Soạn bài Viết bài văn nghị luận về việc vay mượn - cải biến - sáng tạo trong một tác phẩm văn học ngắn nhất
Soạn bài Viết bài văn nghị luận về việc vay mượn - cải biến - sáng tạo trong một tác phẩm văn học siêu ngắn
VnDoc.com xin gửi tới bạn đọc bài viết Soạn bài Viết bài văn nghị luận về việc vay mượn - cải biến - sáng tạo trong một tác phẩm văn học ngắn nhất để bạn đọc cùng tham khảo. Bài viết hướng dẫn bạn đọc trả lời các câu hỏi trong SGK Ngữ văn 12 Kết nối tri thức trang 115 ... 122.
Câu 1 trang 120 SGK Ngữ văn 12 Kết nối
Theo bài viết Mẫu gốc Sơn Tinh Thủy Tinh và sáng tạo của Hòa Vang trong truyện ngắn Sự tích những ngày đẹp trời, tác giả Hòa Vang đã kế thừa và làm biến đổi những phương diện cơ bản sau của mẫu gốc:
* Kế thừa: cốt truyện, nhân vật, mô típ
* Biến đổi:
- Nhân vật:
+ Sơn Tinh: được miêu tả chi tiết, mạnh mẽ, quyết đoán, tài năng.
+ Thủy Tinh: một người tình si, yêu say đắm Mỵ Nương.
+ Mỵ Nương: được khắc họa nội tâm phức tạp, thể hiện sự thương cảm cho Thủy Tinh.
- Cốt truyện: bổ sung các chi tiết mới:
+ Lý do Mỵ Nương chọn Sơn Tinh: vì yêu mến phẩm chất của chàng.
+ Nỗi đau khổ của Thủy Tinh sau khi thua cuộc.
+ Hành động của Mỵ Nương để hàn gắn mối quan hệ giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh.
+ Thay đổi kết thúc: Không còn là cuộc chiến triền miên giữa hai vị thần mà hướng đến sự hòa giải, dung hòa.
Câu 2 trang 120 SGK Ngữ văn 12 Kết nối
Khi bàn về sự “biến đổi” của nhân vật ở truyện ngắn so với nhân vật ở “mẫu gốc”, tác giả bài viết đã có những phát hiện mới mẻ:
- Thủy Tinh: Từ vị thần hung bạo, độc ác trở thành một người tình si; sau khi thua cuộc, Thủy Tinh không chỉ ghen tuông, tức giận mà còn chìm trong nỗi buồn, sự thất vọng và tuyệt vọng.
- Mỵ Nương: Từ một công chúa chỉ biết tuân theo mệnh lệnh vua cha trở thành một người phụ nữ có nội tâm phức tạp.
- Sơn Tinh: mạnh mẽ, quyết đoán, tài năng, là người anh hùng bảo vệ bờ cõi.
Câu 3 trang 120 SGK Ngữ văn 12 Kết nối
- Tác giả đã nhận định những điểm sáng tạo này như sau:
+ Tác giả bài viết đánh giá cao sự sáng tạo của Hòa Vang trong việc biến đổi các yếu tố kì ảo.
+ Những biến đổi này đã góp phần tạo nên một tác phẩm mới mẻ, độc đáo, mang đậm dấu ấn cá nhân của tác giả.
+ Cách đánh giá của tác giả bài khách quan, thuyết phục và có sức gợi mở cho người đọc.
Câu 4 trang 120 SGK Ngữ văn 12 Kết nối
- Sau khi tìm hiểu bài viết tham khảo về vấn đề tiếp thu, cải biến, sáng tạo trong một tác phẩm văn học, tôi có những thu hoạch sau đây để rèn luyện kỹ năng viết bài nghị luận về vấn đề này:
+ Phân tích được những yếu tố được tiếp thu, cải biến và sáng tạo trong tác phẩm.
+ Phân tích được tác dụng của những yếu tố đó đối với nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
+ So sánh những điểm giống nhau và khác nhau giữa các tác phẩm về cách tiếp thu, cải biến, sáng tạo.
+ So sánh tác phẩm với mẫu gốc (nếu có) để làm rõ sự sáng tạo của tác giả.
Thực hành viết
Lập dàn ý
- Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn các thông tin về tác giả, tác phẩm, trọng tâm vấn đề (khía cạnh nào của sự vay mượn - biến đổi) mà bài viết bàn luận.
- Thân bài: Cần triển khai các ý chính sau đây:
+ Nhận diện về phạm vi, tính chất của việc tiếp nhận, chịu ảnh hưởng.
+ Phân tích, đánh giá sự vay mượn, tiếp nhận, chịu ảnh hưởng trên các phương diện cụ thế.
+ Phân tích, đánh giá những điểm biến đổi, sáng tạo của tác giả trong quá trình vay mượn.
Lưu ý: Việc sắp xếp hệ thống ý chính cần linh hoạt, phụ thuộc vào ý tưởng triển khai mạch nghị luận. Ví dụ, có thể sắp xếp theo cấu trúc: các phương diện chỉ vay mượn mà không biến đối, vay mượn nhưng biến đổi một phần, vay mượn về mặt hình thức nhưng biến đổi hoàn toàn về nội dung,...
- Kết bài: Ý nghĩa của việc tìm hiểu về sự vay mượn và biến đổi trong tác phẩm. Nêu đánh giá chung và hướng khám phá, tìm tòi tiếp theo.
Bài viết tham khảo
“Mỗi nghệ sĩ ngôn từ chân chính đều góp vào kho tàng văn hoá nhân loại cái độc đáo của riêng mình. Nhưng cái độc đáo thể hiện trong các tác phẩm của bậc thầy này hay bậc thầy khác đó, lại có mối liên hệ năng động với những cái do các nhà văn khác sáng tạo”. Đây là câu nói quen thuộc về mối liên hệ mang tính tất yếu trong sáng tác văn học. Truyện Kiều của Nguyễn Du được sáng tạo dựa trên Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân đã để lại nhiều dấu ấn đặc biệt.
Bản thân chủ đề tư tưởng của Kim Vân Kiều truyện bộc lộ minh bạch ngay từ lời thuyết minh của tác giả ở đầu mỗi chương truyện. Tư tưởng của Kim Vân Kiều truyện là đề cao phẩm chất đạo đức của nhân vật Kiều theo khuôn khổ đạo đức Nho giáo, câu chuyện Tài mệnh tương đố là phương tiện để tác giả tài tử - giai nhân chuyển tải mục đích tối cao đó: Qua rất nhiều bất hạnh và những xung đột mâu thuẫn phức tạp xen kẽ nhau dó, tác giả xây dựng từ nhiều mặt nghiêng, nhiều góc độ tính cách bi kịch của Vương Thúy Kiều, tỏ bày nhiều phương diện phẩm chất tốt đẹp trong tính cách của nàng, giành được sự đồng tình sâu sắc của mọi người. Nói về tư tưởng của Nguyễn Du, về chủ ý của ông khi kể Đoạn trường tân thanh trước hết là nói về các triết lí chủ yếu mà ông tâm đắc và thấy câu chuyện về nàng Kiều trong Kim Vân Kiều truyện là một minh chứng, ông thể hiện nó ở quan điểm đánh giá đối với các sự kiện, nhân vật khi kể chuyện. Trong Đoạn trường tân thanh, tư tưởng của Nguyễn Du trước hết thể hiện ở triết luận chữ tài — xuyên suốt tác phẩm và là nội dung quan trọng nhất. Đăng lên một triết luận chua chát ở đầu và cuối tác phẩm, đặt nhân vật Thúy Vân trong thế đối sánh với nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du bày tỏ thái độ không thừa nhận tư tưởng tài mệnh tương đố và gợi người đọc băn khoăn về một nghĩa khác của chữ tài. Tài mà Nguyễn Du dùng để nói về Kiều (Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau) nếu hiểu là tài năng thì không thể lí giải nguyên nhân nỗi khổ của đời Kiều, nếu hiểu tài là tình thì chưa đủ thuyết phục vì Tam Hợp đạo cô đã từng nói Kiều khổ vì sắc sảo khôn ngoan cộng thêm với một chữ tình. Khi lí giải bằng tư tưởng triết học Trung Quốc đời Tống vể chữ tài cùng với quan niệm của người xưa về tài trong Từ điển Từ Hải (tài: tài năng/ thảo mộc chi sơ/lực), có thể hiểu rằng: Tài mà Nguyễn Du muốn nói là nguyên nhân nỗi khổ của Kiều (khi xung khắc với Mệnh) chính là năng lực sống (theo triết học đời Tống: Tính ví như mặt nước phẳng/ Tình là mặt nước nổi sóng, va động/ Tài là lực làm cho mặt nước nổi sóng). Chính vì ham muốn sống mà những nhân dục” trong Kiều không phù hợp với “thiên lí” đương thời nên xã hội ấy vùi dập nàng là điều đương nhiên. Bản thân Nguyễn Du cũng nhận thấy ở con người thời đại một sức sống nồng nhiệt, say mê mà phần lớn là không được cuộc đời đáp ứng, cất tiếng kêu mới về khúc đoạn trường của Kiều cũng là cất lên tiếng nói thời đại...Tất nhiên cách hiểu này cũng chỉ là tương đối và cũng là một cảm nhận của người viết mà thôi.
Truyện Kiều là một kiệt tác của văn học Việt Nam, là bông hoa rực rỡ trong vườn hoa văn học thế giới. Sự vay mượn, cải biến và sáng tạo của Nguyễn Du đã góp phần tạo nên giá trị trường tồn của tác phẩm.