Kỹ năng giao tiếp và đàm phán với người nước ngoài (tiếp)
VnDoc xin giới thiệu bài Kỹ năng giao tiếp và đàm phán với người nước ngoài (tiếp) được chúng tôi sưu tầm và giới thiệu nhằm giúp các bạn nắm bắt kiến thức môn học một cách tốt hơn để có thể học và hoàn thành bài thi môn học một cách hiệu quả.
Lưu ý: Nếu bạn muốn Tải bài viết này về máy tính hoặc điện thoại, vui lòng kéo xuống cuối bài viết.
Bài: Kỹ năng giao tiếp và đàm phán với người nước ngoài (tiếp)
Giao tiếp với người ở khu vực Đông Nam Á
Ở các nước Đông Nam Á, khi giao dịch không nên ngồi vắt chân chữ ngũ, nếu không sẽ phá vỡ cơ hội làm ăn. Nếu vô tình lắc chân, để cho đế giày hướng vào đối phương thì đàm phán coi như thất bại. Dù bạn có vô ý chạm vào đối phương cũng bị coi là không thể tha thứ.
Giao tiếp với người Anh
Nước Anh là xứ xở của Shake hand (bắt tay). Mặc dù người Anh được coi là người sáng tạo ra cái bắt tay, nhưng họ chỉ dùng một cách rất hạn chế; họ dành cho những dịp lớn: Những buổi giới thiệu trịnh trọng, những buổi khen tặng, đi xa,… Theo thông lệ, ở Anh quốc, tốt nhất là bạn nên chờ họ đưa tay ra trước. Đối với một số người (đặc biệt là phụ nữ) họ chỉ làm dấu bằng đầu. Nếu họ làm điều đó, bạn cũng nên bắt chước theo. Không nên hôn tay phụ nữ ở nước Anh.
Người Anh xem như là bất lịch sự khi nói chuyện với một người nào đó mà không được giới thiệu.Tại Anh, xưng hô nên dùng các giới từ Sir hay Madam có nghĩa là ông hay bà. Tốt nhất ta nên được coi là lịch sự quá đáng hơn là bị coi là thiếu giáo dục. Bạn không nên gọi một người bằng tên với kiểu này như Sir Nam hay Sir Colin mà nên gọi bằng họ hay cả họ và tên như Sir Fillbank hay Sir Colin Pine.
Người Anh coi trọng chuyện riêng tư và kín đáo. Do đó, khi bạn đến văn phòng của họ, đừng bao giờ liếc nhìn hay thậm chí xem những giấy tờ và văn thư của họ.
Khi tiếp xúc với người Anh, bạn nên để vòng đeo tay và nhẫn quý ở nhà bởi vì họ không có thói quen tin tưởng đàn ông dùng đồ trang sức.
Ngày làm việc của người Anh thường bắt đầu từ 9 giờ sáng và kết thúc vào lúc 5 giờ chiều. Các bữa tiệc làm ăn thường diễn ra vào buổi trưa.
Một đặc điểm nữa cần lưu ý là tuyệt đối không được bông đùa về Nữ hoàng Anh.
Giao tiếp với người Pháp
Người Pháp có thói quen dùng cả thân thể để truyền đạt ý nghĩa khi nói chuyện: Mắt, tay. Do đó, cách tốt nhất là bạn nên học những cử chỉ này trước khi đàm phán với đối tác là người Pháp. Đừng bao giờ đút tay vào túi khi nói chuyện với người Pháp.
Người Pháp có thói quen bắt tay khi đến và khi ra về.
Người Pháp rất coi trọng những người biết ngôn ngữ của mình. Dù bạn có nói sai đến đâu cũng dễ dàng được chấp nhận hơn là không biết một chút nào.
Giữa những người quen biết thân thiện hay người trong gia đình, lúc đến lúc đi, một cái hôn ở hai bên má là chuyện thường tình, ngay cả khi trước đám đông. Tuy nhiên, bạn nên nhớ điều này không có trong quan hệ làm ăn giữa những người đàn ông mà chỉ giũa người đàn ông với người đàn bà hay giữa hai người đàn bà với nhau hay giữa hai người đàn ông trong cùng một gia đình.
Người Pháp rất nghiêm túc trong công việc. Ngày làm việc bắt đầu từ 8:30, nghỉ ăn trưa lúc 12:30 và làm việc lại lúc 3 giờ hay 3:30 cho đến 6 giờ hay 6:30. Là du khách, doanh nhân lịch sự, bạn phải biết sửa soạn ăn uống một mình trong giờ ăn trưa vì lúc này nhiều người sẽ về nhà ăn trưa hay nghỉ trưa.
Người Pháp rất cẩn trọng đối với những ai đường đột đến đề nghị làm ăn với họ. Họ tôn trọng các truyền thống của châu Âu đòi hỏi các công ty cũng như các cá nhân phải được giới thiệu đàng hoàng. Do đó, khi tiếp xúc làm ăn, bạn nên nhắc đến tên những người họ biết và nể trọng. Một nguyên tắc cần ghi nhớ đó là bạn bắt buộc phải hẹn trước và nếu được phải có xác nhận bằng thư. Nếu họ không đề nghị được gọi bằng tên thì bạn cần dung Monsieur và Madam để gọi họ.
Đối với người Pháp lúc nào bạn cũng cần tế nhị, thong thả. Đừng bao giờ bắt buộc phải dùng comle sẫm, sơ mi trắng và cà vạt; phụ nữ luôn ăn mặc chỉnh tề. Không thể đến dự một cuộc giao dịch bằng các trang phục khác.
Người Pháp hiếm khi mời khách kinh doanh đến nhà. Nhưng nếu bạn được mời, nhớ đem hoa hay socola cho nữ chủ nhân. Ngoài ra, nếu bạn mời khách Pháp đi ăn tối…
Giao tiếp với người Nhật
Người Nhật là những người bắt chước giỏi, họ nắm bắt những tư tưởng khoa học tuyệt vời của các nhà đoạt giải thưởng Nobel phương Tây, biến nó thành những sản phẩm. Người Nhật không nổi bật trong danh sách những người được giải thưởng Nobel, nhưng họ lại là những người áp dụng vào thực tiễn các giá trị khoa học một cách tuyệt vời.
Tôn giáo của Nhật Bản dạy học phải biết cam chịu với số phận. Đức tin của đạo phật khác với đạo thiên chúa ở nhiều điểm, ví dụ, người Nhật Bản tìm mọi cách để tránh làm người khác bị bẽ mặt. Còn một người phương Tây có tham vọng lớn lại bằng mọi cách để tin chắc rằng người nào đó sẽ phải mất mặt. Điều đó tạo ra sự khác nhau lớn trong kinh doanh. Người Nhật Bản cảm thấy an toàn vì nhận thức được rằng họ sẽ không bị các bạn đồng nghiệp hoặc ông chủ của mình làm cho phải xấu hổ.
Đối với Nhật Bản, không có các trường kinh doanh. Phương Tây thường chế nhạo việc Nhật Bản đưa vào quản trị kinh doanh những người được đào tạo quá cao và cả những người chưa đủ kinh nghiệm.
Trong khi Nhật Bản có thể không có các trường kinh doanh chính thức thì họ lại có thể có rất nhiều trường vừa học vừa làm (đào tạo tại chỗ - on – the – job training). Một người Mỹ nói rằng người Nhật chỉ có một trường kinh doanh và nó có tên là USD.
Người Nhật là những người theo chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch và rất không công bằng. Đây là một sự thật rõ ràng cho tới năm 1967. Những hàng rào thương mại và sự hạn chế của Chính phủ đối với đầu tư nước ngoài đã làm tăng thêm sự ác cảm tự nhiên của người Nhật đối với đồ dùng nước ngoài. Các công ty phương Tây đã làm ngơ đối với chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch của Nhật Bản khi nền kinh tế Nhật Bản còn chưa hùng mạnh. Sau đó họ đã chống lại dữ dội và nhiều hàng rào của Nhật Bản đã bị đổ.
Sau đó Nhật Bản không còn là một cơ sở có lao động rẻ mạt mà nhiều nhà đầu tư nước ngoài tìm kiếm nữa. Các nhà nhập khẩu đã phải cạnh tranh với những công ty địa phương được xây dựng tốt trong một hệ thống phân phối hết sức phức tạp mà chỉ có người địa phương mới hiểu biết đầy đủ được. Hiện nay vẫn còn là vấn đề tranh cãi đối với việc các hàng rào thương mại và đầu tư của Nhật nó sẽ tiếp tục tồn tại nữa không.
Các công ty của Nhật Bản đầu tư nhiều hơn vào các nhà máy và trang thiết bị, vì vậy các công xưởng của họ có năng suất cao hơn. Đây đã là sự thật trong suốt 30 năm qua. Nhưng có thể đây không phải, trước hết vì sẵn tiền vốn hoặc công nghệ; mà có thể vì người lao động Nhật Bản được bảo đảm công việc làm suốt đời, không cảm thấy bị đe dọa bởi công nghệ mới. Trái lại họ còn hoan nghênh nó, vì mọi sự tăng thêm lợi nhuận cũng là tăng thêm tiền thưởng của họ.
Người Nhật Bản luôn dành dụm toàn bộ tiền của họ, trong khi ở những nước khác người ta sử dụng tiền để vui chơi, giải trí. Tỷ lệ tiết kiệm ở Nhật Bản (giống như tỷ lệ đầu tư) thường cao hơn ở các nước công nghiệp khác. Nhưng ai là người sống thoải mái hơn: Người Mỹ với những ngôi nhà lớn, thu nhập không chắc chắn và mức độ cầm cố khổng lồ hay người Nhật với những căn hộ nhỏ, việc làm bảo đảm và tiền gửi ngân hàng?
Người ta nói rằng: “Người lao động Nhật Bản bị đối xử như những người nô lệ”. Nếu vậy thì chưa bao giờ có được những người nô lệ làm việc có hiệu quả như vậy. Năm 1980 hàng của hàng Matsushita bán cho người lao động Nhật Bản đã gấp hai lần số bán cho người Xi-men hoặc người Philipin. Luận điểm nô lệ là dựa trên cơ sở điều kiện sống gò bó của phần lớn các gia đình người Nhật và sự ngoan ngoãn dễ bảo của người công nhân khi được điều sang làm công việc khác hoặc đến một vùng mới. Điều kiện sống gò bó là do khu vực sinh sống nhỏ hẹp của những hòn đảo Nhật Bản chứ không phải do các ông chủ Nhật Bản và ai nữa, ngoài một người nô lệ, lại không lựa chọn để thay đổi việc làm và nơi làm việc nhiều lần trong đời mình.
Các công ty Nhật Bản không lo lắng nhiều đến việc tạo lợi nhuận vì họ dựa vào các tập đoàn công nghiệp và tài chính Zaibatsu nổi tiếng. Tất cả những gì làm cho họ quan tâm là thị trường và xâm lấn thị trường của người khác.
Nói chung các quan hệ tài chính của các công ty Nhật Bản hoàn toàn khác với của các nước phương Tây. Các quan hệ với các ngân hàng thường là dài hạn và mang tính hỗ trợ, chứ không phải ngắn hạn và mâu thuẫn. Hơn nữa, cổ đông không phải là chúa tể. Bảo đảm cho họ hạnh phúc với dòng suối cổ phần ngày càng tăng không phải là một ưu tiên cao.
Các cổ đông phải trông nom để phát triển và gặt hái thành quả tiền vốn của họ. Người Nhật Bản có cái gì đó như một dạng năng lực kinh doanh cao cấp di truyền; hơi giống như những người Do Thái và đang âm mưu sử dụng nó để trả thù sự thất bại trong chiến tranh “Jap zips zap Brits” (Người Nhật vươn lên dũng mãnh như người Anh) là một tiêu đề nổi tiêngs khi công ty YKK khai trương một nhà máy ở Anh năm 1972.
Đây là sự phân biệt đối xử phi lý, là dối lừa trong thực tiễn (những nhà điều hành của hãng Honda thề rằng họ không có mục đích nào khác khi buộc vào thị trường Mỹ là để bán hàng cho người Mỹ; và lừa dối về lý thuyết. Nhật Bản hiểu rất rõ rằng, nó phụ thuộc vào việc bán hàng sang các thị trường phi Nhật Bản để tồn tại. Chỉ có bảo đảm chắc chắn rằng những thị trường này phát triển thì Nhật Bản mới tự phát triển được).
Như vậy, không có gì đặc biệt đối với nền kinh doanh của Nhật Bản. Họ sử dụng những yếu tố sản xuất như tất cả những người khác, tiền vốn, đất đai và lao động. Nhật Bản có ít đất và sau chiến tranh học thậm chí còn có ít vốn hơn. Nhiệm vụ xây dựng lại nền kinh tế Nhật Bản chỉ còn dựa vào những người lao động Nhật Bản và họ đã thực hiện được một công việc vô cùng tốt đẹp.
---------------------------------------
Chúng tôi đã giới thiệu nội dung bài Kỹ năng giao tiếp và đàm phán với người nước ngoài (tiếp) về đặc điểm đàm phán giao tiếp với người Nhật, người Pháp, người ở khu vực Đông Nam Á...
Trên đây, VnDoc đã giới thiệu tới các bạn Kỹ năng giao tiếp và đàm phán với người nước ngoài (tiếp). Ngoài ra, các bạn có thể tham khảo thêm nhiều tài liệu Cao đẳng - Đại học cũng như Cao học khác để phục vụ quá trình nghiên cứu hiệu quả hơn.