằng, đức phải có trước tài. Ngày 21 – 10 – 1964, đến thăm Trường Đại học Sư phạm Hà Nội – cái nôi đào tạo giáo viên nước nhà, Người đã nói: “Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất là quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng”(2). Không chỉ nói chuyện trực tiếp, Người còn gửi thư tới các nhà trường và giáo viên yêu cầu phải quan tâm tới công tác đức dục. Nhân ngày Quốc khánh 2 – 9 – 1948, Người gửi thư cho nam nữ chiến sĩ bình dân học vụ nhấn mạnh việc cần phải dạy các em “đạo đức của công dân”. Sau khi miền Bắc được giải phóng, giữa bộn bề công việc lãnh đạo công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới và đấu tranh thống nhất nước nhà, Người đã viết Thư gửi các em học sinh, trong đó yêu cầu các lực lượng giáo dục phải chú trọng giáo dục đạo đức. Và, trong Di chúc, Người đã căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”(3).

Với những việc Người đã làm và những lời dạy Người để lại, chúng ta có thể thấy rất rõ rằng, giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức nói riêng là một trong những tâm nguyện lớn nhất của Người.

5. Vì sao phải chú trọng giáo dục đạo đức?

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong sự nghiệp giáo dục, phải đặc biệt chú trọng giáo dục đạo đức. Trước hết, đó là vì sự nghiệp, vì cuộc sống của chính các em học sinh để sau này, các em trở thành những con người tốt, những công dân tốt, có ích cho bản thân, gia đình và đất nước. Người cho rằng, việc dạy trẻ cũng như trồng cây non. Cây non được trồng tốt thì sau này cây sẽ lên tốt. Dạy trẻ nhỏ tốt thì sau này các em sẽ thành người tốt. Theo Người, tài phải đi đôi với đức, đức đi đôi với tài, nếu chỉ có tài mà không có đức thì là người vô dụng. “Vì tương lai của con em ta”, đó là khẩu hiệu và cũng là nhiệm vụ Người giao cho đội ngũ các thầy giáo, cô giáo trong việc chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ.

Ngày nay, chúng ta thấy rằng, có nhiều học sinh chăm ngoan, học giỏi, đạt thành tích cao trong học tập, nghe lời cha mẹ, thầy cô, song cũng còn nhiều em mải chơi, lười học, làm trái lời cha mẹ, sa vào những tệ nạn xã hội. Vì thế, giáo dục đạo đức cần phải được chú trọng. Đây là nhiệm vụ vừa mang tính trước mắt, vừa mang tính lâu dài của nền giáo dục nước nhà.

Thứ hai, Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã lật nhào chế độ thực dân, phát xít và ngai vàng phong kiến, mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc. Song, những tư tưởng của chế độ cũ vẫn tồn tại dai dẳng và ảnh hưởng khá nặng nề trong đầu óc của nhiều người, làm ảnh hưởng không tốt đến thế hệ trẻ. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, phải dùng tinh thần và đạo đức mới để rửa gột những ảnh hưởng ấy.

Thứ ba, mỗi thời đại, mỗi chế độ xã hội có những tư tưởng và quan niệm khác nhau về đạo đức. Chế độ mới ở nước ta – chế độ dân chủ nhân dân – cũng cần phải có đạo đức mới. Nói chuyện tại Trường Cán bộ tự vệ mang tên Người, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đạo đức, ngày trước thì chỉ trung với vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng phải mới”. Đạo đức mới để làm nên con người mới: con người xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ của nhà trường dưới chế độ dân chủ nhân dân là đào tạo nên những con người có đạo đức, có kiến thức, văn hoá, kỹ năng lao động nghề nghiệp chứ không phải đào tạo ra “một lũ cao bồi”. Đồng thời, Người còn chỉ ra rằng, trong xã hội vẫn tồn tại tình trạng nhiều người có thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống lao động và đấu tranh của nhân dân, học để lấy bằng cấp, do đó giáo dục đạo đức mới chính là nhằm cải hoá những tư tưởng không đúng đắn đó.

Thứ tư, giáo dục đạo đức học sinh còn là vì tương lai của dân tộc. Nói chuyện tại Hội nghị cán bộ phụ trách thiếu nhi toàn miền Bắc ngày 19 – 2 – 1959, Người khẳng định rằng, công tác giáo dục thiếu niên, nhi đồng rất quan trọng, đó là nhiệm vụ đào tạo thế hệ tương lai cho Tổ quốc. “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Người cho rằng, nhiệm vụ của giáo dục là phải đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà. Đó là một trách nhiệm nặng nề nhưng rất vẻ vang của ngành giáo dục.

Giáo dục đạo đức có tầm quan trọng lớn lao, song không phải ở đâu và trong thời gian nào các lực lượng giáo dục cũng nhận thức được đúng đắn và đầy đủ tầm quan trọng của vấn đề. Điều này cũng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra. Ngày 14 – 1 – 1963, trong buổi họp với Ban Bí thư bàn về công tác tuyên giáo năm 1963, khi nghiêm khắc phê bình công tác giáo dục trong thời gian qua còn “máy móc”, “rập khuôn”, “học nhưng không hành”, ít chú ý tới giáo dục đạo đức, đạo đức công dân còn kém…, Người đã yêu cầu các cấp giáo dục cần phải chấn chỉnh ngay hiện tượng này.

6. Về nội dung giáo dục đạo đức

Trong những bài viết và trong các buổi nói chuyện tại các trường học, các cơ sở giáo dục và các hội nghị giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần giải thích về việc giáo dục đạo đức trong nhà trường là giáo dục những gì. Theo Người, nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh rất đa dạng, từ việc nhỏ cho tới việc lớn, từ quan hệ thầy trò, bạn bè trong nhà trường cho tới giáo dục thái độ, trách nhiệm của các em đối với gia đình, xã hội và Tổ quốc.

Về phía giáo viên, Người yêu cầu các thầy giáo, cô giáo phải luôn chú trọng việc giáo dục các phẩm chất đạo đức mới cho học sinh, đó là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu quý của công, giữ kỷ luật, giữ vệ sinh, học văn hoá.

Đối với các em học sinh – những người chủ tương lai của nước nhà, Người chỉ ra rằng, các em cần phải rèn luyện đạo đức cách mạng ngay từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường để có thể trở thành người công dân tốt, người cán bộ tốt. Với các em, đạo đức cách mạng là: yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; học tập tốt, lao động tốt; đoàn kết tốt, kỷ luật tốt; giữ gìn vệ sinh thật tốt; khiêm tốn, thật thà, dũng cảm. Trong nhà trường, các em phải luôn thi đua, thi đua giữa lớp này với lớp khác, giữa trường này với trường khác trong việc học và hành, nhằm làm cho nền giáo dục của nước ta phát triển tốt đẹp. Trong quan hệ với thầy, cô giáo, các em phải luôn luôn ngoan ngoãn, kính trọng, vâng lời cô giáo, thầy giáo. Bởi vì, cô giáo, thầy giáo là những người không chỉ dạy chữ mà còn dạy người, uốn nắn các em trở thành người tốt. Trong quan hệ bạn bè, các em phải thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau. Đối với cha mẹ, các em phải yêu kính và biết giúp đỡ cha mẹ. Đối với xã hội, tuỳ sức mình mà các em tham gia những việc có ích lợi chung.

Nói chung, Người dạy nhiều phẩm chất để các em trở thành người công dân tốt, song phẩm chất cao nhất là “trung với nước, hiếu với dân”. Tuy nhiên, trung và hiếu là những phạm trù trừu tượng, nếu chúng ta giáo dục lòng yêu nước cho các em mà cứ nói các em phải trung với nước, phải hiếu với dân thì điều đó sẽ gây cho các em sự mơ hồ. Là người nắm vững nghệ thuật giáo dục, khi nói với học sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh không nói “trung với nước, hiếu với dân”, mà Người thay bằng cụm từ yêu Tổ quốc, yêu đồng bào. Người dạy như thế vừa dễ hiểu, vừa dễ thực hiện.

Đi đôi với “yêu Tổ quốc, yêu đồng bào”, Người dạy các em phải biết ghét và biết chống. Đó là phải biết ghét những thế lực, những ai làm tổn hại tới lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, đi ngược lại với lợi ích của đất nước, của dân tộc. Lúc đó, những lực lượng làm tổn hại tới đất nước, tới đồng bào chính là thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Vì thế, Người dạy: “Các cháu phải ghét, ghét cay ghét đắng bọn thực dân Pháp, bọn can thiệp Mỹ, bọn Việt gian, bọn bù nhìn”(5). Còn về chống, các em phải biết chống lại những gì trái với quyền lợi của Tổ quốc, chống lại việc gì hay người nào phạm đến lợi ích chung của nhân dân.

7. Nói đi đôi với làm, phải nhân rộng những tấm gương “người tốt, việc tốt”

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, trong giáo dục đạo đức, nếu chỉ dùng lời nói thì kết quả sẽ không cao và không chắc chắn. Chẳng hạn, không thể chỉ nói yêu nước, yêu nhân dân chung chung, mà điều quan trọng là nhà trường và mỗi giáo viên cần phải dạy cho các em biết yêu như thế nào, như thế nào là yêu nước và yêu nước thì phải làm gì? Về việc này, Người giải thích: “Yêu Tổ quốc: Yêu như thế nào? Yêu là phải làm sao cho Tổ quốc ta giàu mạnh. Muốn cho Tổ quốc ta giàu mạnh thì phải ra sức lao động, ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Yêu nhân dân: Mình phải hiểu rõ sinh hoạt của nhân dân, biết nhân dân còn cực khổ như thế nào, biết chia sẻ những lo lắng, những vui buồn, những công tác nặng nhọc với nhân dân" Do đó, nhà trường phải biết kêu gọi, biết tổ chức cho các em tham gia đóng góp sức mình cho đất nước, cho quê hương. Song, Người cũng căn dặn là các trường cần phải căn cứ vào đối tượng, lứa tuổi, điều kiện học sinh mà phát động những phong trào thích hợp, tránh quá sức đối với các em. Về phía các em học sinh, Người cũng chỉ ra rằng, việc gì có ích cho Tổ quốc thì các em nên gắng sức làm, làm được bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Tuổi các em còn nhỏ thì các em làm những công việc nhỏ. Nhiều công việc nhỏ cộng lại thành công việc to.

Đồng thời với việc nói phải đi đôi với làm, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn cho rằng, trong giáo dục đạo đức cần phải phát hiện, động viên và khen thưởng kịp thời những gương người tốt, việc tốt để qua đó, tạo đà và nhân rộng các việc làm tốt trong học sinh. Bản thân Người cũng rất chú trọng tới việc này. Khi biết tin các cháu học sinh Trường Việt Bắc đã xung phong làm những việc như quét chợ, hái củi, bán bánh để dành dụm được 216.445 đồng mua công trái, Người đã gửi thư khen kịp thời. Khi biết tin em Nguyễn Thị Lương đã chịu khó đi mót lúa bán lấy tiền giúp bộ đội, Người đã gửi thư khen ngợi em. Giáo viên và học sinh khu X (cũ) cũng đã nhận được thư động viên, khen ngợi của Người khi có những hoạt động khá và có nhiều sáng kiến tham gia công cuộc kháng chiến. Những sáng kiến của Người về việc phát động những việc làm bổ ích đã làm dấy lên trong thiếu nhi cả nước phong trào Trần Quốc Toản và nhiều phong trào thiết thực khác…

Ngày nay, có nhiều học sinh không chỉ học giỏi trên lớp mà còn tích cực tham gia các hoạt động xã hội và nhiều phong trào. Điều đó giúp cho các em học được nhiều điều trong cuộc sống và trưởng thành hơn trong suy nghĩ về bản thân và xã hội.

8. Giáo viên phải gương mẫu

Nhận thấy vai trò to lớn của đội ngũ các thầy giáo, cô giáo – những người có ảnh hưởng trực tiếp tới việc hình thành nhân cách của học sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, để giáo dục học sinh thì người giáo viên trước hết phải gương mẫu, tận tâm với trẻ, với nghề. Người đã ví trẻ em như cái gương trong sáng, thầy tốt thì ảnh hưởng tốt, thầy xấu thì ảnh hưởng xấu, do đó muốn cho học sinh có đức thì giáo viên phải có đức.

Trong giáo dục đạo đức, Người không tán thành với hiện tượng nói không đi đôi với làm, nói một đường nhưng làm một nẻo, nói nhưng không làm. Người cho rằng, nếu người làm công tác giáo dục mà như thế thì giáo dục lại thành ra phản giáo dục. Theo Người, giáo viên luôn phải là tấm gương sáng cả về tri thức, nhân cách, tính chuyên cần lẫn về cách ăn mặc, lời ăn tiếng nói, bởi: “Trẻ em hay bắt chước, cho nên thầy giáo, cán bộ phụ trách, v.v. phải gương mẫu từ lời nói đến việc làm. Nếu các cô các chú bảo: “Các em phải siêng làm” nhưng các cô các chú lại đi ngủ, hoặc dạy “các em phải thật thà”, nhưng các cô các chú lại nói sai, hay bảo “các em phải giữ vệ sinh chung”, nhưng các cô các chú bẩn, như thế là không được. Dạy các cháu thì nói với các cháu chỉ là một phần, cái chính là phải cho các cháu nhìn thấy, cho nên những tấm gương thực tế là rất quan trọng. Muốn dạy cho trẻ em thành người tốt thì trước hết các cô các chú phải là người tốt”(7).

Nhận thấy trách nhiệm giáo dục các em trước hết thuộc về các thầy giáo, cô giáo, Người yêu cầu người giáo viên cần tuyệt đối tránh thái độ bàng quan, làm ngơ. Bởi vì, nếu thầy giáo, cô giáo mà bàng quan thì lại sẽ có một số công dân không tốt, cán bộ không tốt. Bên cạnh đó, để giáo dục đạo đức cho học sinh, Người cũng yêu cầu cần phải có sự tham gia, phối hợp giữa nhà trường với các lực lượng giáo dục khác là gia đình và xã hội. Về vấn đề này, trong Thư gửi các em học sinh đăng trên báo Nhân dân, số 600, ngày 24 – 10 – 1955, Người viết: “Giáo dục các em là việc CHUNG của gia đình, trường học và xã hội. Bố mẹ, thầy giáo và người lớn phải cùng nhau phụ trách”. Theo Người, sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục học sinh phải mang tính đồng bộ, nhất là trong nội dung giáo dục, tránh “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. Bởi, nếu nhà trường dạy tốt mà gia đình dạy ngược lại thì sẽ có những ảnh hưởng và kết quả không tốt. Cho nên, muốn giáo dục các cháu thành người tốt, nhà trường, đoàn thể, gia đình và xã hội phải kết hợp chặt chẽ với nhau.

Đến nay, dù Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa gần 40 năm, nhưng những tư tưởng của Người về công tác giáo dục đạo đức trong nhà trường vẫn còn nguyên giá trị. Thiết nghĩ, ngày nay, các thầy giáo, cô giáo và các lực lượng giáo dục cần vận dụng sáng tạo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ vào công tác giáo dục cụ thể, góp phần đào tạo nên những con người tốt, những công dân tốt cho nước nhà.

Mời bạn đọc cùng tham khảo thêm tại mục giáo dục đào tạo trong mục biểu mẫu nhé.

Đánh giá bài viết
8 38.410
Sắp xếp theo

Biểu mẫu Giáo dục - Đào tạo

Xem thêm