Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Cảm nhận bài thơ Tây Tiến - Đất Nước

So sánh hai bài thơ Tây Tiến - Đất Nước Ngữ văn lớp 12 là một dạng câu hỏi thường được đưa vào trong các bài kiểm tra, hoặc cũng có thể trong chương trình thi THPT Quốc Gia. VnDoc. com xin giới thiệu tới bạn đọc tài liệu: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến - Đất Nước. Mời các em học sinh tham khảo để có thể hiểu sự khác biệt và giống nhau giữa hai bài thơ.

1. Dàn ý Cảm nhận bài thơ Tây Tiến - Đất Nước

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu, anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

(Tây Tiến - Quang Dũng)

Em ơi em Đất nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất nước muôn đời

(Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm)

GỢI Ý LÀM BÀI

1. Đoạn thơ trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Nội dung

Câu thơ "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" toàn từ Hán Việt gợi không khí cổ kính:"biên cương","viễn xứ" là nơi biên giới xa xôi, nơi heo hút hoang lạnh. Nhà thơ nhìn thẳng vào sự khốc liệt của chiến tranh, miêu tả về cái chết, không né tránh hiện thực. Những nấm mồ hoang lạnh vô danh mọc lên dọc đường quân hành nhưng không làm trùn bước Tây Tiến. Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi luỵ. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lý tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lý tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Vì thế cho nên câu thơ tiếp theo dữ dội như một lời thề sông núi: "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh".

Chiến trường là đạn bom ác liệt là hy sinh mất mát. Đời xanh là tuổi trẻ của mỗi người, ai cũng quý cũng yêu. Vậy mà người lính lại "chẳng tiếc đời xanh". Câu nói ấy vang lên chắc nịch mang cái vẻ bất cần, mang cái vẻ ngạo nghễ rất lính. Họ đã ra đi không tiếc tuổi thanh xuân là họ đã hiến trọn đời mình cho Tổ quốc, đất nước. Bởi chết cho Tổ quốc chính là chết cho lý tưởng. Còn quyết tâm nào cao quý và thiêng liêng hơn thế nữa chăng? Ta chợt nhớ tới tích Kinh Kha sang đất Tần hành thích bạo chúa Tần Thuỷ Hoàng, bên bờ sông Dịch chàng dứt áo ra đi với khẩu khí yêng hùng tráng sĩ” Sông Dịch ù ù gió thổi/Tráng sĩ một đi không trở về”. Vậy là người lính cụ Hồ không chỉ mang vẻ đẹp của thời đại mà còn mang một vẻ đẹp cổ kính đượm màu hiệp sĩ xa xưa. Thật rằng, họ cũng có những tiếc nuối nhưng trên hết là vì lý tưởng:

Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình

(Tuổi hai mươi làm sao không tiếc)

Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc

(Thanh Thảo)

Áo bào là áo vua ban cho những người làm nên công trạng. Ở đây, điều kiện thiếu thốn đủ bề, người lính ra đi trong chiếu rách nhàu bọc lấy thân rồi vùi xuống đất. Nhưng qua câu thơ của Quang Dũng, manh chiếu rách ấy đã thành áo bào. Bởi vậy, cuộc tiễn đưa trở nên bi tráng. Nhà thơ vẫn gợi lên sự thật chung của cả thời chống Pháp là sự thiếu thốn về vật chất, ở vùng biên giới xa xôi thì sự thiếu thốn ấy còn nhân lên gấp bội. Người chiến sĩ đã ngã xuống không có một cỗ quan tài, thậm chí không có một tấm chiếu để liệm thân mà khi ngã xuống vẫn cứ mặc nguyên tấm áo thường ngày trên đường hành quân. Đó có thể là tấm áo sờn vai, tấm áo bạc màu, tấm áo có vài mảnh vá. Nhưng với thái độ trân trọng đồng đội, nhà thơ Quang Dũng đã thấy họ như đang mặc tấm áo bào của chiến tướng mà đi vào cõi vĩnh hằng, bất tử cùng sông núi.

Đoạn thơ kết thúc bằng một âm hưởng hào hùng. Dường như linh hồn của người tử sĩ đã hòa cùng sông núi, con sông Mã đã tấu lên khúc nhạc đau thương, hùng tráng để tiễn đưa người lính vào cõi bất tử. Hình tượng “sông Mã” ở cuối bài thơ được phóng đại và nhân hóa, tô đậm cái chết bi hùng của người lính – sự hi sinh làm cho lay động đất trời, khiến dòng sông gầm lên đớn đau, thương tiếc. Sự ra đi của người lính được Quang Dũng dùng nghệ thuật nói giảm nói tránh ”anh về đất” làm dịu đi cái đau thương nhưng không tránh cho người đọc khỏi ngậm ngùi. “Anh về đất” là về với đất mẹ. Đất mẹ giang rộng vòng tay đón các anh trở về sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ. Đặc biệt sự hi sinh ấy không chỉ làm cảm động đến con người mà còn làm cảm động đến cả thiên nhiên Tây Bắc. Con sông Mã xuất hiện ở đầu bài thơ trong nỗi nhớ chơi vơi của nhà thơ thì ở đoạn thơ này sông Mã lại xuất hiện trong tiếng gầm dữ dội. Đó là “khúc độc hành” của thiên nhiên đang tấu lên khúc nhạc thiêng liêng, trầm hùng đưa người lính về nơi an nghỉ cuối cùng.

Cả bài thơ Tây Tiến không có một trận đánh nào được nói tới, không có một tiếng súng nào vang lên mà cái chết vẫn hiện hình rõ nét, vẫn hiện lên một cách chân thật. Đó chính là cái nhìn mới về sự khốc liệt, nghiệt ngã của chiến tranh. Rất nhiều người lính đã hi sinh dọc đường hành quân, trên đường ra mặt trận. Họ hi sinh vì điều kiện sống, chiến đấu quá gian khổ, thiếu thốn: thiếu lương thực, thiếu muối, thiếu thuốc, lại sống ở những nơi rừng thiêng nước độc…

Nghệ thuật

  • Thành công của đoạn thơ là nhà thơ đã sử dụng nhiều từ Hán Việt gợi sắc thái cổ kính, trang nghiêm. Sử dụng nghệ thuật đối lập, nhân hóa, nói giảm nói tránh.
  • Lời thơ hàm súc vừa đượm chất hiện thực vừa gợi chất hào hùng, bi tráng.
  • Bút pháp lãng mạn và sử thi đã làm nên hình tượng người lính cụ Hồ trong chín năm kháng chiến gian lao mà oai hùng lẫm liệt.
  • Cảm xúc của nhà thơ rất chân thành; giọng điệu thơ có chút xót xa nhưng nổi bật là sự dứt khoát, mạnh mẽ làm nên sự bi tráng trong cái chết của người Tây Tiến.

2. Đoạn thơ trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm

Nội dung

Bốn câu thơ nhẹ nhàng, chân thành và tha thiết. Cách dùng đại từ “em” gợi cảm, gần gũi, thân mật đủ để làm “mềm hóa” những điều mang tính rộng lớn bao quát: đó là những suy niệm về Đất Nước. “Em ơi” trong câu thơ này không mênh mang, dìu dặt đưa người về cõi xa bên dòng sông Đuống, pha lẫn chút vị hư ảo trong câu thơ toàn vần bằng như “Em ơi buồn làm chi” (Bên kia sông Đuống – Hoàng Cầm). “Em ơi” ở đây là lời nói và tâm niệm của chàng trai với cô gái, người “đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”, là lời tâm tình của người yêu với người yêu. Chọn câu chuyện tình yêu nam nữ để nói lên tình yêu đất nước, phải chăng Nguyễn Khoa Điềm đã “mạo hiểm”? Không, chính tình yêu đất nước đã hòa lẫn trong câu chuyện tình yêu nam nữ mới tạo nên nét độc đáo hơn cho tác phẩm của nhà thơ.

Nguyễn Khoa Điềm đã khám phá một định luật rất mới “Đất Nước là máu xương của mình”. Đối với mỗi con người, máu xương là yếu tố cần thiết cho sự sống. Hình ảnh so sánh độc đáo ấy có hàm ý khẳng định: Đất nước là sự sống thiêng liêng đối với mỗi con người:

Ôi Tổ quốc ta ơi, ta yêu như máu thịt

Như mẹ cha ta, như vợ như chồng

Ôi Tổ quốc, nếu cần ta chết

Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông…

(Chế Lan Viên)

Ngoài ra, hình ảnh "máu xương" còn gơi lên trong lòng người đọc lịch sử đất nước với biết bao con người anh hùng đã hi sinh đời mình cho công cuộc bảo vệ Tổ quốc :

Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm

Có những ngày trốn học bị đòn roi

Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất

Có một phần xương thịt của em tôi.

(Giang Nam)

Cấu trúc của câu thơ cũng theo kiểu suy luận

Đất nước là…nêu lên một tiền đề. Từ tiền đề ấy, phải biết…/ phải biết…để làm nên… Câu thơ giàu chất duy lý nhưng không lên gân mà trở thành lời nhắn nhủ tha thiết. Ở đây có những từ tượng trưng rất đáng chú ý: máu xương, gắn bó, san sẻ, hóa thân, dáng hình, muôn đời. Sau rất nhiều suy nghĩ cụ thể về đất nước, đến đây nhà thơ khảng định Đất nước là máu xương của mình. Máu xương là sự sống. Rất ít trường hợp người ta ví một điều gì đó với máu xương, bởi nó có ý nghĩa biểu trưng cho sự thiêng liêng. Đất nước là máu xương có nghĩa là đất nước tồn tại như một sự sống và để có sự sống ấy hẳn phải có rất nhiều hi sinh. Quả đúng như vậy, biết bao con người, bao thế hệ đã ngã xuống cho sự sống còn của đất nước. Vì thế, mỗi một con ngườiphải biết gắn bó và san sẻ. San sẻ trách nhiệm, san sẻ niềm vui, niềm hạnh phúc cho nhau. Đất nước vĩ đại nhưng đất nước là một thực thể sống. Thực thể ấy không phải là sự tập hợp của những cá nhân rời rạc mà là một cộng đồng. Hóa thân cũng có nghĩa là dâng hiến. Thời bình, người ta dâng hiến sức lực, mồ hôi cho Tổ quốc. Thời chiến, người ta dâng hiến cả sự sống của mình. Sự dâng hiến ấy, theo suy gẫm của nhà thơ, là cuộc hóa thân. Bóng dáng của mỗi người đã làm nên bóng dáng quê hương xứ sở, đất nước. Không có sự hóa thân kia làm sao đất nước trường tồn, làm sao có được đất nước muôn đời! Những câu thơ in đậm chất duy lý cất lên như tiếng gọi của trái tim, vì thế nó thiết tha, thúc giục lòng người. Tinh thần này đã từng bắt gặp trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Đình Thi :

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

Hay:

Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!

Mẹ thà coi như chiếc lá bay

Chị thà coi như là hạt bụi

Em thà coi như hơi rượu say.

(Tống biệt hành – Thâm Tâm)

Một khi ra đi chiến đấu cho sự nghiệp cách mạng, người chiến sĩ bộ đội cụ Hồ quên hết tình riêng một lòng hướng về nhân dân đất nước.

Nghệ thuật

Thể thơ tự do với những câu thơ co duỗi nhịp nhàng, linh hoạt gợi về quá trình lịch sử đầy gian khổ của Đất Nước, gợi về sự hi sinh vĩ đại của nhân dân ta.

Thành công nghệ thuật của đoạn thơ này chính là sự vận dụng những yếu tố dân gian kết hợp với cách diễn đạt và tư duy hiện đại, tạo ra màu sắc thẩm mỹ vừa quen thuộc lại vừa mới mẻ. Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng tối đa tạo nên không khí, giọng điệu, không gian nghệ thuật riêng: vừa có sự bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa bay bổng, mơ mộng của ca dao, truyền thuyết nhưng lại mới mẻ qua cách cảm nhận và cách diễn đạt bằng hình thức thơ tự do. Có thể nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên đặc điểm nghệ thuật độc đáo của đoạn thơ này.

Đoạn thơ mang tính chính luận nhưng được diễn đạt bằng hình thức đối thoại, giọng điệu trữ tình kết hợp với biện pháp tu từ điệp ngữ. Từ Đất Nước được lặp lại jai lần kết hợp cách viết hoa đã tăng thêm sự tôn kính thiêng liêng, thể hiện quan niệm lớn: “Đất Nước của nhân dân”.

3. So sánh

Giống nhau

Tư tưởng của cả hai đoạn thơ đều là tư tưởng cao đẹp: cống hiến, dâng hiến tuổi trẻ mình cho đất nước, non sông.

Khác nhau

“Tây Tiến” với cảm hứng đất nước được gợi lên từ nỗi nhớ của người lính vùng cao về những năm tháng đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp với nỗi nhớ của nhà thơ về đồng đội, bằng kí ức về một thời oanh liệt của người trong cuộc. Đoạn thơ được viết bằng cảm xúc mãnh liệt chân thành, sự kết hợp bút pháp tả thực và lãng mạn. Đất Nước hoàn thành trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ tại mặt trận Trị Thiên bộc lộ cảm hứng đất nước qua cái nhìn tổng quát đưa đến những chiêm nghiệm mới mẻ, sâu sắc về đất nước: “Đất Nước” là tất cả những gì gắn bó máu thịt với mỗi con người. Bài thơ, đoạn thơ này nhằm thức tỉnh tuổi trẻ về trách nhiệm đối với Đất Nước – cũng là một cách kêu gọi tinh thần đấu tranh của tuổi trẻ.

Đoạn thơ trong bài Tây Tiến viết bằng thể thơ thất ngôn, có sử dụng nhiều từ Hán Việt trang trọng với giọng điệu thơ dứt khoát, mạnh mẽ, âm hưởng hào hùng để tô đậm hiện thực khốc liệt của chiến tranh và khẳng định sự bất tử của người chiến sĩ vô danh. Đoạn thơ trong bài thơ Đất Nước được viết bằng thể thơ tự do, giọng điệu tâm tình trò chuyện, từ ngữ giản dị, gần gũi nhằm khẳng định vai trò to lớn của nhân dân vô danh.

3. Kết bài

Qua hai đoạn thơ trong hai bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng và Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, các tác giả đã đem đến những nhận thức sâu sắc về vai trò của những người anh hùng vô danh. Họ đã “hóa thân cho dáng hình xứ sở - Làm nên Đất nước muôn đời”. Đó là những con người thầm lặng, giản dị mà cao cả, đáng kính vô cùng. Hai bài thơ cùng viết về đề tài những con người kháng chiến, nhưng ra đời trong hai hoàn cảnh lịch sử khác nhau nên đã có những nét tương đồng và sự khác biệt rất sâu sắc. Hai đoạn thơ trên đã đem đến cho chúng ta những cảm xúc sâu lắng về sự khốc liệt nghiệt ngã của chiến tranh, về lý tưởng cao đẹp của những chiến sĩ, về sự hy sinh thầm lặng của các thế hệ nhân dân để ta thêm yêu cuộc sống, yêu đất nước của chúng ta ngày hôm nay.

2. Cảm nhận bài thơ Tây Tiến - Đất Nước mẫu 1

Quang Dũng và Nguyễn Khoa Điềm đều là hai nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam. Nếu như tên tuổi của Quang Dũng gắn liền với "Tây Tiến" thì Nguyễn Khoa Điềm cũng được biết đến nhiều nhất qua "Đất nước". Hai tác phẩm sáng tác trong hai thời kì khác nhau nhưng lại có sự liên quan với nhau. Đặc biệt là hai đoạn trích trên. Nếu đoạn trích trong "Tây Tiến" nói về sự hi sinh của những người lính thời kì kháng chiến chống Pháp thì đoạn thơ của Nguyễn Khoa Điềm là sự tiếp nối truyền thống cha anh, Nguyễn Khoa Điềm đã kêu gọi mọi người có trách nhiệm đoàn kết, gắn bó thời kháng Mĩ.

Quang Dũng là nghệ sĩ đa tài (thơ, văn, nhạc, hoạ), cũng là một người lính, sống một đời lính oanh liệt, hào hùng. Quãng đời ấy đã trở thành cảm hứng đặc sắc trong thơ ông. Bài thơ Tây Tiến viết về người lính, về những chàng trai “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” – người lính Tây Tiến.

Tây Tiến là một đơn vị bộ đội thành lập đầu năm 1947. Thành phần chủ yếu là thanh niên trí thức Hà Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với bộ đội Lào, đánh tiêu hao lực lượng địch ở Thượng Lào, bảo vệ biên giới Việt Lào. Sau một thời gian hoạt động ở Lào, đoàn quân Tây Tiến trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52. Năm 1948, nhà thơ Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác, không bao lâu, ông nhớ đơn vị cũ sáng tác bài thơ này.

Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ, nhớ về đồng đội và địa bàn hoạt động của đoàn quân, nhớ về vùng đất mà bước chân hào hùng mà đoàn binh Tây Tiến đã đi qua – Tây Bắc. Vùng đất đó với thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ và thơ mộng, trữ tình, vùng đất ấy với những con người tài hoa, duyên dáng và nghĩa tình. Trên nền cảnh ấy là hình ảnh người lính Tây Tiến. Họ hiện lên thật ấn tượng với phẩm chất hào hùng đáng kính, họ đã hi sinh dọc đường hành quân, hi sinh dọc miền biên giới – họ đã hi sinh vì lí tưởng sống cao đẹp:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Đoạn thơ sử dụng rất nhiều từ Hán Việt mang sắc thái trân trọng, thể hiện khong khí trang nghiêm, lòng thành kính thiêng liêng của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội. Những từ ngữ ấy như những nén tâm nhang thắp lên đưa tiễn những người đã ngã xuống. CHính hệ thống từ ngữ ấy kết hợp với những hình ảnh giàu sức gợi (biên cương, chiến trường, áo bào, khúc độc hành) cũng tạo sắc thá cổ kính, gợi liên tưởng đến sự hi sinh oanh liệt của những anh hùng, dũng tướng sãn sàng chấp nhận cảnh “da ngựa bọc thây” đầy bi tráng trong văn học trung đại.

-Câu thơ đầu đoạn thơ sử dụng nhiều từ Hán Việt (biên cương, viễn xứ) nhưng sức nặng của cả câu lại dồn vào một từ thuần Việt: “mồ”. Mồ cũng là mộ nhưng không phải mộ theo đúng nghĩa. Đó chỉ là những nấm đất được đào vội, chôn mau ngay trên con đường hành quân vội vã để đoàn quân lại tiếp tục lên đường. Đặt trong không gian bao la, mênh mông hoang sơ của miền biên giới Việt – Lào, những nấm mồ ấy gợi lên bao nỗi xót xa.

-Trong câu thơ thứ hai, tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ (chiến trường đi) để nhấn mạnh đích đến của người lính, người chiến sĩ. Trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, sứ mênh đất nước rất mỏng manh, chiến trường là đích đến duy nhất, là sự lựa chọn đầy trách nhiệm của cả một thế hệ. Với họ, “đường ra trận mùa này đẹp lắm” và “cuộc đời đẹp nhất trên trận chiến chống quân thù”. Cách nói “chẳng tiếc đời xanh” cho thấy sự dứt khoát, lòng quyết tâm, coi thường gian nguy, coi thường cái chết. Họ sẵn sàng hiến dâng cả đời xanh, tuổi trẻ, quãng đời đẹp nhất cho tổ quốc, hơn thế nữa, tính mạng của họ cũng sẵn sàng hi sinh để làm nên dáng hình đất nước. Họ ra đi với tinh thần của cả thời đại “Người ra đi đầu không ngoảnh lại”. Đó là lí tưởng sống cao đẹp, hào hùng.

Viết về người lính và cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta, nhà thơ Quang Dũng rất chân thực, ông không hề né tránh hiện thực:

Áo bào thay chiếu anh về đất

“Áo bào thay chiếu” – một hình ảnh thực đến xót xa của chiến tranh. Nhưng cái thiếu thốn về vật chất lại được khoả lấp bằng sự hiên ngang, can trường của người lính. Từ Hán Việt và cách nói “Áo bào thay chiếu anh về đất” làm cho cái chết của người lính Tây Tiến trở nên trang trọng hơn rất nhiều, thiêng liêng hơn nhiều. Nhà thơ vẫn gợi lên sjw thật chung của cả thời chống Pháp là sự thiếu thốn về vật chất, ở vùng biên giới xa xôi thì sự thiếu thốn ấy còn nhân lên gấp bội. Người chiến sĩ đã ngã xuống không có một cỗ quan tài, thậm chí không có lấy một tấm chiếu để liệm thân mà khi ngã xuống vẫn cứ mặc nguyên tấm áo thường ngày trên đường hành quân. Đó có thể là tấm áo sờn vai, tấm áo bạc màu, tấm áo có vài mảnh vá. Nhưng với thái độ trân trọng đồng đội, nhà thơ Quang Dũng đã thấy họ như đang mặc tấm áo bào của chiến tướng mà đi vào cõi vĩnh hẳng, bất tử cùng sông núi. Cách nói “về đất” không chỉ là cách nói giảm, nói tránh mà mang ý nghĩa biểu tượng thiêng liêng. Cái chết không phải là ra đi vào cõi hư vô bất định mà là trở về, trở về với đất Mẹ yêu thương. Đất Mẹ cũng đã mở lòng đón những đứa con đầy trách nhiệm của mình trở về. Họ đã ra đi như thế đấy. Họ đã nằm lại nơi chân đèo, dốc núi nào đó trên con đường hành quân dầy gian khổ, nhọc nhằn, họ đã để lại mình nơi biên cương lạnh lẽo, hoang vắng. Nhưng họ đã ra đi vì lí tưởng, cái chết của họ dù diến ra rất nhiều, dù để lại nhiều xót xa trong lòng người đọc nhưng họ ra đi một cách rất thanh thản. Họ chỉ là “không bước nữa”, là “bỏ quên đời”, là “về đất” thôi chứ không phải là chết. các anh đã ngã xuống, đã “hoá thân cho dáng hình xứ sở” để rồi mỗi thế núi hình sông, mối tên đất tên làng đều có bóng hình các anh. Các anh hi sinh, trở về trong lòng Đất Mẹ để “cho cây đời mãi mãi xanh tươi”, để đem lại cho đất đai, cho quê hương đất nước sự sống bất tận.

Chứng kiến sự ra đi hào hùng của người lính Tây Tiến, “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Sông Mã mở đầu cho cuộc hành trình trở về Tây Tiến trong kí ức của nhà thơ, cũng là chúng nhân chứng kiến bao tâm tư, tình cảm, bao nỗi nhớ thương, chứng kiến bao chiến công oanh liệt của đoàn binh. Sông Mã cũng đã sẻ chia nỗi xót xa với Tây Tiến khi có những đồng đội hi sinh, là thân nhân đưa tiễn những người lính của đoàn quân ấy trở về với đất. Sự ra đi của các anh là những mất mát, thiếu hụt lớn lao không gì bù đắp được, để lại những tiếc thương, xót xa, hụt hẫng cho những người đồng đội, những người đang sống. Dòng sông mênh mang, chơi vơi trong tiếng gọi tha thiết nhớ thương của nhà thơ ở đầu bài thơ giờ đây nó gầm lên trogn cơn giận dữ kìm nén, trong đau thương uất nghẹn. Nó không hát, không thét, không khóc mà “gầm lên khúc độc hành”. Tiếng thác sông Mã gầm lên vang vọng giữa núi rừng dội lên những âm thanh trầm hùng trong lòng đồng đội. Nó như tiếng kèn chiêu hồn liệt sĩ, như tiếng đại bác nổ rung trời giận dữ, nó mang sắc thái của một lời thề cao cả. Đau thương đã biến thành sức mạnh, thành lòng căm thù, thành sự quyết tâm, ý chí sắt đá. Các anh đã quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Đặt cái chết của những người lính vô danh giữa một không gian rộng lớn với thiên nhiên hùng vĩ, hình ảnh người lính trở nên hiên ngang, lẫm liệt – ngay cả khi đã hi sinh. Dòng sông Mã thay lời những người đang sống, thay lời quê hương xứ sở cất lên khúc tráng ca tiến biệt người chiến sĩ về nơi vĩnh hằng để hoà cùng khí thiêng sông núi. Đất nước chúng ta đúng là đất nước của “những người chưa bao giờ khuất”.

Cả bài thơ Tây Tiến không có một trận đánh nào được nói tới, không có một tiếng súng nào vang lên mà cái chết vẫn hiện hình rõ nét, vẫn hiện lên một cách chân thực. Đó chính là cái nhìn mới về sự khốc liệt, nghiệt ngã của chiến tranh. Rất nhiều người lính đã hi sinh dọc đường hành quân, trên đường ra mặt trận. Họ hi sinh vì điều kiện sống, chiến đấu quá gian khổ, thiếu thốn: thiếu lương thực, thiếu muối, thiếu thuốc, lại sống ở những nơi rừng thiêng nước độc…

Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ trẻ tiêu biểu trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông giàu chất suy tư, cmar xúc nồng nàn, mãnh liệt về nhân dân, đất nước – thể hiện sâu sắc tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là trường ca Mặt đường khát vọng. Tác phẩm sáng tác năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên, một chiến trường nóng của thời chống Mĩ. Mục đích của tác phẩm: thức tỉnh tuổi trẻ đô thị miền Nam và tuổi trẻ cả nước về bộ mặt xâm lược và tội ác của đế quốc Mĩ để hướng về nhân dân, đất nước cùng đứng dậy đấu tranh hoà nhịp với cuộc đấu tranh của toàn dân.

Đoạn trích Đất Nước nằm ở phần đầu chương V của Mặt đường khát vọng nói về những cảm nhận, khám phá, suy tư mới mẻ của tác giả Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước (trên nhiều bình diện: bề dày lịch sử, chiều rộng của địa lí, chiều sâu văn hoá, phong tục tập quán, truyền thống), từ đó tác giả khẳng định tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân – nhân dân bình dị vô danh đã làm nên Đất Nước. Từ những nhận thức sâu sắc ấy, nhà thơ nhắc nhở mỗi người đang có mặt trong đất nước Việt Nam thiêng liêng quý báu của chúng ta rằng: Lịch sử đất nước là những thế hệ người anh hùng thầm lặng dựng xây và bảo vệ:

Có biết bao người con gái con trai

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã gợi nhắc về cả bề dày lịch sử bốn nghìn năm. Cha ông ta đã làm nên lịch sử oanh liệt bằng sự tiếp nối không ngừng nghỉ. Họ là biết bao người con gái con trai cần cù làm lụng chăm lo cho cuộc sống, vun vén cho gia đình khi đất nước hoà bình, nhưng họ đã sẵn sàng dâng hiến tuổi xanh, hiến dâng thân mình khi tổ quốc kêu gọi. Họ đã làm một cuộc chạy tiếp sức đầy nhọc nhằn, gian khó để dựng xây và bảo vệ, vun đắp và gìn giữ Đất Nước cho chúng ta hôm nay. Nhà thơ khéo léo nhấn mạnh vào vai trò, sức mạnh của lớp người trẻ tuổi (“giống ta lứa tuổi”) để thức tỉnh tuổi trẻ đất nước tự nguyện xả thân cứu nước, giữ nước. Đất Nước này được làm nên từ máu xương, từ sự hi sinh giản dị, bình tâm của những con người đã “ra đi không tiếc đời mình”.

Viết về lịch sử Đất Nước, tác giả không nhắc về những sự kiện lịch sử trọng đại, những người anh hùng nổi tiếng lưu danh sử sách mà ông viết về những người anh hùng vô danh mà vĩ đại vô cùng. Ngòi bút của ông thật tinh tế, khéo léo gợi những suy tư sâu xa trong lòng người đọc. Khi ông viết về công lao, vai trò to lớn của nhân dân đới với lịch sử Đất Nước thì câu thơ kéo ra rất dài. Nhưng khi viết về sự hi sinh thì câu thơ co ngắn lại: “Họ đã sống và chết – Giản dị và bình tâm”. Những từ ngữ “giản dị”, “bình tâm” và những từ đối lập ‘sống – chết” cho thấy nhân dân dã tự nguyện hi sinh cho sự sống bất tận của Đất Nước. Các thế hệ nhân dân đã hi sinh nhẹ nhàng, thanh thản. Họ thật cao cả, vĩ đại, phi thường – “không ai nhớ mặt đặt tên – nhưng họ đã làm ra Đất Nước”. Nhà thơ đã đặt những cái vĩnh hằng bên cạnh cái giản dị, vô danh để khẳng định, ngợi ca nhân dân, vai trò của nhân dân đối với Đất Nước. Qua đó, nhà thơ đã thể hiện niềm kính trọng, biết ơn đối với Nhân Dân.

Như vậy, qua phân tích ta thấy được cả hai đoạn thơ đều nói tới sự hi sinh thầm lặng của những người anh hùng vô danh để “làm nên Đất Nước muôn đời”. Hai đoạn thơ đều được viết ra bởi sự yêu thương, trân trọng, biết ơn của các tác giả - những người đang sống trong những giai đoạn lịch sử gian khổ mà hào hùng. Tuy nhiên, mỗi đoạn thơ cũng có nét đặc sắc, hấp dẫn riêng. Đoạn thơ trong bài Tây Tiến được viết trong những năm đầu của thời kì kháng chiến chống Pháp với nỗi nhớ của nhà thơ về đồng đội, bằng kí ức về một thời oanh liệt của người trong cuộc. Đoạn thơ được viết bằng cảm xúc mãnh liệt chân thành, sự kết hợp bút pháp tả thực và lãng mạn. Đoạn thơ trong bài Đất Nước được viết trong năm cuối của thời kì kháng chiến chống Mĩ. Trong cuộc kháng chiến, chúng ta có nhiều thắng lợi vẻ vang nhưng vận nước vẫn rất mong manh. Lúc này cần sự đóng góp của tất cả mọi lực lượng. Bài thơ, đoạn thơ này nhằm thức tỉnh tuổi trẻ về trách nhiệm đối với Đất Nước – cũng là một cách kêu gọi tinh thần đấu tranh của tuổi trẻ. Đoạn thơ trong bài Tây Tiến được viết bằng thể thơ thất ngôn, có sử dụng nhiều từ Hán Việt trang trọng với giọng điệu thơ dứt khoát, mạnh mẽ, âm hưởng hào hùng để tô đậm hiện thực khốc liệt của chiến tranh và khẳng định sự bất tử của người chiến sĩ vô danh. Đoạn thơ trong Đất Nước được viết bằng thể thơ tự do, giọng điệu tâm tình trò chuyện, từ ngữ giản dị, gần gũi nhằm khẳng định vai trò to lớn của nhân dân vô danh.

Qua hai đoạn thơ trong hai bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng và Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, các tác giả đã đem đến những nhận thức sâu sắc về vai trò của những người anh hùng vô danh. Họ đã “hoá thân cho dáng hình xứ sở - Làm nên Đất Nước muôn đời”. Đó là những con người thầm lặng, giản dị mà cao cả, đáng kính vô cùng. Hai bài thơ cùng viết về đề tài những con người kháng chiến, nhưng ra đời trong hai hoàn cảnh lịch sử khác nhau nên đã có những nét tương đồng và sự khác biệt rất sâu sắc. Hai đoạn thơ trên đã đem đến cho chúng ta những cảm xúc sâu lắng về sự khốc liệt nghiệt ngã của chiến tranh, về lí tưởng cao đẹp của những người chiến sĩ, về sự hi sinh thầm lặng của các thế hệ nhân dân để ta thêm yêu cuộc sống, yêu đất nước của chúng ta ngày hôm nay.

3. Cảm nhận bài thơ Tây Tiến - Đất Nước mẫu 2

Thơ là xúc cảm của người nghệ sĩ. Người viết thơ là người trải lòng với câu chữ. Nếu như Quang Dũng viết “Tây Tiến” để trải nỗi nhớ về một Tây Tiến xa xôi, để thương , để nhớ trong lòng người đi xa, thì với Nguyễn Khoa Điềm, ông đã ghi lại “Đất Nước” bằng tất cả lòng tự hào, gắn bó thân thương. Hai bài thơ, hai tác giả nhưng đã gặp nhau trong tư tưởng và tinh thần Cách Mạng cao đẹp.

Quang Dũng là nhà thơ, nhà soạn nhạc, nhưng cũng đồng thời là người chiến sĩ trực tiếp hành quân cùng binh đoàn Tây Tiến trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc. Năm 1948, khi rời xa đơn vị tại Phù Lưu Chanh, nhà thơ đã viết “Tây Tiến” để tìm về những năm tháng hào hùng và bi tráng của đời và đồng đội. Đúng như nhà phê bình Đặng Anh Đào từng nhận xét: “Tây Tiến là khúc độc hành để Quang Dũng và những người đồng đội tìm về đoạn đời chiến binh gian khổ mà hào hùng.” Bước sang giai đoạn cuộc kháng chiến chống Mỹ, chúng ta được tiếp cận với tác phẩm “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ . Ông xuất thân từ một gia đình trí thức cách mạng ở Huế, bản thân ông tham gia trực tiếp vào phong trào đấu tranh sinh viên nên thơ Nguyễn Khoa Điềm rất giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén mang tâm tư của người trí thức….Đất nước là phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng, viết năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang hết sức khốc liệt. Hai bài thơ ra đời đánh dấu hai cột mốc quan trọng trong lịch sử dân tộc.

Ra đời giữa không khí hào hùng, máu lửa của cuộc chiến tranh giành độc lập, Quãng Dũng và Nguyễn Khoa Điềm đều thổi vào hai bài thơ linh hồn của non sông đất nước cùng tư tưởng cao đẹp: cống hiến tuổi thanh xuân cho sự nghiệp gìn giữ hòa bình, tự do cho Tổ quốc. Cảm hứng chủ đạo của Tây Tiến” là nỗi nhớ, nhớ về đồng đội và địa bàn hoạt động của đoàn quân, nhớ về vùng đất mà bước chân hào hùng mà đoàn binh Tây Tiến đã đi qua – Tây Bắc. Đó là mảnh đất vùng cao của Tổ quốc với đèo cao núi dốc, non nước mênh mông, và cũng chính là nơi đóng quân của binh đoàn Tây Tiến. Họ hàng ngày hành quân trên những cung đường gập ghềnh, gian khổ, sẵn sàng đe dọa tính mạng của bất kì bước chân lỡ nhịp nào.

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Nhưng không vì gian khổ mà nản chí, vì khó khăn mà chùn bước, những người lính của binh đoàn Tây Tiến vẫn không ngừng nỗ lực, sẵn sàng cống hiến cả tuổi thanh xuân của mình để bảo vệ cho độc lập, tự do của đất nước. Đó là ý chí chiến đấu vượt lên thử thách, bệnh tật: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/ Quân xanh màu lá dữ oai hùm”, là tinh thần lạc quan ngay cả khi ngã gục vì bom đạn chiến tranh: “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời!” và trên tất cả đó là tư tưởng cao đẹp dâng hiến sức trẻ, hi sinh vì lý tưởng cao đẹp của Đảng, của đất nước.

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Đoạn thơ sử dụng rất nhiều từ Hán Việt mang sắc thái trân trọng, thể hiện không khí trang nghiêm, lòng thành kính thiêng liêng của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội, đồng thời cũng gợi liên tưởng đến sự hi sinh oanh liệt của những anh hùng, dũng tướng sẵn sàng chấp nhận cảnh “da ngựa bọc thây” đầy bi tráng trong văn học trung đại. Những chiến binh Tây Tiến đều là những chàng trai trẻ, rời xa giảng đường, rời xa những hoài bão tuổi trẻ để lên đường đi cứu nước. Bước vào trận chiến, không ai chắc còn hay mất, những họ vẫn kiên quyết cất bước ra đi, và có lẽ không ít người đã bỏ mạng nơi xứ người. Họ nằm xuống giữa mảnh đất xa lạ, nhưng đó là sự hi sinh đáng quý cho một điều thân quen và cao cả- đất nước. Không cất niệm, an táng, tất cả những gì theo họ ngay khi nằm xuống cũng chỉ có manh chiếu cuốn vội của những đồng đội cùng chung lý tưởng. Họ đắp cho nhau manh chiếu nhỏ, cũng là đắp cho nhau tình thương, lời chia tay chân thành nhất. “Anh về đất”-ba chữ nghe thật giản dị và thân quen. Họ không chết, họ chỉ đang quay trở về với đất mẹ, với nơi đã sinh thành gắn bó với cuộc đời mình mà thôi. Đoạn thơ kết thúc bằng một âm hưởng hào hùng. Dường như linh hồn người tử sĩ đã hòa cùng sông núi, con sông Mã đã tấu lên khúc nhạc đau thương, hùng tráng để tiễn đưa người lính vào cõi bất tử. Nỗi nhớ Tây Tiến trong Quang Dũng luôn cuồn cuộn dâng trào, thổn thức cả hình cả tiếng, gợi về một thời oanh liệt với lý tưởng chiến đấu, hi sinh vĩ đại của thế hệ thanh niên trẻ yêu nước.

Cùng chung tư tưởng cao đẹp ấy, Nguyễn Khoa Điềm đã viết nên “Đất nước” với những vần thơ dung dị, giàu giá trị biểu đạt sâu sắc. Nhà thơ gợi ra những băn khoăn và miệt mài đi tìm về cội nguồn của quê hương, đất nước.

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

Tác giả tìm về từ cổ tích, sự tích đến những thần thoại lưu trang vàng lịch sử dân tộc, từ đó giúp bạn đọc có cái nhìn rõ nét về chiều sâu lịch sử và thêm trân trọng, nâng niu bề dày văn hóa đó. Tình yêu nước của Nguyễn Khoa Điềm gắn liền với sự hiểu biết, gắn bó sâu nặng với quê hương, đất nước. Bởi lẽ, ông không chỉ hiểu, chỉ biết mà còn coi đất nước là một phần xương máu của chính mình.

“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời”

Nguyễn Khoa Điềm đã dựng nên cuộc trò chuyện thân mật giữa “anh” và “em”, giữa đôi lứa yêu nhau góp phần làm lời thơ mềm mại, nhẹ nhàng hơn. Sự sáng tạo độc đáo của nhà thơ nằm trong chính cách xưng hô đặc biệt này, khi mượn chuyện tình cảm đôi lứa để nói vấn đề chính luận. Phải chăng tình yêu nam nữ đã hòa nhịp cùng tình yêu đất nước, làm nên cái đằm thắm, nồng say của men tình? Phải chăng, cái tôi cá nhân đã hòa nhập trọn vẹn với cái ta chung cộng đồng. Bên cạnh đó, Nguyễn Khoa Điềm đã khám phá một định luật rất mới “Đất Nước là máu xương của mình”. Hình ảnh so sánh độc đáo ấy có hàm ý khẳng định: Đất nước là sự sống thiêng liêng đối với mỗi con người.

“Ôi Tổ quốc ta ơi, ta yêu như máu thịt

Như mẹ cha ta, như vợ như chồng

Ôi Tổ quốc, nếu cần ta chết

Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông…”

(Chế Lan Viên)

Từ hành trình đi tìm cội nguồn đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã cất lên tiếng nói nhắc nhở thế hệ trẻ về ý thức tự tôn dân tộc sâu sắc. Đó là sự “gắn bó, san sẻ ” và “hóa thân cho dáng hình đất nước”. Thế hệ mai sau phải luôn gần gũi, gắn bó với mảnh đất quê hương, luôn thắp lên cho mình ngọn lửa của tình yêu nước và ý thức cống hiến sức người, sức của, hòa nhập vào bóng hình đất nước. Lý tưởng cao đẹp ấy luôn được Đảng soi đường chỉ lối, hướng dân tộc ta, đồng bào ta đến bến bờ ấm no, hạnh phúc.

Tuy gặp nhau trong tư tưởng, nhưng bằng cái “tôi” cá nhân độc đáo của mỗi thi sĩ cùng hoàn cảnh lịch sử của hai cuộc kháng chiến khốc liệt, “Tây Tiến” và “Đất nước” đã lưu dấu những ấn tượng riêng đặc biệt trong cả nội dung và nghệ thuật. Nếu như Tây Tiến được viết bằng thể thơ thất ngôn, có sử dụng nhiều từ Hán Việt trang trọng với giọng điệu thơ dứt khoát, mạnh mẽ, âm hưởng hào hùng để tô đậm hiện thực khốc liệt của chiến tranh và khẳng định sự bất tử của những người lính vô danh, thì “Đất Nước” được viết bằng thể thơ tự do, giọng điệu tâm tình trò chuyện, từ ngữ giản dị, gần gũi nhằm khẳng định vai trò to lớn của nhân dân vô danh. Nếu như “Tây Tiến” với cảm hứng đất nước được gợi lên từ nỗi nhớ của người lính vùng cao về những năm tháng đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, thì bước sang những vần thơ của Nguyễn Khoa Điềm, “Đất Nước” được hoàn thành trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ tại mặt trận Trị Thiên bộc lộ cảm hứng đất nước qua cái nhìn tổng quát đưa đến những chiêm nghiệm mới mẻ, sâu sắc về đất nước: Đất nước là tất cả những gì gắn bó máu thịt với mỗi con người.

Hai bài thơ “Tây Tiến” và “Đất nước” , mỗi tác phẩm ra đời trong một thời khắc riêng, được chắp cánh bởi hai tâm hồn có cá tính riêng đều mang trong mình sức sống riêng bền lâu, sâu sắc trong lòng mỗi thế hệ bạn đọc. Qua đó, thắp lên trong lòng đọc giả tình yêu cùng ý thức trách nghiệm cao đẹp với quê hương, đất nước.

4. Cảm nhận bài thơ Tây Tiến - Đất Nước mẫu 3

Đất nước trong mỗi người, chỉ có một nhưng lại mang hình hài khác nhau, mang theo những câu chuyện khác nhau. Với Quang Dũng, đó là hình ảnh:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

(“Tây Tiến” – Quang Dũng)

“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời”

(“Đất Nước”- Nguyễn Khoa Điềm)

Quang Dũng và Nguyễn Khoa Điềm được coi là những thế hệ nhà tiêu biểu của hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc: kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Nếu Quang Dũng là bông hoa nở rộ giữa rừng thơ chân thực, dân dã với vẻ đẹp hào hoa, kiêu hùng thì Nguyễn Khoa Điềm lại nổi bật giữa những áng thơ gân guốc, bụi bặm bởi phong cách trữ tình, chính luận rất riêng. Quang Dũng viết “Tây Tiến” từ nỗi nhớ, bằng nỗi nhớ và trong nỗi nhớ. Tây Tiến là tên một đơn vị quân đội thành lập năm 1947, có nhiệm vụ cùng quân đội Lào bảo vệ vùng biên giới Việt-Lào và miền Tây Bắc Bộ Việt Nam. Cuối năm 1948, khi buộc phải rời quân đoàn đi làm nhiệm vụ khác, nỗi nhớ về Tây Tiến và núi rừng, con người Tây Bắc đã giúp ông viết lên bài thơ. Còn Nguyễn Khoa Điểm viết “Đất nước” bởi sự ý thức, bằng tinh thần trách nhiệm và hướng tới sự thức tỉnh. “Đất nứơc” là phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng, viết năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang hết sức khốc liệt, tư tưởng của lớp thanh niên trí thức ở miền Nam đang dần bị lung lay. Bài thơ như một sự khẳng định, thức tỉnh và cảnh tỉnh con người.

Đầu tiên, ta có thể cảm nhận được hình ảnh đất nước thật hào hùng mà cũng bi tráng trong sự hi sinh anh dũng của con người:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

Câu thơ là một trong những bức tượng đài bi tráng nhất của người lính Việt Nam. Nơi viễn xứ, những con người ấy chỉ còn là áo vải mong manh. Cái bi, cái mất mát trong chiến tranh là chẳng thể nào chối bỏ. Vì thế, Nguyễn Duy từng đúc kết một cách đau xót: “Kì quan nào chẳng hắt bóng xót xa” (“Đứng trước tượng đài Kiev). Nhưng bi mà không hề lụy. Câu thơ sử dụng hệ thống những từ Hán Việt: “biên cương” “viễn xứ”, “chiến trường”, “áo bào”, “độc hành” làm cho không khí trở nên trang giọng, lời thơ trầm lắng, giọng thơ trầm hùng, bi tráng. Lại một cách nói chủ động: “chẳng tiếc đời xanh” khẳng định khí thế ngang tàng của những bậc nam nhi coi cái chết nhẹ tựa hồng mao. Hình ảnh “áo bào” gợi về bóng dáng những Kinh Kha bên bờ sông Dịch: “Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn” cùng biện pháp nói giảm nói tránh càng làm cho người lính hiện lên cao đẹp. Cái chết đối với họ, đơn giản chỉ là sự trở về khi mình đã sống và chiến đấu hết mình trong một tâm thế ung dung, nhẹ nhàng. Trước đây, khi nhắc đến những câu thơ này của Quang Dũng, người ta thường thấy ở đó những biểu hiện tiêu cực của “mộng rớt”, “buồn rớt” hay “yêng hùng tư sản”. Cái khẩu khí của nhà thơ, của những anh bộ đội Tây Tiến ấy, thực ra, vô cùng đáng trọng. Nó là biểu hiện quyết tâm của những con người yêu giống nòi, sẵn sàng đổ máu hi sinh vì những lẽ sống lớn lao. Họ không phải nạn nhân, những con tốt đen vô danh vô nghĩa trên bàn cờ trận mạc mà là những “chủ thể đầy ý thức của lịch sử”, biết sống đẹp từng giây phút, biết ước mơ, hi vọng và khi cần thì sẵn sàng hiến dâng. Những câu thơ của Quang Dũng thực sự ngang tầm vóc với các chiến sĩ đã bỏ mình vì nghĩa lớn. Sự ra đi của họ lại được cất lên thành khúc “độc hành” của sông Mã đầy uy nghiêm và trang trọng. Tầm vóc con người đã sánh ngang tầm vũ trụ.

Nhận thức được điều đó, Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định một lần nữa:

“Em ơi em

Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời”

Đoạn thơ mở đầu bằng đại từ xưng hô “Em”- một người vô danh, là người en gái, những “em gái hái măng một mình” trong thơ Tố Hữu? Hay là tất cả những thế hệ đi sau, phía sau? Cũng là lời gửi gắm đến chính mình. “Em ơi em” là cho câu thơ như mềm ra, nhẹ nhàng như những lời tâm sự, dặn dò ân cần của “anh” cho “em”. Chính điều đó giúp cho thơ của Nguyễn Khoa Điềm viết về chính trị mà không khô khan, là chính luận nhưng cũng đậm chất trữ tình. Em phải nhớ: “Đất nước là máu xương của mình”. Một cách định nghĩa rất cụ thể và rất mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm: ý niệm phi hình thể được hữu hình như “máu xứng của mình” – là một phần cơ thể, không thể thay thế, không thể cắt bỏ, tách rời; đồng thời cũng là máu xương, mồ hôi và cả linh hồn của những người lính như người lính Tây Tiến phải chịu cảnh “rải rác biên cương mồ viễn xứ”. Vì thế chúng ta “phải biết gắn bó và san sẻ” – sự yêu thương và sẻ chia, đoàn kết; “hóa thân cho dáng hình xứ sở”- biết bỏ cái tôi, cái ích kỷ để làm một phần của đất nước, sẵn sàng hi sinh, sẵn sàng dâng hiến. Điệp từ “Phải biết”, không chỉ đơn giản là sự gợi nhắc mà đã trở thành yêu cầu, là sự thức nhận ý thức trách nhiệm của mỗi công dân, thể hệ trẻ đối với hai tiếng “Đất nước” đã cưu mang mình để làm nên “đất nước muôn đời” mãi mãi vững mạnh.

Như vậy, đối với cả Quang Dũng hay Nguyễn Khoa Điềm, đất nước là tất cả những gì rất thiêng liêng và cao cả nhưng cũng rất đỗi gần gũi, giản dị. Với Quang Dũng, đất nước là sự hào hùng, bi tráng của những con người đã dũng cảm “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Hiểu được Điều đó, Nguyễn Khoa Điềm đã tái khẳng định cũng như xác nhận trách nhiệm của thế hệ trẻ với đất nước. Cuối cùng, đều chính là tư tưởng đóng góp, dâng hiến hết mình cho Tổ quốc. Nhưng nếu “Tây Tiến” đã trở thành địa chỉ của thương nhớ với những từ Hấn Việt trang trọng, giọng thơ dứt khoát, âm hưởng hào hùng thì “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm lại là cái nhìn mới mẻ, sâu sắc, toàn hiện về những khái niệm tưởng như đã quá quen thuộc được viết bằng thể thơ tự do, từ ngữ giản dị, giọng điệu tâm tình thủ thỉ. Dòng chảy của văn học Việt Nam đã qua được ngàn đời và còn tiếp tục chảy dài bởi sự tiếp thu và cách tân, bởi những điểm gặp gỡ và độc đáo riêng như vậy.

Bom đạn đã qua đi, những chiến tuyến được lập lên rồi lại san bằng nhưng những câu thơ kia còn sống mãi. Đó là câu thơ của một thời, của chân lí thời đại.

Trên đây VnDoc.com vừa giới thiệu tới các bạn Cảm nhận bài thơ Tây Tiến - Đất Nước, mong rằng qua bài viết này các bạn có thể học tập tốt hơn cho môn Ngữ văn 12. Mời các bạn cùng tham khảo thêm các môn Toán 12, Tiếng Anh 12, đề thi học kì 1 lớp 12, đề thi học kì 2 lớp 12...

Mời bạn đọc cùng tham gia nhóm Tài liệu học tập lớp 12, Ôn thi khối C để có thêm tài liệu học tập nhé

Chia sẻ, đánh giá bài viết
1
Chọn file muốn tải về:
Chỉ thành viên VnDoc PRO tải được nội dung này!
79.000 / tháng
Đặc quyền các gói Thành viên
PRO
Phổ biến nhất
PRO+
Tải tài liệu Cao cấp 1 Lớp
Tải tài liệu Trả phí + Miễn phí
Xem nội dung bài viết
Trải nghiệm Không quảng cáo
Làm bài trắc nghiệm không giới hạn
Mua cả năm Tiết kiệm tới 48%
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Lớp 12

    Xem thêm