Cha Tôi
Cha Tôi - Đặng Huy Trứ
Mời các bạn học sinh và thầy cô tham khảo tài liệu: Cha Tôi, với nội dung đã được VnDoc.com cập nhật đầy đủ và kèm theo những bài viết hay liên quan sẽ giúp các bạn học sinh phân tích, soạn bài lớp 11 được hay hơn. VnDoc.com mời các bạn học sinh và thầy cô tham khảo bài Cha Tôi thuộc chương trình Ngữ văn lớp 11.
Cha Tôi
Dọc theo lịch sử phát triển của văn học thời phong kiến, tìm về với những tri thức chân chính, những con người tâm huyết trước những vấn đề của dân tộc và thời đại, chúng ta bắt gặp Đặng Huy Trứ. Sinh ra trong một gia đình trí thức nghèo ở nông thôn nhưng với truyền thống dạy học, với truyền thống Nho gia chân chính bao đời, Đặng Huy Trứ luôn coi trọng và giữ gìn những giá trị tinh thần tốt đẹp, đó là tình thương yêu, là đạo đức và học vấn, là sự quan tâm đến danh dự gia đình và phẩm chất cá nhân. Điều đó được thể hiện trong cách sống và cả trong những tác phẩm văn học của ông, trong đó có đoạn trích “ Cha tôi” thuộc tác phẩm Đặng Dịch Trai ngôn hành lục. Trong tác phẩm, Đặng Huy Trứ đã thuật trung thực những sự kiện liên quan đến bản thân và nhắc nhiều đến người cha của mình là Đặng Văn Trọng. Có thể nói, chứng kiến những cơn suy vong của vận mệnh dân tộc, ông đã đau lòng trước sự tan rã của hệ thống đạo đức luân lí phương Đông. Và vì thế ông tiếc nuối thời kì đã qua và gửi gắm niềm nuối tiếc ấy vào nỗi nhớ thương về người cha mà ông vô cùng kính trọng. Đoạn trích Cha tôi không đơn giản là tấm lòng của tác giả đối với người cha mà còn thể hiện những suy nghĩ của ông về lẽ sống, nhân sinh.
Với ngôi kể thứ nhất, xưng “tôi” (tức Đặng Huy Trứ) đoạn trích là lời tự thuật của tác giả về ba sự kiện tiêu biểu trên chặng đường thi cử của chính bản thân mình . Vậy nhưng với những sự kiện ấy, người đọc không chỉ tìm thấy ở đó những bước ngoặt công danh tác giả mà hơn tất cả, đó là những hành động, là lời nói, là những phản ứng của người cha đáng kính trước việc đỗ trượt của con trai. Nhân cách và cái nhìn sâu sắc của phụ thân Đặng Huy Trứ cứ thế mà hiện lên với những phẩm chất của một nhà Nho chân chính đầy trăn trở và cũng đầy sâu sắc, từng trải về cuộc đời.
Sự kiện thứ nhất xảy ra vào mùa thu năm Quý Mão (1843), “tôi theo cha cùng người anh con bác trưởng là Đặng Huy Sĩ đến trường Phú Xuân để thi”. Và có thể nói, ở lần đầu khoa cử này, Đặng Huy Trứ đến với trường thi một cách nhẹ nhàng trong suy nghĩ, đầy thảnh thơi trong hành động. Nhân vật “tôi” đi thi chỉ với mục đích “quen với tiếng trống trường thi” và khi người ta xướng danh, yết bảng thì “tôi” đi xem hát, cũng chỉ định đi chơi về rồi ngó bảng tú tài. Tất nhiên, đây chỉ là cách nói khiêm tốn của người thuật chuyện, song nó cũng thể hiện được thái độ đi thi của ông, cái khát vọng công danh đỗ đạt quả thực chưa chi phối nhiều đến người sĩ tử này. Với lời kể của tác giả, có thể nhận ra ông bước vào trường thi với một phong thái nhẹ nhàng không áp lực bởi chỉ cốt để lấy kinh nghiệm, để cốt quen với nhịp trống thi thố, với không khí trường thi. Phải chăng chính vì bước vào thi thố với một tâm trạng thoải mái cũng với những kiến thức đã tích lũy mà Đặng Huy Trứ đã được vinh danh khoa bảng vào kì thi đó. Đây được coi là một sự kiện đầy bất ngờ đối với một người có mặt cũng như chính bản thân tác giả, bởi khi xướng danh họ Đặng, mọi người đều nghĩ đến sĩ tử Đặng Văn Trọng - người cha của tác giả sẽ là người được xướng tên.Thế nhưng người đỗ thứ ba lại chính là nhân vật tôi. Đỗ thứ ba trong kì thi này là một vinh dự rất lớn, là hi vọng và mong đợi của mọi sĩ tử, kể cả của thân phụ là Đặng Văn Trọng, một người tài giỏi mà ai cũng nghĩ là xứng đáng. Thế nhưng, thái độ của hai cha con lại hoàn toàn bất ngờ. Con thì không quan tâm, vẫn mải đi chơi và khiêm tốn với “ý định” “để đến tối sẽ đi coi bảng tú tài xem có tên mình hay không”. Còn người cha, nghe tin con đỗ, một tin vui đối với cả gia tộc, dòng họ thì lại có phản ứng thật lạ : “cha tôi dựa vào cây xoài, nước mắt ướt áo” như là “gặp việc chẳng lành”. Không phải ông buồn vì con thi đỗ mà ông lại trượt. Những giọt nước mắt của người cha ấy thể hiện tấm lòng cao cả, nỗi lo lắng của một người cha, một người từng trải, người vốn đã rất hiểu lẽ đời. Câu trả lời của ông hợp tình hợp lí: “Có gì đáng vui đâu. Đỗ đạt cao là để dành cho người có phúc đức. Con tôi tính tình chưa già dặn, chưa có đức nghiệp gì… Cổ nhân đã nói “Thiếu niên đăng khoa nhất bất hạnh dã!”. Đó là nỗi băn khoăn của một người cha luôn lo lắng cho con. Câu trả lời của ông vừa rất khiêm tốn lại rất chân thành. Những câu nói ấy đã có ngầm ý rằng : mục đích của việc thi cử không nhất thiết phải đỗ đạt để làm quan ngay. Sự đời cái gì dễ kiếm thì không được trân trọng dù nó rất quý giá. Dù là người có tài năng thực sự nhưng nếu đỗ đạt quá sớm sẽ sinh ra kiêu ngạo và tự mãn. Phản ứng của người cha là phản ứng của người hiểu sâu xa câu chuyện “Tái ông thất mã”. Kể lại sự kiện này, tác giả đã chọn chi tiết, ngôn ngữ rất khéo léo để thể hiện nhân cách và suy nghĩ sâu xa của người cha. Ngôn ngữ và cách nói của người cha thể hiện ông là một nhà nho mẫu mực. Những lí lẽ ông đưa ra đều thật trọn vẹn, có trên có dưới. Không tự ti nhưng cũng không kiêu căng tự mãn: “Nào ngờ, mới một lần đi thi lại trúng thứ ba. Đó là do triều đình nuôi dưỡng, tổ tông tích đức, gia đình giáo dục mà được thế… Nhìn lên, tôi đội ơn tác thành của thiên tử, lại cảm kích công vun trồng của tổ tiên, chỉ sợ con tôi không báo đáp được nghĩa nặng ơn dày nên không cầm nổi nước mắt”. Tác giả đã dùng lời đáp ấy và mượn lời nhận xét của mọi người để tỏ lòng kính trọng và niềm tự hào về người cha của mình, một Nho sĩ hiểu đời, hiểu chuyện, hiểu đạo lí và đầy tình thương con.
Tiếp đó, tác giả đưa người đọc đến với sự kiện thứ hai trong đoạn đường dùi mài kinh. Lần thứ hai này, nhân vật “tôi” lại đỗ đạt và người cha cũng có phản ứng tương tự. Đó là “Khoa thi Hội mùa xuân năm Đinh Mùi nhân tứ tuần đại khánh của đức Hiến tổ Chương Hoàng đế Thiệu Trị, vua cho mở Ân khoa”. Người cha nghe tin con đỗ đạt không hồ hởi vui mừng mà lo lắng : “Bậc đỗ đại khoa ắt phải là người phúc phận lớn. Con tôi đức độ ra sao mà được như vậy, chỉ làm cho tôi thêm lo lắng”. Với những trăn trở đó của mình, một lần nữa người cha hiện lên là một người từng trải và hiểu lẽ đời. Đâu phải người cha không tin vào khả năng của con mình, không tin vào tài năng của con mình mà đây là cách phản ứng của một người cha có suy nghĩ sâu sắc, chín chắn. Ông đã thể hiện quan niệm của mình về người quân tử. Người đỗ đạt phải là người có tài và có đức. Đó là quan niệm của một chính nhân quân tử, một con người hiểu đời, hiểu người, hiểu lẽ sống và hiểu chính con trai mình. Những lo âu qua lời nói của người phụ thân với đứa con trai còn nhỏ tuổi đèn sách đã đỗ đạt thành tài chính như là tiếng lòng của một người cha đầy hiểu thấu. Bởi có lẽ, cái sự đời, cái nghiệp khoa bảng, hơn ai hết ông đã từng chứng kiến, đã từng dấn thân. Ông hiểu rõ những tháng ngày phía sau sự đỗ đạt của một sĩ tử trẻ là gì, và cùng với cái thế thời đang xoay chuyển, liệu đỗ đạt thành danh có phải là con đường tốt cho sự hình thành nhân cách và cái thế làm người của con mình hay không? Tư tưởng của một đáng nam nhi, một người quân tử, một nhà Nho chân chính vì thế mà đã chi phối những cảm xúc và nhìn nhận sự việc của người cha đáng kính này.
Tiếp đó, sự kiện thứ ba được tác giả thuật lại trong đoạn trích có khác với hai sự kiện trên. Tác giả đã chọn kể hai sự việc đồng thời xảy ra trong gia đình để ngợi ca tấm lòng và nhân cách của người cha. “Kì thi Đình năm ấy vào ngày 26 tháng 4. Đúng hôm đó, từ cuối nhà bên trái điện Cần Chánh báo tin dữ: bác ngự y Đặng Văn Chức mất. Tôi thì vừa bị đánh hỏng trong kì thi Đình… Cả nhà lại càng buồn cho tôi”. Trước hai tin dữ ấy, Đặng Văn Trọng đau đớn trước cái chết của người anh và coi việc con trai bị đánh hỏng là “không có chuyện gì đáng kể”. Thoạt tiên có lẽ người đọc sẽ nghĩ với phản ứng của người cha như trên, dường như người cha không muốn con trai mình đỗ đạt. Nhưng một nhà nho theo nghiệp sách đèn khoa cử không lẽ lại coi thường chuyện đỗ đạt như vậy được mà tấm lòng của người cha ấy được thể hiện rõ ở lời nói của ông trong phần kết đoạn trích. Khi việc tang người anh trai đã hơi thư, ông mời quay sang khuyên nhủ con trai. Lời khuyên nhủ này là tâm sự giấu kín từ nơi sâu thẳm tấm lòng người cha: “Đã vào thi Đình thì không còn đánh trượt nữa, từ đời Lê đến nay như thế đã lâu mà nay con lại bị đánh trượt”. Ông đã phân tích cho con trai thấy sai lầm nghiêm trọng của mình để người con nhận rõ điều trái phải. Việc để bị đánh trượt trong kì thi Đình là một lỗi lầm rất lớn. Nhưng ông không dừng lại ở việc chỉ ra sai lầm của con, mà quan trọng hơn, ông đã khuyên nhủ con trai những lời thấu tình đạt lí. Nhẹ nhàng mà nghiêm khắc, lời khuyên của người cha chứa đựng những triết lí về cuộc sống. Nó đã giúp cho người con nhận ra lỗi lầm của mình, nhưng không bị rơi vào sự tuyệt vọng, bi quan hay phẫn uất. Bài học ông dạy con có thể thu gọn trong câu “Thất bại là mẹ thành công”. Những lí lẽ người cha đã đưa ra là kết quả của một quá trình chiêm nghiệm và tích lũy từ cuộc đời, nó buộc người con phải suy nghĩ mà quyết tâm tiến thủ. “… tước cả khoa danh của con là để rèn luyện cho con nên người”. Cùng với đó, thân sinh của tác giả đã lấy những tấm gương Nho sĩ mà ông cho rằng con mình đáng học tập và theo gương: “Ông Phạm Văn Huy ở Thiên Lộc… Tài học, phẩm hạnh của con còn kém các ông ấy muôn lần. Người ta ai chẳng có lúc mắc sai lầm, quý là ở chỗ biết sửa chữa”. Qua từng câu chữ, từng lời nói, cái cốt mà người cha thương con, người công dân tâm huyết với quốc gia, với cuộc đời muốn gửi đến cho người con trai đang bế tắc đường quan cử không phải là sự trách móc, càng không phải là tư tưởng tham vọng lợi danh mà là những ý niệm đầy cô đọng. Người cha cho tác giả biết rằng: sự thất bại của ông hôm nay không phải ngẫu nhiên mà có bởi lỗi là ở chính bản thân mình, vậy nhưng điều quan trọng không phải là con đã mắc sai lầm mà chính là ở chỗ con sai ở đâu và con phải sửa lầm như thế nào để trưởng thành và xứng đáng. Lí lẽ và quan niệm về chuyện thi cử, về thành công và thất bại của người cha là vô cùng sâu sắc. Đó cũng chính là một bài học nhân sinh quý giá cho người đời sau.
Người cha hiện lên trong lời tự thuật của nhân vật “tôi” thật đáng kính trọng. Ông là điển hình mẫu mực của một nhà nho chân chính. Qua câu chuyện của bản thân mình, Đặng Huy Trứ đã đưa ra một triết lí sống rất thực tế và sâu sắc : Ở đời, điều quan trọng không phải là thành công hay thất bại. Điều quan trọng là ta phải biết vì sao mình thất bại, từ đó rút ra bài học cho bản thân. Thành công không kiêu ngạo tự mãn, thất bại không bi quan tuyệt vọng. Phải biết mình biết ta, biết sống cho đúng mực và phải biết đứng lên sau khi ngã. Cùng với cách kể chuyện rất tiêu biểu cho nghệ thuật viết kí - rất trung thành với sự thực nhưng không dừng lại ở việc thuật lại sự việc mà trong khi thuật lại các sự kiện, người viết đã lựa chọn chi tiết, sự việc tiêu biểu để từ đó thể hiện thái độ của bản thân hoặc những quan niệm, tư tưởng có ý nghĩa nhân sinh. Đoạn trích “ Cha tôi” đã mang đến cho người đọc một cái nhìn toàn diện về quan điểm sống của một nhà Nho chân chính, một người cha mẫu mực, nghiêm khắc mà đầy tình thương yêu cũng như những tư tưởng giáo dục làm người sâu sắc trong mọi thời đại.
Tác giả: Đặng Huy Trứ