Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận

Tổng hợp bài văn mẫu lớp 11: Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các bạn học sinh lớp 11. Mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây nhé.

Văn mẫu lớp 11

I. Dàn ý cảm nhận bài thơ Tràng giang

Dàn ý cảm nhận bài thơ Tràng giang chi tiết

1. Mở bài

Giới thiệu về tác giả Huy Cận và bài thơ Tràng giang.

2. Thân bài

a. Khái quát chung

Với nhan đề, nhà thơ đã khéo gợi lên một vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại:

“Tràng giang” gợi hình ảnh một con sông dài, rộng lớn.

Tác giả đã sử dụng từ Hán Việt để gợi không khí cổ kính trang nghiêm. Tác giả còn sử dụng từ biến âm “tràng giang” thay cho “trường giang”, hai âm "ang" đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát.

Câu thơ đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” gợi nỗi buồn sâu lắng trong lòng người đọc. Đồng thời cho người đọc thấy rõ hơn cảm xúc chủ đạo của tác giả xuyên suốt tác phẩm. Đó là tâm trạng “bâng khuâng”; nỗi buồn mênh mang, không rõ nguyên cớ nhưng da diết, khôn nguôi. Đó còn là không gian rộng lớn “trời rộng sông dài” khiến hình ảnh con người càng trở nên nhỏ bé, lẻ loi, tội nghiệp.

→ Bài thơ diễn tả tâm trạng, cảm xúc của thi nhân khi đứng trước cảnh sông nước bao la trong một buổi chiều đầy tâm sự.

b. Phân tích khổ thơ thứ nhất

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp: “gợn” gợi nỗi buồn của con sóng, giữa dòng sông rộng lớn, làn sóng buông trôi lững lờ từng gợn lăn tăn tạo cảm giác buồn. Nỗi buồn trùng điệp, man mác lòng người thi sĩ.

Con thuyền xuôi mái nước song song: Giữa dòng tràng giang rộng lớn đó là hình ảnh một con thuyền trôi lững lờ rẽ nước thành hai đường thẳng song song như cố gắng xé tan cái tĩnh lặng, cái yên bình để trở nên nhộn nhịp hơn, có sức sống hơn nhưng trong khung cảnh tĩnh mịch này thì đó dường như là điều không thể.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả: Khi con thuyền trôi đi xa, đường thẳng song song bị tách lại trở về như cũ, nối lại thành một, mặt nước lại sầu thẳm, dù có chảy về trăm ngả vẫn mang trong mình nỗi buồn.

Củi một cành khô lạc mấy dòng: Đảo ngữ (đảo vị trí các thành phần chủ ngữ với nhau: một cành củi khô → củi một cành khô) nhấn mạnh vào hình ảnh cành củi đơn độc đang một mình lưu lạc trên dòng sông rộng lớn không biết đi đâu về đâu giống như tâm trạng của con người lúc bấy giờ khi đất nước đang bị quân giặc xâm chiếm.

c. Phân tích khổ thơ thứ hai

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu: Đảo ngữ (đảo tính từ “lơ thơ” ở vị ngữ lên đầu câu) nhằm nhấn mạnh sự hoang sơ, vắng vẻ của cảnh vật xung quanh sông. Chỉ có cồn đất nhỏ lung lay theo gió mà tuyệt nhiên không có bàn tay, hình ảnh con người ở trong đó.

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều: Đó là lời miêu tả tiếng chợ chiều tàn ở phía xa xa hay là một câu hỏi tu từ liệu rằng tiếng lao xao đằng xa có phải tiếng của con người khi tan chợ? Không gian nơi tác giả dừng chân yên lặng, tĩnh mịch đến mức nghe được cả tiếng lao xao đằng xa.

Nắng xuống trời lên sâu chót vót: Không gian như được mở rộng ra hơn nhiều lần khi hình ảnh bầu trời được đưa lên sâu “chót vót”, cách dùng từ độc đáo này của tác giả khiến cho người đọc dễ dàng hình dung ra bối cảnh thiên nhiên rộng lớn nhưng lại vô cùng đặc biệt.

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu: Trước khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ với dòng sông dài miên man, bầu trời rộng lớn vô tận nhưng trống vắng hình ảnh con người khiến cho bức tranh trở nên cô liêu hơn bao giờ hết.

d. Khổ thơ thứ ba

“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng”: Hình ảnh những đám bèo nối tiếp nhau lững thững trôi dạt trên dòng sông, “hàng nối hàng” gợi cảm giác trải dài miên man vô tận.

“Mênh mông không một chuyến đò ngang/Không cầu gợi chút niềm thân mật”: Cảnh mênh mông, buồn bã, trống vắng quạnh hiu của “Tràng giang” càng được nhân lên bằng mấy lần phủ định: “Không đò… không cầu...”. Chiếc cầu, con đò bắc nối đôi bờ là biểu hiện của sự giao nối của con người và cuộc sống, thường gợi về cuộc sống tấp nập, gần gũi và gợi nhớ quê hương. Hai bờ sông cứ thế chạy dài vô tận như hai thế giới cô đơn, không chút “niềm thân mật” của những tâm hồn đồng điệu.

“Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”: Câu thơ đã vẽ lên được một bức tranh thật đẹp, tĩnh lặng nhưng đượm buồn. Đoạn thơ chỉ có khung cảnh thiên nhiên đượm buồn, lặng lẽ mà không có một âm thanh dù chỉ là xơ xác. Trước không gian buồn man mác là một lòng người đau đáu trước cảnh đất nước đang bị xâm lược chìm trong đau khổ, tương lai của con người không biết sẽ đi đâu về đâu.

→ Đoạn thơ không chỉ lột tả vẻ đẹp buồn man mác, bâng khuâng của dòng sông mà còn khéo léo gửi gắm tâm tư, nỗi lòng của người nghệ sĩ trước cảnh đẹp bình dị đó.

e. Khổ thơ cuối cùng

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”: không gian như được mở rộng hơn với cảnh bầu trời với những đám mây trắng chen chúc nhau như sà xuống đỉnh núi, nỗi buồn của con người đang lan tỏa ra mạnh mẽ hơn.

“Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”: trong khoảng không gian rộng lớn, yên tĩnh đó là hình ảnh chú chim nghiêng đôi cánh như đổ bóng chiều tà xuống không gian bên dưới.

“Lòng quê dợn dợn vời con nước”: “dợn dợn’ là cách dùng từ mới mẻ của tác giả, nó không chỉ là tâm trạng nhớ nhung, buồn bã mà đó còn là những băn khoăn, trăn trở mong mỏi cho quê nhà sớm được độc lập tự do, nỗi nhớ luôn lăn tăn như con nước của dòng sông.

“Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”: vào lúc mặt trời lặn cũng là lúc con người ta thường cảm thấy bâng khuâng, nhớ nhà đặc biệt là khi các nhà lên khói nấu cơm chiều. Tuy nhiên, nỗi nhớ nhà của tác giả không đợi khi có khói của bữa cơm chiều mà nó luôn luôn thường trực.

3. Kết bài

Khái quát lại vẻ đẹp của bài thơ và vị trí của bài thơ trong kho tàng văn học.

Dàn ý cảm nhận bài thơ Tràng giang mẫu 2

I. Mở bài

Giới thiệu về tác giả Huy Cận và bài thơ Tràng giang

II. Thân bài

- Cảm nhận về khung cảnh thiên nhiên sông nước mênh mang, rộng dài và tâm trạng của nhà thơ.

+ Sóng gợn nhẹ gợi nỗi buồn mênh mang

+ “Tràng giang”, “điệp điệp” tô đậm nỗi buồn triền miên, kéo dài theo cả không gian và thời gian.

+ “Thuyền về nước lại” gợi sự chia lìa, xa cách, không hứa hẹn gặp gỡ.

+ Sự bơ vơ, lạc lõng, trôi nổi bất định giữa cuộc đời, “củi nhỏ cành khô” gợi sự nhỏ bé, tầm thường.

- Cảm nhận sự hoang vắng trong khung cảnh và sự cô đơn của nhà thơ

+ Khung cảnh hoang vắng, thưa thớt, thiếu vắng sự sống con người

+ Không gian mênh mông, lặng lẽ khắc họa sự cô đơn trong lòng tác giả

+ Khao khát một cây cầu bắc ngang để được giao lưu gần gũi với mọi người, cuộc đời

- Cảm nhận tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước của nhà thơ

+ Hình ảnh tráng lệ nhưng đượm buồn, “bóng chiều sa” gợi cảnh ngày tàn, “chim nghiêng cánh nhỏ” thể hiện sự bé nhỏ, mỏng manh.

+ Nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương dợn dợn theo từng con nước lên xuống

+ Khao khát được trở về nhà, về quê hương như tìm một bến đỗ, chỗ dựa tinh thần cho tâm hồn cô đơn.

III. Kết bài

Nêu cảm nhận chung của em về bài thơ Tràng giang

Dàn ý Cảm nhận bài thơ Tràng giang mẫu 3

I. Mở bài: giới thiệu về bài thơ Tràng giang của Huy Cận

Huy Cận có những tác phẩm thơ nổi tiếng, mỗi bài thơ mang một phong cách rất riêng. Thơ của Huy Cận mang phong cách thơ hàm súc, triết lí và phục vụ cho cách mạng của nước ta. Một trong những tác phẩm thơ nổi tiếng là Tràng giang, bài thơ nằm trong tập thơ Lửa thiêng. Bài thơ thể hiện cảnh thu 1939, bài thơ được sáng tác khi tác giả nhìn bên bờ sông Hồng dưới dòng nước mênh mông sóng nước. chúng ta cùng đi tìm hiểu bài thơ để biết rõ về phong cách thơ của Huy Cận.
II. Thân bài: Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận

  1. Khổ 1: bức tranh thiên nhiên mênh mang, bất tận
  • Những vòng nước xô đuổi nhau đến tận chân trời
  • Qua khổ thơ còn thể hiện nổi buồn miên man của tác giả
  • Sự trôi nổi, phó mặc của tác giả trên dòng sông hữu tình
  • Tâm trạng chia li, tán tác

2. Khổ 2: không gian và thời gian qua bài thơ

  • Không gian hoang vắng, điều hiu
  • Không gian vắng lặng, tĩnh mịch
  • Không gian được đẩy vô tận
  • Cảnh vật khiến con người trở nên nhỏ bé

3. Khổ 3:

  • Không có sự giao hòa, liên quan giữa con người với con người
  • Cái tôi cô đơn, trống vắng, khát khao sự hòa hợp, đồng điệu giữa con người
  • Bức tranh thiên nhiên hiện lên một sự kì vĩ và tráng lệ
  • Nỗi buồn quê hương, đất nước, nỗi buồn da diết của tác giả, sâu sắc của nhà thơ

III. Kết bài: nêu cảm nhận của em về bài thơ Tràng giang của Huy Cận

Bài thơ Tràng giang của Huy Cận thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người và thể hiện tình yêu quê hương, đất nước của tác giả. Qua bài thơ ta cảm nhận được tình yêu của tác giả đối với thiên nhiên.

II. Văn mẫu Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận mẫu 1

Huy Cận là một trong những tác giả xuất sắc nhất trong phong trào thơ mới. Thơ ông rất giàu chất suy tưởng, triết lí, luôn thể hiện sự giao cảm giữa con người và vũ trụ. Tràng giang là một trong những bìa thơ tiêu biểu của tác giả, thể hiện đầy đủ tư tưởng và phong cách thơ của nhà thơ.

Ngay ở câu đề từ của bài thơ, nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn của cảnh vật cũng như của tâm trạng người thi sĩ, lời đề từ đã thâu tóm ngắn gọn và chính xác cả cảnh lẫn tình của bài thơ.

Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngã

Củi mội cành khô lạc mấy dòng

Đứng trước cảnh mênh mông sông nước, nỗi buồn của tác giả như được nhân lên. Ngay ở khổ thơ đầu tác giả đã dùng ngôn ngữ giàu hình ảnh để khái quát về cảnh vật, qua những cảnh vật ấy tác giả muốn thể hiện tâm trạng của mình. Hình ảnh "sóng gợn" gợi cho ta liên tưởng tới những làn sóng đang lan ra, loang ra đến vô tận cũng giống như nổi buồn của nhà thơ âm thầm mà da diết khôn nguôi. Con sóng ở giữa một dòng sông dài và rộng càng làm cho nỗi buồn của nhà thơ được nhân lên. Cảnh con thuyền và mọi cảnh vật đều cô đơn càng làm cho người thi sĩ mang đầy tâm sự trong lòng không biết bày tỏ tâm trạng cùng ai. Tác giả đã dùng những hình ảnh hết sức đời thường để đưa vào thơ ông và đó là sự sáng tạo độc đáo trong phong cách thơ của ông.

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng bến cô liêu

Lại một lần nữa tác giả đã dùng những hình ảnh "cồn, gió, làng, chợ, bến" để giãi bày tâm sự của mình. Bằng cảm nhận của tác giả cảnh vậy trở nên thưa và vắng mang đậm nét buồn, làm cho cảnh vật vắng lặng, buồn tẻ, im ắng và cũng chính vì im ắng nên nhà thơ cảm nhận được.

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Tác giả nhận được những âm thanh sinh hoạt của đời sống hằng ngày, nhưng âm thanh đó không rõ ở chỗ nào. Nhà thơ đã cố gắng tĩnh tâm để nghe ngóng cái âm thanh mơ hồ kia, nhưng không thể cảm nhận được và nhà thơ đã chuyển nhãn quan của mình đến một điểm mới.

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng bến cô liêu

Nhà thơ sử dụng nghệ thật đối ý nắng xuống và trời lên để gợi sự chuyển động hai chiều của đất trời và cũng là nỗi buồn trong tâm trạng của nhà thơ. Đứng giữa một vùng mênh mông sông nước, đất trời hun hút, con người càng nhỏ bé hơn và nỗi buồn thì dài vô tận.

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

Hình ảnh cánh bèo gợi cho ta liên tưởng tới một kiếp người trôi nổi, lênh đênh. Bèo trôi không biết dạt về đâu, không có một cái cầu, không chuyến đò để đưa khách, cảnh tưởng như vậy thì làm sao con người thoát được nỗi buồn. Miêu tả cảnh vật đó, tác giả đã thể hiện niềm khát khao giao cảm với đời, mong muốn thoát khỏi nỗi buồn u uất của cuộc đời để có cuộc sống tốt đẹp hơn.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Sau khi ngắm hết những cảnh vật xung quanh mình, nhà thơ đã hướng nhãn quan của ông đã hướng lên vũ trụ và ông thấy hình ảnh đầu tiên là những đám mây, với từ "đùn" cho thấy chúng chồng xếp mạnh mẽ lên nhau thành núi sau đó được ánh hoàng hôn chiếu vào tạo ra màu sắc lấp lánh mà nhà thơ gọi nó là "núi bạc". Hình ảnh này tuy rực rỡ nhưng lại ẩn chứa nổi buồn của ông, giống như nổi buồn của ông tích tụ như núi cùng với đám mây còn có hình ảnh cánh chim.

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Tác giả đã dùng tự láy "dợn dợn" để diễn tã những con sóng vời theo con nước lan tỏa ra tích tắt cho thấy nổi nhớ nhà luôn thường trực trong ông và sẵn sàng lan tỏa ra khắp nơi.

Bài Tràng giang đã thể hiện nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương đến da diết của nhà thơ. Đứng trước cảnh thiên nhiên rộng lớn, nhà thơ đã tức cảnh mà sinh tình, đó là tình cảm chân thành với quê hương đất nước của nhà thơ. Với cách tiếp cận với những vấn đề gần gũi trong cuộc sống, Tràng giang đã trở thành một sáng tác tiêu biểu của văn học Việt Nam.

Bài văn mẫu Cảm nhận bài thơ Tràng giang mẫu 2

Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào thơ mới 1930 - 1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước Cách mạng tháng tám, thơ ông mang nổi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như" "Lửa thiêng", "Vũ trụ ca", Kinh cầu tự". Nhưng sau Cách mạng tháng tám, hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động" "Trời mỗi ngày lại sáng", "Đất nở hoa", "Bài thơ cuộc đời"... Vẻ đẹp thiên nhiên nỗi ưu sầu nhân thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ "Tràng giang ". Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng tám.

Bài thơ được trích từ tập "Lửa thiêng", được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, cám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc.

Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài

Sóng gợi Tràng giang buồn điệp điệp

....

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ. "Tràng giang" là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm "anh" đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ "Tràng giang" mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.

Tứ thơ "Tràng giang" mang nét cổ điển như thơ xưa" Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao cảm, Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nổi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại.

Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài" "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài". Trước cảnh "trời rộng", "sông dài" sao mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm "bâng khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng khuâng" được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và con "sông dài", nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc.

Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế.

Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Hai từ láy nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Và không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, dòng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên dòng sông gợi sóng "điệp điệp", nước "song song" ấy là một "con thuyền xuôi mái", lững lờ trôi đi. Trong cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mông của thiên nhiên, một dòng "Tràng giang " dài và rộng bao la không biết đến nhường nào.

Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền. Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách "thuyền về nước lại", nghe sao đầy xót xa.

Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi "sầu trăm ngả". Từ chỉ số nhiều "trăm" hô ứng cùng từ chỉ số "mấy" đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn.

Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc" "Củi một càng khô lạc mấy dòng". Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. "Một" gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, "cành khô" gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, "lạc" mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên "mấy dòng" nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạt đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.

Nét đẹp cổ điển "tả cảnh ngụ tình" thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã gợi mở về một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở cách nói "Củi một cành khô" thật đặc biệt, không chỉ thâu tóm cảm xúc của toàn khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng.

Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo.

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Hai từ láy "lơ thơ" và "đìu hiu" được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. "Lơ thơ" gợi sự ít ỏi, bé nhỏ "đìu hiu" lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh "cồn nhỏ", gió thì "đìu hiu", một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều". Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi "đâu đó", âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi "đâu" như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là "đâu có", một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên. Đôi mắt nhân vật trữ tình nhìn theo nắng, theo dòng trôi của sông.

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

"Nắng xuống, trời lên" gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa" bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. "sâu chót vót" là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với "sông dài, trời rộng", còn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao" "bến cô liêu".

Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi như" sông, trời, nắng, cuộc sông con người thì buồn tẻ, chán chường với "vãn chợ chiều", mọi thứ đã tan rã, chia lìa.

Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu.

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cần gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là "hàng nối hàng". Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợn ngợp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, cô đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là "bờ xanh tiếp bãi vàng" như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường không có con người, không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hoà, nối kết:

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật.

Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. "...không... không" để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.

Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao"

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.

Bút pháp chấm phá với "mây cao đùn núi bạc" thành "lớp lớp" đã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:

Mặt đất mây đùn cửa ải xa.

Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc.

Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều" Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt Tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.

Cảm nhận về bài thơ Tràng Giang mẫu 3

Có những tác phẩm văn học vừa đọc xong, gấp lại là ta sẽ quên ngay, nhưng cũng có không ít những bài văn bài thơ, thật diệu kì, đã đi sâu vào lòng ta bằng một sức hút vô cùng mãnh liệt. Tràng giang của Huy Cận là một tác phẩm như vậy! Đọc Tràng giang, ta cảm thấy từng lời thơ, từng âm điệu... như những dòng chảy của một con sông, cứ len lỏi nhẹ nhàng nhưng chảy sâu vào tận đáy tâm hồn, khắc chạm vào đó những ấn tượng thâm trầm mà sâu sắc!...

“Thơ Huy Cận thường buồn”, Xuân Diệu, người bạn tri kỉ và cũng chính là người bạn đời thân thiết của Huy Cận cũng đã phải thốt lên như vậy! Là hai người bạn thân thiết của nhau, là hai người thi sĩ đa tình cùng yêu mến và tìm đến với thế giới thiên nhiên vô tận, nhưng ở Xuân Diệu, thiên nhiên say đắm ngọt ngào hương vị ngôn ngữ tình yêu, còn nơi Huy Cận, thì cây cỏ núi sông lại bình thản lặng lẽ như thấm thía nỗi buồn của “cái tôi” lẻ loi cô độc. Tràng giang là một trong những kiệt tác kết tụ từ nỗi sầu “mang mang thiên cổ” đó! Đọc bài thơ, có lẽ ta sẽ bắt gặp được một nỗi buồn, nỗi buồn của chàng thanh niên mà “trọn kiết mắt chàng thường đẫm lệ”, nỗi buồn có lẽ rất… Huy Cận mà đã hơn một lần Xuân Diệu nói về nó như sau:

“Trong thơ Việt Nam, nghe bay dậy một tiếng địch buồn, không phai sáo thiên thai, không phải điệu ái tình, không phải lời li tao kể chuyện một cái tôi, mà ấy là một bản ngậm ngùi dài" có phải tiếng đìu hiu của khóm trúc bông lau, có phải niềm than vãn của bờ sông bãi cát, có phai mặt trăng một mình đang cảm thông cùng các vì sao? Tiếng rền rĩ dịu em sẽ vấn lấy ta như một dải lụa ôm ấp một vế đau, tiếng len thấm thía vào hồn ta như khí hậu của núi đèo, tiếng làm thành sương đọng lệ trên mắt ta…”.

Một lời nhận xét thật hay! Mà có lẽ chỉ cần bấy nhiêu đó thôi, ta đã hiểu được khá nhiều về thơ Huy Cận!

Và đặc biệt là đối với Tràng giang …

Bài thơ chính là một bức tranh thiên nhiên mà linh hồn của nó là một nỗi buồn xa xăm, hoang vắng, có một cái gì đó như tàn lụi cô đơn".

Sóng gợi Tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Nhìn những cơn sóng nhỏ đang lặng lẽ gối đấu nhau mà đi xa đến tận cuối chân trời, tâm hồn nhà thơ bỗng dâng lên một nỗi buồn “điệp điệp”. Từ “điệp điệp” đã tạo nên hình ảnh một nỗi buồn ngàn trùng, một nỗi buồn triền miên, lớp lớp… Thường người ta nói trùng trùng điệp điệp để chỉ núi non, nhưng ở đây tác giả lại đem nó để miêu tả một nỗi buồn, đúng là một sáng tạo thật độc đáo tong cách dùng từ để hình ảnh hóa một nỗi buồn thật là lãng mạn! Âm điệu thơ như ngân xa da diết, như thân thuộc quen quen! Có lẽ Huy Cận đã liên tưởng đến một câu ca dao:

Sóng bao nhiêu gợn, dạ em sầu bấy nhiêu

Ở đây, có bao nhiêu gợn sóng trên dòng Tràng giang từ là có bấy nhiêu nỗi buồn thi sĩ. Câu thơ không chỉ nghiêng về số liệu mà còn nặng về sắc thái, nỗi buồn chỉ nhẹ nhàng lặng lẽ thôi nhưng da diết và dai dẳng, nó như vô tình ngàn xa và tạo thành một tiếng buồn vô tình, vang vọng mãi giữa đất trời vũ trụ…

Và… nổi bật giữa những lớp sóng bạt ngàn đó là hình anh của một con thuyền, một con thuyền nhỏ nổi bật giữa những lớp sóng nhưng cũng đang khuất chìm trong chúng! Hình ảnh độc đáo vô cùng! Chiếc thuyền con như đang lênh đênh, bập bềnh không định hướng, cứ xuôi mãi, xuôi mãi … theo dòng nước vô tận nghìn trùng…

Cụm từ “nước song song” cũng là một cấu tứ lạ mà ta chưa từng đọc bao giờ, nó đối với “buồn điệp điệp” ở câu trên như để gợi ra một nỗi buồn mênh mông trùng điệp!

Sang câu thơ thứ ba, nước và thuyền đã chuyển động ngược chiều nhau, con thuyền đã không còn trôi xuôi theo dòng nước nữa:

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng…

Thế cân bằng song song của câu thơ đã bị phá vỡ. Thuyền về, mà về đâu? … Không rõ! Chỉ để lại một mặt sông vắng bóng thuyền, nỗi cô đơn như trải rộng ra dường như vô tận. Hình ảnh con thuyền cứ khuất dần, khuất dần rồi xa mờ hẳn, nước đành chia “sầu trăm ngả”. Huy Cận đã khéo léo trong việc miêu tả sự vận động của sự vật để nói đến bước đi của không gian. Thời gian vận chuyển theo tầm nhìn con thuyền và không gian cũng mở rộng cùng với nó. Nếu như lúc trước, không gian chỉ xác định theo dòng nước đang chuyển động song song cùng với con thuyền thì hình bóng con thuyền đã trở nên mất dạng, không gian chợt mở rộng ra đến “trăm ngả”, vô tận mênh mông không có lấy một điểm tựa nào! Chính vì vậy, câu thơ thứ ba đã trở thành một đòn bẩy để nâng câu thơ cuối tạo thành một chi tiết độc đáo vô cùng:

Củi một cành khô lạc mấy dòng

Độc đáo về hình ảnh thơ và cả ý thơ! “Củi một cành khô” có lẽ là một hình ảnh mà ta chưa từng bắt gặp bao giờ, chính nó đã đưa đoạn thơ thoát khỏi bầu không khí cổ kính để trở về với thời hiện đại" một cành củi khô đang nổi trội dập dềnh giữa muôn vàn cơn sóng, lúc bị đẩy bên này, lúc lại dạt sang bên kia… Đó có phải chăng là hóa thân của một kiếp người lữ thứ, luôn lạc lõng bơ vơ, bị cuốn trôi theo chiều xoáy cuộc đời?

Tràng giang đó, vẫn bình thản suy tư qua lớp sóng “buồn điệp điệp”, qua dòng khơi “nước song song” và qua vẻ hừng hờ mặc cho “thuyền về nước lại” mặc cho nhánh củi lạc loài trôi!… Tràng giang!… Sóng gợn Tràng giang!…

Sang khổ thơ sau, tác giả đã đi sâu vào việc mô tả chi tiết nỗi buồn. Cái buồn bang bạc cả không gian giờ đã không còn đi lang thang vô địch trên sông mà đã tấp vào một cồn đất nhỏ:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Cảnh trong bài thơ chứa đầy tâm trạng. Có lẽ Huy Cận đã tập trung tất cả các hình ảnh và nhạc điệu để làm nổi bật lên cái buồn của con người trước cảnh trời rộng sông dài. Cảm giác buồn gởi trong vần điệu, trong các từ gợi hình mong manh và cô quạnh! “Lơ thơ” gợi hình ảnh, “đìu hiu” gợi cảm giác, cả hai từ láy như đã được nhà thơ phát huy hết hiệu quả để mô tả nỗi buồn, một nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng sâu lắng, buồn đến lạnh lẽo cô đơn, đến rợp ngợp tâm hồn.

Câu thơ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”, có thể hiểu là “đâu đây có tiếng làng xa vãn chợ”, nhưng đó cũng có thể là câu hỏi mà tác giả đặt ra cho chính bản thân mình" “đâu rồi”, “có đâu” tiếng “làng xa vãn chợ?”…

Ở đây, Huy Cận đã vận dụng khá tự nhiên một thủ pháp quan trọng trong thủ pháp cổ điển" mượn cái “động” để nói đến cái “tĩnh”, cố tìm kiếm và lắng nghe một âm thanh động để lặng đi trong bầu không khí tĩnh lặng đến rợn người!

Nỗi buồn ấy như càng trải rộng hơn trước cái nền không gian mà tác giả dựng nên bằng những từ ngữ vô cùng độc đáo:

Năng xuống, trời lên, sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu

Cùng một lúc, Huy Cận đã sử dụng thủ pháp của một nhà nhiếp ảnh và nghệ thuật của một nhà hội họa để dựng nên một bức tranh độc đáo. Thông thường từ “chót vót” chỉ được dùng để diễn tả chiều cao, vào thơ sâu thăm thẳm" không gian như vụt lớn hơn ra. Trên bức tranh sông dài hiện thêm một nét trời cao “sâu chót vót”, vài cồn đất nhỏ, “bến cô liêu”. Thiên nhiên phóng khoáng hơn và tưởng chừng sẽ sống động hơn, nhưng không! Khi lòng người còn “đìu hiu”, “cô liêu” thì “cảnh có vui đâu bao giờ”… Vài dải đất giữa sông dài, vài ngọn gió “đìu hiu”, chưa đủ để làm tươi cảnh vật và âm thanh của “tiếng làng xa vãn chợ chiều” thì mơ hồ và mong manh lắm! Quanh tác giả giờ đây chỉ còn có thiên nhiên, một thiên nhiên với cái buồn ảo não và da diết đến bang bạc cả không gian và thời gian" những lớp tiếng sóng gợn Tràng giang, tiếng đìu hiu heo hắt của bờ lau khóm trúc, nỗi sầu vạn cổ tự ngàn xưa chợt theo gió thổi về! Giờ đây, giữa thiên nhiên vũ trụ rộng mênh mông bao la ấy, chỉ còn lại có một mình tác giả, một mình đứng lặng chôn chân trong quạnh quẽ, cô liêu, cũng như Trần Tử Ngang, ngàn năm trước cũng đã có cuộc viễn du tương tự như thế:

Ao người trước đã qua!

Ai người sau chưa tới?

Giữa trời đất vô cùng

Mình ta luôn giọt lệ!

Người cô đơn lại gặp cảnh hoang vắng tịch liêu thì nỗi cô đơn ngày càng thêm đậm. Khổ thơ thứ ba như mở ra cái khung cảnh dường như không có chút dấu vết nào của sự sống, một khung cảnh như đã bị chìm đắm trong thế giới của sự ngột ngạt đến vô cùng.

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Nỗi buồn được mở rộng ra hơn, dù lời thơ có thêm được vài gam màu sắc nhạt nhòa! Cảnh có mở ra thêm bờ bờ bãi bãi, thêm ít màu sắc vàng tô điểm giữa bức tranh và thay thế "củi một cành khô" đơn độc lênh đênh đã là những đám bèo "hàng nối hàng" theo nhau đi mãi. Nhưng "hàng nối hàng" kia chợt xuất hiện trong dòng sông của nhà thơ như câu trả lời, đành để mặc cho tâm hồn mình trở thành một chiếc đảo cô đơn giữa mây trời sông nước" "Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề".

Một loạt các tình từ mênh mông lặng lẽ đã gợi lên không khí vắng vẻ u buồn, lại còn thêm những chi tiết phủ định" "Không một chuyến đò ngang”, không một chiếc cầu nối càng làng tăng nỗi cô liêu quạnh quẽ. Đến đây tình trạng cô đơn có lẽ đã lên tới đỉnh điểm, ước mong tìm thấy một "chút niềm thân mật" ở một “chuyến đò ngang”, một sự liên lạc nào đó với con người qua chiếc cầu nhỏ bé, nhưng tất cả đều không có được:

Thuyền không giao nối đây qua đó

Vạn thuở chờ mong một cánh buồm!

Đôi bờ sông như hai thế giới tách biệt nhau, bờ này tự thu mình không liên lạc với bờ kia! Dòng nước vẫn cứ vô tình hững hờ chảy. Tràng giang mỗi lúc một bao la, mỗi lúc mỗi ai hài dưới tâm tư trĩu nặng của người thi sĩ trẻ, đã sớm vương nỗi sầu thiên cổ mênh mang và những cánh bèo đang tản giạt trên lớp sóng nước kia có phải chăng chính là hình ảnh tượng trưng cho thân phận nhà thơ, của lớp người trẻ ở những năm ba mươi, cũng hoang mang vô địch, cũng mỏng manh nhỏ bé, cũng long đong nổi trôi theo dòng chảy bất tận của cuộc đời? Giống như tâm trạng mà Xuân Diệu một lần đã viết" "Chúng tôi cũng bơ vơ, mỗi hồn người là một cõi bơ vơ trong đất trời là một khung bơ vơ". Như vây, cái buồn của Huy Cận, của một chàng thi sĩ đã "hơn một lần gửi áo cho trăng" và lòng vẫn hay "sầu mưa", "tủi nắng” ấy không phải là cái buồn vô cớ, mà nó cũng chính là cái buồn của thời đại, mà nếu nói cho chính xác hơn thì đó là nỗi buồn của thanh niên tiểu tư sản trí thức lúc bấy giờ, những con người bị "giấc mơ con đè nát cuộc đời con" với những mảnh linh hồn nhưng lại bị "thiên hạ bỏ đìu hiu" với những đôi chân "muôn dấu rỗ, thủng gai đời"! Và có lẽ chính vì vậy hơn một lần họ đã từng than thở:

Nếu như chưa biết bao nhiêu lần hốt hoảng

Trong sầu đen đã gãy cánh như dơi

Nếu chưa biết bao nhiêu dòng lệ đắng

Chảy như sông không rửa sạch sầu đời!

Mượn dòng sông để soi linh hồn bé nhỏ cô đơn, nỗi buồn kia như lại càng thêm oằn sâu và trĩu nặng! Nhà thơ đã đem lại cái tâm trạng đầy cô đơn buồn bã ấy mà phủ lên cảnh vật thiên nhiên.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Trên giữa bầu trời xanh mênh mông, mây đùn lên trông giống như những ngọn núi bạc trắng xóa, chợt xuất hiện một cánh chim bé nhỏ mà "Bóng chiều sa nặng đến nỗi nó phải nghiêng cánh" (Xuân Diệu).

Dùng một vật hữu hình để diễn tả một cái vô hình. Thật khó để hình dung được ranh giới giữa cái nhỏ bé hữu hạn và cái lớn lao vô hạn mà Huy Cận đã đưa ra! Cảnh vật hiện lên trong thơ ông dù cho rất buồn nhưng vẫn chưa đựng được một cái gì đó hùng tráng và mạnh mẽ. Điều độc đáo ở đây chính là cách nhìn của nhà thơ! "Trong cánh chim nghiêng, tác giả đã thấy được bóng chiều sa!". Trong lúc Nguyễn Du thấy "bóng chiều" qua những nhánh "tơ liễu thướt tha" Hàn Mặc Tử thấy "bóng xuân sang" trên những giàn thiên lí, thì ở đây Huy Cận cũng tỏ ra tinh tế không kém khi nhận thấy "bóng chiều" về trên một cánh chim nghiêng! Một cánh chim lẻ loi, chấp chới trong ánh chiều đang xuống, khiến cho trời đất như rộng trải ra thêm! Không gian vừa mới trải mênh mông trong dáng dấp ngàn mây "lớp lớp" chất chồng, chợt ầm xuống hoàng hôn rất nhanh, đó cũng là khi tâm hồn người lữ khách chợt bâng khuâng nhớ đến quê nhà.

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Âm hưởng của thơ Đường triền miên trong câu cuối, mượn niềm luyến nhớ quê hương của Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc Lâu.

Nhật một hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu

Nhưng Huy Cận đã bộc lộ tình yêu đậm đà tha thiết hơn! Tình yêu khắc khoải nên thủy triều rạo rực xôn xao. Điệp từ “dợn dợn” cũng rập rờn như sóng Tràng giang “điệp điệp”, cái rập rờn trùng điệp chan chứa biết bao tình. Ngày xưa, nhà thơ Đường phải có “khói sóng trên sông”, Hồ Dzếnh phải có “khói buồn bay lên mây” mới có thể gợi nhớ quê hương, mới có thể “nhớ nhà trong điếu thuốc”, nhưng còn ở đây thì lại khác. Nhân vật trữ tình trong thơ Huy Cận đứng trước cảnh không sương, không khói hoàn hôn mà cũng rung rung nỗi nhớ về một miền quê xa khuất phía chân trời. Huy Cận chẳng cần ngoại cảnh! Lúc này cái buồn đã thành hình, không chỉ còn là cái cảm giác sầu mênh mông vời vợi do xúc cảm sinh tình khi ngắm nước Tràng giang. Hai câu kết được gói gọn trong những dòng cảm xúc thiết tha và đẹp đẽ! Và nó làm ta gợi nhớ đến những câu thơ ngày trước:

Đạm đạm trường giang thủy

Du du viễn khách tình

Bao phủ toàn bài thơ là một nỗi buồn rộng khắp và thấm thía, một nỗi buồn mà Hoài Thanh đã từng nhận xét" “Người nói cùng ta nỗi buồn nơi quán chật đèo cao, nỗi buồn của sông dài trời rộng, nỗi buồn của người lữ thứ dừng ngựa trên non, buồn đêm mưa, buồn nhớ bạn… Người đã gợi dậy cái hồn buồn của Đông Á, người đã khơi gợi cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này!”.

Buồn nhưng không bi quan, không chán nản! Bài thơ hiện diện với tư cách là một bài thơ buồn nhưng vẫn đậm đà và lắng sâu một tình yêu quê hương tha thiết nồng nàn! Có phải chăng vì vậy mà Xuân Diệu đã từng ca ngợi" “Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc”.

Cảm nhận bài thơ Tràng Giang mẫu 4

Tràng Giang là một trong những bài thơ tiêu biểu của tài năng Huy Cận và thể hiện rõ chất tâm hồn ông. Huy Cận cũng đã nhiều lần kể lại quá trình viết nó. Cảm hứng thơ được gợi từ phong cảnh sông nước vùng Chèm Vẽ ngoại thành Hà Nội. Bây giờ nơi này đã là nội thành đông đúc với nhiều nhà cao tầng, biệt thự nhưng vào thời Huy Cận viết Tràng giang cho đến mấy chục năm sau, nó đìu hiu sông nước, vắng lặng, đẹp và buồn đúng như trong bài thơ đã tả.

Huy Cận kể lại, ông đã thử vào bài bằng nhiều thể thơ, nhưng cuối cùng chọn thơ bảy chữ, đậm chất Đường thi. Ông còn cho biết Lớp lớp mây cao đùn núi bạc là do ông học ở bản dịch thơ Đỗ Phủ “Mặt đất mây đùn cửa ải xa". Ý kết là ông tựa vào thơ Thôi Hiệu, qua bản dịch của Tản Đà “Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” để tả nỗi buồn của lòng mình: Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Chính không gian Đường thi trong hơi thơ bảy chữ tạo nên sự cộng hưởng cảm xúc đồng chiều ấy. Nếu viết ở thể thơ khác, chưa chắc đã có sự cộng hưởng ấy. Huy Cận buồn hơn Thôi Hiệu. Huy Cận thừa biết mình đứng nhờ trên vai người ta, có cao nhưng không chắc mình có chiều cao hơn người ta. Đọc Tràng giang có thể thấy buồn Hoàng Hạc lâu nhưng là ở nhiều chỗ khác chứ không phải ở câu kết so đo ấy.

Bài thơ này có vẻ đẹp cổ điển, trang trọng mở vào cao rộng trời đất mà nỗi buồn lại thấm thía sâu thẳm xuống một cõi lòng. Nỗi buồn bàng bạc mơ hồ nhưng đụng vào đầu cũng thấy. Mơ hồ vì buồn không rõ lí do cụ thể. Bàng bạc vì không rõ sắc thái, không rát bỏng nhưng ngân nga như một nỗi bâng khuâng, một tâm trạng nhớ không đối tượng: trời rộng nhớ sông dài. Câu đề từ quả đã ôm đủ chủ đề bài thơ. Nỗi bâng khuâng buồn nhớ đựng đầy không gian. Cảnh nào cũng gợi buồn, cảnh bị nhiễm vào từ trường tình cảm. Huy Cận nói: Đây là bài thơ của tâm hồn. Tâm hồn ông khi ấy thường trực một nỗi buồn thế hệ, cái thế hệ vừa biết suy nghĩ thì chạm ngay vào nỗi buồn mất nước, vào thân phận nhược tiểu, một linh hồn nho nhỏ/ mang mang thiêng cổ sầu. Chất tâm hồn bất thường bắt rất nhạy cảm xúc không gian rộng xa, vắng lặng hắt hiu. Riêng với Huy Cận, người đã từng “nghiêng tai kì diệu” nửa nghe vũ trụ nửa nghe lòng mình. Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn buồn thì không gian trời nước quãng sông Hồng nơi Chèm Vẽ cộng hưởng với lòng ông mà thành thơ là điều không khó hiểu.

Chữ tràng trong Tràng giang đề bài và trong câu đầu tiên vốn ít dùng trong ngôn ngữ giao tiếp hơn trường nhưng Huy Cận lại chọn dùng… Có người giảng là để khỏi nhầm với sông Trường Giang bên Trung Quốc. Chả hiểu có đúng thế không. Nhưng chỉ căn cứ vào âm thanh (chứ không phải chỉ nghĩa chữ) thì giang hai âm vang đồng dạng đứng liền nhau gợi được khoảng rộng, dàn theo chiều ngang, bát ngát bao la hơn là trường. Trường chỉ cho thấy chiều dài, đa nghĩa chữ và hình âm trường thuôn lại trong khi tràng mở ra. Mặt sông dài rộng, nên đầu sóng của sông, vốn thấp như càng thấp thêm, chỉ như gợn nhẹ mặt sông phẳng. Đã rộng lại tĩnh nên gợi buồn, buồn điệp điệp. Chứ sóng mà dào dạt hay réo sôi chắc dẫn tới cảm giác khác. Điệp điệp là trạng thái của gợn sóng trên tràng giang và cũng là của gợn buồn trong lòng người. Câu vào này buồn thật. Nhưng câu thứ hai: “Con thuyền xuôi mái nước song song" có người cũng cho là câu thơ buồn, buồn lắm, lấy lí rằng: song song là chẳng bao giờ gặp nhau, là không gắn bó gì với nhau. Đấy là vận dụng định lý đường song song trong hình học sơ cấp vào hình tượng văn chương. E khó thuyết phục. Thuyền nước trong câu thơ này là đang gắn bó, thậm chí hài hoà xuôi chèo mát mái. Câu thơ này không buồn. Hơn nữa, vui. Đang vui. (Chữ nước song song chỉ là một dụng ý để đối với buồn điệp điệp). Có đang vui mới dẫn đến cái buồn ở câu sau. Mới tạo nên mối tương quan: vui chỉ khoảnh khắc mà buồn thì tất yếu, ấy là lúc thuyền về tới bến, nước vẫn tiếp tục đi, đi một mình, phiêu bạt hai ngả rẽ vô thường nên mới kinh hãi với cái sầu trăm ngả. Hình ảnh sông nước đến đây đã nhập vào thân phận con người. Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả. Một chữ lại (trạng từ), lại sầu… cho thấy cách nhìn đời hồi ấy của Huy Cận khá giống Xuân Diệu (hoa nở để mà tàn - Trăng trong để mà khuyết - Bèo hợp để chia tan - Người gần để li biệt). Thuyền và nước song song xuôi mái chỉ khoảnh khắc rồi lẻ loi với bao nhiêu ngã ba sông nước, sầu trăm ngả. Từ hình ảnh trăm ngả dẫn đến câu cuối đoạn như mội tổng kết:

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Trên sông Hồng, nhất là mùa lũ có thể thấy cả cây trôi, thân gỗ trôi, vật vã nổi chìm trong sóng đục phù sa. Cảnh gợi tang thương. Nhưng không phải mà cảm xúc Huy Cận ở bài này. Ông nói ông phải lựa chọn hình ảnh sao cho ra cai thân phận nổi nênh của kiếp người. Chọn củi hơn là gỗ, chọn một cành không hơn là những cây tươi. Củi một cành mà lạc mấy dòng thì đắt quá, chưa kể nó còn ứng với sầu trăm ngả ở trên.

Đoạn một là nhìn vào mặt sông mà tả. Chi tiết tung hứng, ngôn ngữ đăng đổi và ngay trung tâm của chủ đề. Đoạn hai nhìn ra xa xung quanh: cồn nhỏ, làng xa, trời sâu, bến rộng… không gian mở ra rộng – cao để hồn ngấm vào thưa vắng. Thưa vắng và yên tịnh. Chỉ một âm thanh xa, vọng tự đâu không rõ, mơ hồ như nghe trong hoài niệm một phiên chợ quê lúc vãn người. Âm thanh mơ hồ là cách đặc tả cái tĩnh lặng. Đoạn thơ này mở không gian. Chiều thẳng đứng thì như đang dãn dần ra theo nắng, theo trời: “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót”. Sâu chứ không cao là một sáng tạo, gây ấn tượng. Chiều năm ngang thì “ Sông dài, trời rộng, bến cô liêu"… Không màu sắc, không âm thanh, không hoạt động. Tất cả bất động, lặng đi, ngấm vào nỗi cô liêu.

Cõi rộng không giới hạn, tả dễ miên man. Huy Cận tỉnh táo chuyển lại ánh về mặt sông, về chỗ bắt đầu bài thơ “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng”. Đẩy mức vắng lặng tới chỗ bặt dấu người. Hai đoạn trên còn có thuyền, có chợ. Giờ đây, trên sông chỉ còn có bèo, duy nhất bèo, hàng nối hàng. Không đò ngang, không cầu bắc, không thấy một công trình nào mang dấu người, chỉ lặng lẽ thiên nhiên với thiên nhiên. Buồn lan theo cảnh. Buồn trải ra xa “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Rồi lại dựng lên cao “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc". Trút qua đôi cánh chim nhỏ và rơi xuống một lòng người, ở chỗ cảnh bặt dấu người, nên lòng mới trội lên nỗi nhớ quê, lòng quê. Tình thế trôi dạt nổi nênh của ngoại cảnh làm con người ngậm ngùi thân phận, thèm tình cảm ấm áp gia đình quần tụ. Bài thơ khép lại trong nỗi nhớ nhà. Tính lôgíc trong những bước chuyển của tâm hồn rất được coi trọng trong bài thơ này. Có lẽ vì thế Huy Cận tự giới thiệu: “Tràng giang là bài thơ tình, và tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận - Mẫu 5

Huy Cận là một nhà thơ gắn liền với phong trào thi ca cách mạng Việt Nam. Trước Cách mạng tháng tám, thơ ông mang nổi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: “Lửa thiêng”, “Vũ trụ ca… Nhưng sau cách mạng tháng Tám, thơ ông lại mang một màu sắc mới, thơ ông chủ yếu hướng tới cuộc sống và con người, thiên nhiên, tiêu biểu với những tác phẩm như: “Trời mỗi ngày lại sáng”, “Đất nở hoa”… Và một trong những tác phẩm không thể không kể đến đó là tác phẩm “Tràng Giang” được trích từ tập “ Lửa Thiêng”, bài thơ gợi lên vẻ đẹp của thiên nhiên nhưng lại chất chứa một nỗi buồn ảm đạm, ẩn dụ cho một kiếp người nhỏ bé, trôi nổi giữ dòng đời vô định.

Với nhan đề “ Tràng Giang” có nghĩa là “ sông dài” đã gợi cho người đọc một không gian mênh mông, không bến bờ. “Tràng Giang” hai câu từ vừa mang sắc thái cổ điển trang nhã, lại vừa gợi liên tưởng cho người đọc về dòng “Trường giang” trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, nhưng ẩn chứa sau cái mênh mông đó lại là nỗi ưu tư, nỗi buồn của một kiếp người nhỏ bé giữa cái vũ trụ bao la, mênh mông.

Tiếp đến là câu đề từ chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài". Đứng trước cảnh "trời rộng", "sông dài" lại khiến cho lòng người dấy lên tình cảm "bâng khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng khuâng" được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Với bốn câu thơ đầu tiên mở đầu cho bài thơ đã hiện lên rõ mồn một được không gian thiên nhiên mênh mông và sự buồn ảm đạm. Hai từ láy nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ tạo thêm cho người đọc có được không gian mênh mông, bát ngát và mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Sóng thường rất dữ dội, nhưng trong thơ của Huy Cận thì “ sóng gợn” tạo cảm giác cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn kết hợp với “ điệp điệp” càng làm cho người đọc thấy được nỗi buồn đó vô cùng lớn, cứ nối tiếp nhau mãi không hết. Hình ảnh con thuyền ở đây cũng chính là một hình ảnh ẩn dụ cho con người, sự dịch chuyển lặng lẽ, “ song song” giống như thân phận của mỗi người luôn luôn trôi nổi giữa dòng không biết đi đâu về đâu. Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thế mà tác giả lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách "thuyền về nước lại", nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi "sầu trăm ngả". Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: "Củi một càng khô lạc mấy dòng". Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. "Một" gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, "cành khô" gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, "lạc" mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên "mấy dòng" nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạt đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.

Bằng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, bằng những ngôn từ những hình tượng hết sức gần gũi với cuộc sống của mọi người, làm cho người đọc thấu hiểu và cảm nhận được không gian mênh mông bao la, và nỗi buồn vô định trong lòng người ẩn chứa trong bức tranh thiên nhiên hùng vỹ.

Và nỗi lòng đó dần đần được mở ra, đưa người đọc dần dần khám phá tìm hiểu

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.”

Hai từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. Giữa khung cảnh “lơ thơ”, “cồn nhỏ”, gió thì “đìu hiu”, một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, cùng với sự ít ỏi cô độc khiến cho con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều". Khi nhắc đến khung cảnh chợ, mọi người thường gợi nhớ đến sự nhộn nhịp tấp lập người buôn người bán, nhưng ở đây Huy Cận lại lựa chọn khung cảnh là chợ chiều, khiến cho mọi người thấy được sự yên lặng, vắng vẻ.

“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

“Nắng xuống, trời lên” gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, nhưng vẫn gợi cả sự chia lìa: bởi nắng và trời mà lại bị tách bạch khỏi nhau. Hình ảnh “sâu chót vót” là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đồng thời, điều đó cho thấy nỗi buồn của nhà văn không chỉ dừng lại ở thiên nhiên xung quanh mà còn gửi lên đến tận trời cao. Hình ảnh “ sông dài”, “ trời rộng”, “ bến cô liêu” cho thấy được không gian bao la của mênh mông, và sự cô đơn lẻ loi của sự vật trước cái cảnh tượng mênh mông đó. Bằng nghệ thuật so sánh, tác giả đã khiến cho người đọc không chỉ thấy nỗi buồn của cảnh vật xung quanh mà nó còn là cảnh vật của lòng người. Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu.

“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cần gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là “hàng nối hàng” chứng tỏ rằng không có một số từ nào có thể miêu tả hết được những số phận cô đơn lạc long trong cuộc sống

“Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật.”

Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. "…không…không" để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.

Tiếp đến tác giả lại khéo léo sử dụng những hình tượng mẫu tỏng thi ca cổ điển để diễn tả nỗi lòng

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.”

Hình ảnh thơ là những nét chấm phá của thiên nhiên vừa mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường. Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn đùn ra mãi. Hình ảnh chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.

Như vậy, bằng những nét chấm phá tả cảnh thiên nhiên bằng những biện pháp so sánh, tu từ độc đáo đã làm lên không gian bao la bát ngát của thiên nhiên cùng với nỗi buồn sâu thăm cho những kiếp người. Nhưng giữa thiên nhiên và còn người trong thơ Huy Cận lại rất hòa hợp và đan quyện vào nhau làm an chảy trái tim của người đọc. Điều này, cho thấy được rằng sự tài tình qua các dùng từ, sự cảm nhận của thiên nhiên bằng đôi mắt rất tinh tế, sự bày tỏ lòng mình một cách chân thực đã đem đến cho người đọc một tâm trạng hết sức đồng cảm. Qua đó, nhà thơ Huy Cận còn bày tỏ tình yêu quê hương đất nước con người của chính bản thân ông.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận - Mẫu 6

Đời người không khỏi có những lúc bước chân lang thang đến những nơi yên tĩnh để lắng đọng tâm hồn. Những lúc ấy người ta cảm thấy mình bé nhỏ trước không gian mênh mông, vũ trụ rộng lớn. Rồi chợt họ nhận ra kiếp người sao quá ngắn ngủi, đời người thật phù du và con người nhỏ bé trước vạn vật. Đọc “Tràng giang" của Huy Cận cảm xúc trong tôi dâng lên nỗi buồn cô quạnh khi nghĩ về những kiếp người trôi nổi, lênh đênh.

Bài thơ “Tràng giang” ra đời vào năm 1939 khi hồn thơ của Huy Cận mang nét u sầu, chất chứa nhiều phiền muộn, tâm tư. Chính vì thế mà những từ ngữ trong bài phản ánh trực tiếp cái sầu của thi sĩ trước thời cuộc và những suy nghĩ của tác giả trên hành trình đi tìm “Thơ mới”.

Tên tác phẩm “Tràng giang" đã tạo một ấn tượng mạnh mẽ về con sông dài, mênh mông. Tựa đề cũng tạo cảm giác hoài cổ khi thi sĩ sử dụng một loạt từ Hán Việt. Đã có rất nhiều người thử thay thế tên tác phẩm “Tràng giang" thành “Trường giang" nhưng riêng tôi cho rằng cái tên vốn có của nó vẫn chính xác nhất vì khi dùng “Trường giang" chỉ mới diễn tả được độ dài của con sông mà thôi. Thế nhưng khi thay bằng “Tràng giang" con sông không chỉ dài mà còn rộng. Sông trở nên mênh mông, bát ngát hơn từ đó nói lên được ý đồ của tác giả trong sự đối lập giữa thiên nhiên rộng lớn và con người bé nhỏ. Câu đề từ tiếp tục khẳng định về một con sông rộng lớn “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài". Nhưng cảm giác mang lại là sự lưu luyến, nhớ thương về một con sông trong quá khứ.

Khổ thơ đầu tiên không chỉ mang đến bức tranh buồn, cô đơn mà thiên nhiên còn gợi cảnh chia li, tách rời

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Với những câu thơ đầu tiên, tác giả sử dụng nhiều hình ảnh như sóng, con thuyền, củi. Sóng đi liền với động từ “gợn" - dịch chuyển nhẹ nhàng, lăn tăn lan xa. Chỉ với một nét gợn nhẹ ấy cũng đủ làm cho nhân vật trữ tình trở nên buồn bã. Từ láy “điệp điệp" diễn tả nỗi buồn chồng chất, nối tiếp nhau. Nỗi buồn không chỉ dâng lên một lúc mà nó còn kéo dài mãi, miên man không dứt. Trên những gợn sóng ấy xuất hiện “con thuyền xuôi mái" – cô đơn, lạc lõng, bơ vơ. Không nghe thấy tiếng mái chèo tạo nên tiếng sóng vỗ vào mạn thuyền chỉ thấy một con thuyền buông xuôi, lênh đênh mặc cho nước xuôi dòng. Câu thơ còn độc đáo trong việc khắc họa sự tách rời giữa thuyền và nước. Thiên nhiên không chỉ gợi buồn mà khung cảnh chia lìa cũng thấy rõ.

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả" là câu thơ có thể hiểu nhiều cách. Thứ nhất có thể hiểu là khi thuyền về nỗi sầu của nước lại nhân lên gấp bội. Cách thứ hai chỉ rõ hơn về sự chia cắt khi thuyền và nước đi ngược chiều nhau. Lúc thuyền về lại chốn cũ cũng là lúc nước ở lại với dòng sông cùng nỗi sầu, nhưng nỗi sầu này không chỉ đi theo nước một nơi mà là nhiều chốn khác nhau. Phép đối đã được sử dụng thành công để nói về sự chia cách này. Khép lại khổ một Huy Cận mang đến một hình ảnh đậm nét cô đơn - “củi". Tính chất của hình ảnh này là “khô" – héo úa, không còn sự sống cùng với phép đối giữa “một cành khô" – “mấy dòng” càng nhấn mạnh hơn sự chiếc bóng, lẻ loi của củi trên hành trình của mình. Động từ “lạc" đã nói lên được sự bấp bênh, lênh đênh của sự vật nhưng tác giả dùng “lạc mấy dòng" thì càng làm rõ hơn sự gian nan, “bảy nổi ba chìm" của củi. Chỉ với khổ một nhưng tâm trạng mang lại đã buồn bã, u sầu đến vậy.

Tác giả bắt đầu với khổ thơ đầu tiên trong phạm vi hẹp. Đến với khổ thơ tiếp theo, không gian bây giờ đã được mở rộng hơn.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài trời rộng bến cô liêu.”

Hình ảnh “cồn nhỏ" gợi lên không gian vắng lặng, trơ trọi. Tính từ “nhỏ" làm cho hình ảnh này càng bé nhỏ, chơ vơ kết hợp với từ láy “Lơ thơ" gợi cảm giác ít ỏi diễn tả bức tranh thiếu sức sống trên cồn cát. Không gian trên cồn không chỉ buồn mà còn hiu hắt. Đến gió cũng mang cái “đìu hiu" buồn bã, thê lương như nhấn khung cảnh vào nỗi u sầu. Các câu thơ mà tác giả sử dụng trong bài đôi khi được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều" có thể hiểu là một câu hỏi tu từ về vị trí của “tiếng làng xa", trông ngóng về tiếng họp buổi chiều tà. Tuy nhiên “đâu" cũng là một từ mang nghĩa phủ định, tức là đến cả tiếng nói cũng những người họp chợ nhà thơ cũng không hề nghe thấy. Tất cả chỉ còn lại một không gian tĩnh lặng đến lạnh lùng.

Không gian trong khổ thơ thứ hai vừa mở rộng về chiều cao và dài nhưng đồng thời cũng mở rộng cả chiều sâu vũ trụ. Thủ pháp nghệ thuật tương phản “Nắng xuống trời lên" đã giúp không gian mở rộng theo chiều cao. Nắng chiếu xuống tới đâu thì bầu trời càng được đẩy cao tới đó. Chốt lại câu thơ tác giả sử dụng “sâu chót vót" không những gợi được cái thăm thẳm, hun hút mà còn giúp cho vũ trụ được kéo dài ra nhấn mạnh hơn sự nhỏ bé của con người trước thiên hà. Câu thơ cuối cùng của khổ chính là bức tranh thiên nhiên rộng lớn, bát ngát với “sông dài trời rộng". Trên nền không gian ấy xuất hiện “bến cô liêu". Hình ảnh này không chỉ lột tả được cái nhỏ nhoi, đơn độc mà “cô liêu" còn là sự quạnh quẽ, lanh lẽo, chơ vơ. Nghệ thuật tương phản giữa hình ảnh bé nhỏ với không gian rộng lớn càng tô đậm hơn sự u sầu, buồn bã của tác giả khi nghĩ về kiếp người trôi nổi, long đong.

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

“Bèo" – sinh vật phù du mang trong mình kiếp sống trôi nổi, bấp bênh, đã vậy còn kết hợp với động từ “dạt" làm rõ hơn sự chìm nổi của sinh vật này. “Đâu" từ hỏi về nơi chốn của “bèo". Hình ảnh bèo lạc lõng, bơ vơ, không điểm tựa không nơi bám vía. “Hàng nối hàng" như khắc họa rõ hơn về số phận của loài sinh vật này. Đọc câu thơ ta có thể liên tưởng về những kiếp người nổi trôi, không có nơi nương tựa. Và trong không gian “mênh mông" đó, tác giả mong ngóng có thể nhìn thấy chuyến đò để cảm nhận được sự sống nhưng dường như không có tín hiệu đáp lại sự mong chờ ấy. “Không một chuyến đò" cũng đồng nghĩa không có hoạt động của con người, điều này càng làm cho nỗi cô đơn dâng lên. Trong khổ thơ này, thi sĩ sử dụng nhiều từ phủ định nhằm khắc họa sự cô đơn trống vắng của lòng người. Tiếp sau “không đò” là “không cầu". Chiếc cầu vốn là hình ảnh đặc trưng của miền quê, mang nét giản dị, thân mật. Nhưng vì hình ảnh này không có nên có thể thấy thiếu vắng cảm giác quê hương. Câu thơ cuối tác giả sử dụng màu xanh và vàng nhằm vẽ nên bức tranh tươi sáng hơn nhưng từ láy “lặng lẽ” đã dìm màu sắc này xuống. Hai hình ảnh “bờ xanh”, “bãi vàng” không còn được tươi tắn như màu sắc ban đầu của nó. Từ láy này được đưa lên đầu như sự nối tiếp của nỗi cô đơn từ vật này sang vật khác.

Trong ba khổ thơ đầu, tác giả chỉ miêu tả về thiên nhiên thì khổ thơ cuối cùng thi sĩ đã bộc lộ nỗi niềm nhớ nước của mình

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh mỏi bóng chiều xa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Chỉ với 4 câu thơ nhưng nhà thơ đã cho thấy sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại. Từ láy hoàn toàn “lớp lớp” diễn tả sự chồng chất, nối tiếp nhau. Câu thơ đầu tiên khắc họa những đám mây từng lớp đùn lên thành những dãy núi bạc. Đến đây, ta chợt nhớ tới chữ “đùn” trong bài “Thu hứng” của Đỗ Phủ:

“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”

Nếu như với Đỗ Phủ câu thơ trên là hình ảnh mây trắng sà xuống thấp tới mức tưởng như đùn từ mặt đất lên, che lấp cả cửa ải phía xa xa. Thì trong câu thơ “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” lại mang tới hình ảnh nhiều lớp mây chồng chất lên nhau giống như nỗi sầu của thi nhân đã thấm sâu vào cảnh vật, nó chất chứa trong tâm hồn ông giống như tầng tầng lớp lớp mây kia chất chồng thành núi bạc vậy. Câu thơ tiếp theo tác giả sử dụng thủ pháp cổ điển để nói về tình cảnh lẻ loi đơn độc của cánh chim trước “bóng chiều sa”. Hình ảnh “chim nghiêng cánh nhỏ” không chỉ gợi sự đơn độc mà “nghiêng” còn nói tới trạng thái mất cân bằng, không rõ nơi trú của mình là đâu, hình ảnh này càng làm nổi bật hơn sự lận đận của kiếp người trước thiên nhiên. Trong không gian buồn ấy, thi sĩ bỗng nhớ về quê hương

“Lòng quê dợn dợn vời con nước”

“Dợn dợn" là gợi lên, dấy lên, có những cảm xúc khó nói. Chỉ cần nhìn thấy “con nước” là lòng thi sĩ là nhớ về quê hương – nỗi nhớ thường trực. Nếu như ở các câu thơ trên phải có một hình ảnh, chi tiết nào về cố hương thì thi sĩ mới bộ lộ cảm xúc của mình còn trong câu thơ cuối “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà" thì không cần bất cứ sự vật nào nỗi nhớ ấy vẫn cứ ùa về. Trong thơ Đường hơn nghìn năm trước cũng từng có tác phẩm nói về nỗi nhớ quê hương

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.”

(Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trêm sông khói sóng cho buồn lòng ai)

(Hoàng Hạc Lâu – Thôi Hiệu)

Nhưng Thôi Hiệu nhìn thấy khói sóng liền nhớ về quê nhà của mình còn Huy Cận không cần thấy gì nỗi nhớ ấy vẫn dấy lên. Nếu như Thôi Hiệu đứng trên xứ người lòng khắc khoải hướng về cố hương thì Huy Cận lại đặc biệt hơn khi chính ông đang đứng trên mảnh đất của mình nhưng lòng buồn bã, bâng khuâng khôn nguôi.

Như vậy, bằng cách kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố Đường thi và yếu tố Thơ mới, cùng với việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật như từ láy, biện pháp tương phản,… nhà thơ Huy Cận đã giúp người đọc cảm nhận về một bức tranh thiên nhiên mênh mông. Ở đó con người có thể cảm thấy sự bé nhỏ của mình trước không gian, kiếp người ngắn ngủi trước vũ trụ. “Tràng giang” còn là tiếng lòng của một người con yêu quê hương, đất nước sâu nặng.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận - Mẫu 7

Huy Cận là một nhà thơ gắn liền với phong trào thi ca cách mạng Việt Nam. Trước Cách mạng tháng tám, thơ ông mang nổi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: “Lửa thiêng”, “Vũ trụ ca… Nhưng sau cách mạng tháng Tám, thơ ông lại mang một màu sắc mới, thơ ông chủ yếu hướng tới cuộc sống và con người, thiên nhiên, tiêu biểu với những tác phẩm như: “Trời mỗi ngày lại sáng”, “Đất nở hoa”… Và một trong những tác phầm không thể không kể đến đó là tác phầm “Tràng Giang” được trích từ tập “ Lửa Thiêng”, bài thơ gợi lên vẻ đẹp của thiên nhiên nhưng lại chất chứa một nỗi buồn ảm đạm, ẩn dụ cho một kiếp người nhỏ bé, trôi nổi giữ dòng đời vô định.

Với nhan đề “ Tràng Giang” có nghĩa là “ sông dài” đã gợi cho người đọc một không gian mênh mông, không bến bờ. “Tràng Giang” hai câu từ vừa mang sắc thái cổ điển trang nhã, lại vừa gợi liên tưởng cho người đọc về dòng “Trường giang” trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, nhưng ẩn chứa sau cái mênh mông đó lại là nỗi ưu tư, nỗi buồn của một kiếp người nhỏ bé giữa cái vũ trụ bao la, mênh mông.

Tiếp đến là câu đề từ chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài". Đứng trước cảnh "trời rộng", "sông dài" lại khiến cho lòng người dấy lên tình cảm "bâng khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng khuâng" được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Với bốn câu thơ đầu tiên mở đầu cho bài thơ đã hiện lên rõ mồn một được không gian thiên nhiên mênh mông và sự buồn ảm đạm. Hai từ láy nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ tạo thêm cho người đọc có được không gian mênh mông, bát ngát và mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Sóng thường rất dữ dội, nhưng trong thơ của Huy Cận thì “ sóng gợn” tạo cảm giác cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn kết hợp với “ điệp điệp” càng làm cho người đọc thấy được nỗi buồn đó vô cùng lớn, cứ nối tiếp nhau mãi không hết. Hình ảnh con thuyền ở đây cũng chính là một hình ảnh ẩn dụ cho con người, sự dịch chuyển lặng lẽ, “ song song” giống như thân phận của mỗi người luôn luôn trôi nổi giữa dòng không biết đi đâu về đâu. Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thế mà tác giả lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách "thuyền về nước lại", nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi "sầu trăm ngả". Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: "Củi một càng khô lạc mấy dòng". Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. "Một" gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, "cành khô" gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, "lạc" mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên "mấy dòng" nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạc đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.

Bằng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, bằng những ngôn từ những hình tượng hết sức gần gữi với cuộc sống của mọi người, làm cho người đọc thấu hiểu và cảm nhận được không gian mênh mông bao la, và nỗi buồn vô định trong lòng người ẩn chứa trong bức tranh thiên nhiên hung vỹ

Và nỗi lòng đó dần đần được mở ra, đưa người đọc dần dần khám phá tìm hiểu

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.”

Hai từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. Giữa khung cảnh “lơ thơ”, “cồn nhỏ”, gió thì “đìu hiu”, một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, cùng với sự ít ỏi cô độc khiến cho con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều". Khi nhắc đến khung cảnh chợ, mọi người thường gợi nhớ đến sự nhộn nhịp tấp lập người buôn người bán, nhưng ở đây Huy Cận lại lựa chọn khung cảnh là chợ chiều, khiến cho mọi người thấy được sự yên lặng, vắng vẻ.

“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

“Nắng xuống, trời lên” gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, nhưng vẫn gợi cả sự chia lìa: bởi nắng và trời mà lại bị tách bạch khỏi nhau. Hình ảnh “sâu chót vót” là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đồng thời, điều đó cho thấy nỗi buồn của nhà văn không chỉ dừng lại ở thiên nhiên xung quanh mà còn gửi lên đến tận trời cao. Hình ảnh “ sông dài”, “ trời rộng”, “ bến cô liêu” cho thấy được không gian bao la của mênh mông, và sự cô đơn lẻ loi của sự vật trước cái cảnh tượng mênh mông đó. Bằng nghệ thuật so sánh, tác giả đã khiến cho người đọc không chỉ thấy nỗi buồn của cảnh vật xung quanh mà nó còn là cảnh vật của lòng người. Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu.

“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cần gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là “hàng nối hàng” chứng tỏ rằng không có một số từ nào có thể miêu tả hết được những số phận cô đơn lạc long trong cuộc sống

“Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật.”

Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. "…không…không" để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.

Tiếp đến tác giả lại khéo léo sử dụng những hình tượng mẫu tỏng thi ca cổ điển để diễn tả nỗi lòng

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.”

Hình ảnh thơ là những nét chấm phá của thiên nhiên vừa mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường. Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn đùn ra mãi. Hình ảnh chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.

Như vậy, bằng những nét chấm phá tả cảnh thiên nhiên bằng những biện pháp so sánh, tu từ độc đáo đã làm lên không gian bao la bát ngát của thiên nhiên cùng với nỗi buồn sâu thăm cho những kiếp người. Nhưng giữa thiên nhiên và còn người trong thơ Huy Cận lại rất hòa hợp và đan quyện vào nhau làm an chảy trái tim của người đọc. Điều này, cho thấy được rằng sự tài tình qua các dùng từ, sự cảm nhận của thiên nhiên bằng đôi mắt rất tinh tế, sự bày tỏ lòng mình một cách chân thực đã đem đến cho người đọc một tâm trạng hết sức đồng cảm. Qua đó, nhà thơ Huy Cận còn bày tỏ tình yêu quê hương đất nước con người của chính bản thân ông.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận - Mẫu 8

Huy Cận là nhà thơ của thiên nhiên nhiên, đất nước, con người. Ông thường viết những bài thơ ngợi ca vẻ đẹp của con người lao động, của sự say mê cống hiến cho đời. Ta thấy được sự khỏe khoắn, tươi vui trong các tác phẩm của ông như Đoàn thuyền đánh cá, Bài ca cuộc đời.... Nhưng Huy Cận cũng có những lúc u sầu, buồn bã trước trần thế - điều hiếm khi ta thấy trong các sáng tác của nhà thơ này. Nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương và sự cô đơn, buồn tủi được nhà thơ thể hiện trong bài thơ Tràng giang, được sáng tác năm 1939. Trước cảnh sông nước mênh mông, rộng lớn, nhà thơ thấy mình nhỏ bé, cô đơn, từ đó khơi dậy nỗi nhớ quê hương tha thiết.

Ta cảm nhận được một tâm trạng đượm buồn của tác giả ẩn sau bức tranh thiên nhiên ở khổ thơ đầu:

"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng"

Các từ láy "song song", "điệp điệp" gợi ra một không gian sông nước mênh mang, bao la và rộng lớn. Trong không gian ảm đạm đó chỉ có duy nhất một hình bóng con thuyền, nhưng con thuyền ấy cũng lênh đênh, vô định, để mặc cho dòng nước đẩy trôi đi cũng giống như tâm trạng của nhà thơ lúc này. Những sự vật cũng chuyển động hết sức lặng lẽ, như đang u sầu, u uất trước cuộc đời. Hình ảnh "Thuyền về nước lại" nghe sao mà xót xa quá! Thuyền và nước vốn là hai sự vật song hành cùng nhau, thuyền nhờ có nước mới trôi đi, nước thì có thuyền mà sóng sánh, ấy vậy nhưng ở đây Huy Cận lại thể hiện sự chia cắt giữa thuyền và nước, sự chia cắt này gợi một nỗi sầu "trăm ngả".... Không có gì có thể buồn hơn. Câu thơ cuối của khổ thơ thứ nhất là hình ảnh thơ độc đáo với hai vế: "Củi một cành khô - lạc mấy dòng". Lượng từ "một" diễn tả sự ít ỏi, chỉ độc một cành củi khô, cũng giống như chỉ có duy nhất một con thuyền. Tâm trạng buồn bã của tác giả được đẩy đến đỉnh điểm, khi xung quanh các sự vật cũng đều đơn côi, lẻ bóng không biết đi về đâu. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình vừa cho thấy cái vô hồn của cảnh vật, vừa thể hiện lên sự có hồn, là tâm trạng buồn bã của thi nhân.

Khổ thơ thứ hai tiếp tục diễn tả nỗi cô đơn của tác giả, nhưng có một chút gì đó rõ ràng hơn:

"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều."

Nếu như ở khổ thơ đầu, ta chỉ thấy những hình ảnh của thiên nhiên thì đến những câu thơ này đã xuất hiện hình bóng của con người. Nhưng con người cũng xuất hiện trong trạng thái thật chán nản, đó là tiếng vãn chợ chiều ở phía xa xa. Một ngôi làng gần đấy đang bắt đầu dọn dẹp cho phiên chợ cả ngày của mình, chỉ còn lại những tiếng chào tạm biệt, âm thanh vãn chợ văng vẳng đâu đấy. Những tưởng sự xuất hiện của con người sẽ làm cho bức tranh bớt ảm đạm hơn nhưng không, chúng lại khiến cho tác giả cảm nhận sâu sắc được tình cảnh của mình, chợ đã không còn tươi vui, tấp nập như buổi sớm mai, cũng như tâm trạng không còn vui vẻ, hào hứng của nhà thơ Huy Cận. Hai câu thơ sau miêu tả thiên nhiên cực độc đáo:

"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."

Hình ảnh đối lập: "Nắng xuống - trời lên" thể hiện sự buông thả của cuộc đời. Ánh nắng rực rỡ đã nhường chỗ cho một màn đêm sắp buông xuống. Cụm từ "sâu chót vót" là hình ảnh cực kì độc đáo, bởi lẽ "chót vót" vốn là một từ để miêu tả độ cao nhưng ở đây lại được dùng để miêu tả độ sâu, cùng với câu thơ sau tạo nên một bức tranh vô cùng rộng lớn mà trong đó là sự tồn tại nhỏ bé của tác giả.

Khổ thơ tiếp theo vẫn là một sự buồn thương, u ám trong bức tranh thiên nhiên buổi chiều tà:

"Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng."

Nhà thơ tiếp tục sử dụng hình ảnh "bèo" trôi, cũng như con thuyền và cành củi khô ở đoạn đầu, là những số phận lênh đênh, trôi nổi không biết dạt về đâu. Khung cảnh bên bến sông trơ trọi, không có một chuyến đò để đưa khách, không có một cái cầu bắc nhịp, chỉ có một bờ bãi rộng lớn bao la. Cả một bức tranh hiện thực đượm buồn mà nỗi cô đơn của tác giả như đang muốn thoát ra khỏi đó, để có một cuộc sống tươi đẹp hơn, tươi vui hơn.

Khổ thơ cuối là nỗi nhớ nhà của tác giả:

"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà"

Cách miêu tả thiên nhiên của Huy Cận như gợi ra trước mắt người đọc một bức tranh với những đám mây cứ tầng tầng, lớp lớp đùn ra trên những ngọn núi cao tít tắp, cùng với đó là hình ảnh cánh chim nhỏ nghiêng trong bóng chiều bay về tổ để đoạn tụ với gia đình. Có lẽ khi chứng kiến những hình ảnh thiên nhiên ở các câu thơ trước, nhà thơ đã cảm nhận được nỗi buồn thấm sâu trong lòng mình nhưng chỉ đến khi nhìn thấy hình ảnh cánh chim, Huy Cận mới bộc lộ trực tiếp nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương da diết. Ta thấy được tình cảm chân thành, gắn bó của nhà thơ với gia đình, với quê hương, đất nước. Dù có đang ở nơi đâu thì trong lòng của một người con xa quê vẫn luôn khắc khoải nhớ về những bóng hình của những người thân thương...

Tràng là dài, giang là sông, tràng giang là sông dài, cũng là một nỗi buồn kéo dài vô tận của nhà thơ. Huy Cận đã lồng ghép tâm trạng của mình vào từng cảnh vật trong bài thơ, qua đó bộc lộ nỗi buồn thương và nỗi nhớ nhà tha thiết. Đọc bài thơ, ta thấy thêm được một khía cạnh khác trong thơ Huy Cận, rằng ông không chỉ viết hay, viết sâu sắc về sự hồ hởi, tươi vui mà còn viết rất thấm thía, cảm động khi nói về nỗi buồn. Đây quả là một nhà thơ tài ba đáng ngưỡng mộ!

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận - Mẫu 9

Trong cuốn “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh đã giúp ta nhận mặt các nhà thơ trong phong trào thơ mới: “Một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên và tha thiết, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu”. Mỗi nhà thơ khoác lên mình một bộ trang phục khác nhau, mang những điệu tâm hồn riêng biệt. Trong số đó, ta không thể nào không chú ý đến một tâm hồn thơ thường sầu buồn, ảo não của Huy Cận. Nét tâm trạng ấy đã được nhà thơ thể hiện khá đậm nét và thấm thía trong bài thơ “Tràng Giang”.

Bài thơ mở đầu bằng một bức tranh sông nước mênh mang:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng”

“Tràng giang” dài rộng gây ấn tượng bởi những con sóng nhỏ nối đuôi nhau không dứt. Động từ “gợn” không chỉ gợi hình mà còn gợi tiếng nhỏ, khẽ, êm đềm của dòng sông đang lặng lẽ trôi. Những con sóng miên man, không dứt như ẩn dụ cho nỗi buồn vô hạn trong lòng con người. Sóng sông đã hòa với sóng lòng, hữu hình hóa nỗi buồn trong lòng thi nhân, thấm vào cảnh vật. Con thuyền và dòng nước là hai sự vật vốn đi liền với nhau nhưng ở đây chúng lại ngược chiều, riêng biệt, tách bạch. Con thuyền như bất lực với chính mình, để mặc cho dòng nước cuốn đi đến tận cuối trời. Con thuyền nhỏ nhoi giữa sông nước mênh mang gợi ra bao nỗi sầu cùng trăm mối ngổn ngang, nỗi sầu của sông nước hay nỗi sầu từ lòng người? Với chi tiết cành củi khô, tác giả đã đưa vào thơ ca chất liệu của cuộc sống đời thường. Cành củi khô giữa mây trời sông nước càng nhấn mạnh vào sự ít ỏi, nhỏ bé, đơn côi, tăng ấn tượng vào sự héo hon, tàn tạ, mất hết sự sống. Cành củi khô còn gợi cho ta bao suy nghĩ về kiếp người nhỏ bé, nổi trôi, vô định, về thân phận lạc loài của con người trong buổi mất nước thời bây giờ.

Đến khổ 2, bức tranh sông nước tiếp tục được hoàn thiện với những chi tiết mới:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài trời rộng bến cô liêu”

Tuy đã có thêm cảnh vật nhưng chỉ làm thấm sâu hơn về cảm giác ít ỏi, nhỏ bé, đìu hiu cùng nỗi buồn thê lương hiu hắt. Chợ vốn là dấu hiệu của sự sống. Nhưng ở đây chỉ là một phiên chợ chiều đã vãn như được gọi từ trong quá khứ. Trong câu thứ 2, nhà thơ đã sử dụng rất thành công biện pháp nghệ thuật lấy động để tả tĩnh, càng làm tăng ấn tượng về sự buồn bã, thê lương. Điểm nhìn của nhà thơ bỗng đột ngột thay đổi, từ hai bên bờ ngước nhìn lên trời và trải ra xa hơn. “Sâu chót vót” là một sự kết hợp từ đầy độc đáo, mới mẻ. Câu thơ là cảm giác có thật bởi tác giả nhìn sâu xuống lòng sông và bắt gặp hình ảnh bầu trời đang phản chiếu dưới đáy sông. Không gian có cả chiều cao và chiều sâu càng làm tăng ấn tượng về sự vắng lặng, bến sông đã trở thành bến sầu, bến cô liêu. Trước không gian rộng lớn, rợn ngợp ấy, con người khó lòng tránh khỏi cảm giác về sự cô đơn, nhỏ bé. Buồn, sầu, cô đơn cũng là nét tâm trạng chung phổ biến của cả thanh niên thời đại thơ mới.

Bức tranh tràng giang được mở ra nhưng lại thiên về cảm giác mênh mang, vắng lặng:

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Hình ảnh cánh bèo thường gợi sự nổi trôi vô định, nhắc về thân phận nhỏ bé, nổi lênh của kiếp người. Trong thơ Huy Cận là cả một đám bèo nhưng chỉ lặng lẽ từng hàng nối hàng, không biết trôi dạt về đâu. Hình ảnh cây cầu, chuyến đò trong thơ xưa thường được dùng với ý nghĩa để nối liền không gian xa cách, Huy Cận cũng gọi cầu, gọi chuyến đò, khao khát được kết nối, giao cảm, nhưng đáp lại lời thi sĩ chỉ là một sự phủ định tuyệt đối, càng khắc sâu hơn vào nỗi niềm, chia lìa, cách trở. Bờ xanh, bãi vàng vẫn như vậy ngàn đời không đổi, cảnh vật dù có tươi thắm hơn những không đủ sức để xua đi cái giá lạnh trong tâm hồn. Huy Cận như ôm trọn mối cô đơn vào trong lòng, không kẻ bầu bạn, không người sẻ chia.

Khổ thơ cuối bài đã diễn tả đúng nỗi niềm của “một linh hồn nhỏ, mênh mang thiên cổ sầu”:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lòng quê dờn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Đằng sau bức tranh thiên nhiên là nỗi lòng của con người. Nỗi buồn dường như có sự tăng tiến, từ “điệp điệp”, “trùng trùng” đến “lớp lớp”. “Lớp lớp” diễn tả nhiều lớp mây nối tiếp nhau, lớp nọ liền lớp kia mãi không dứt. Chỉ một chữ “đùn” gợi sự chuyển động của những đám mây nhưng làm cho nó dường như có nội lực từ bên trong, lớp nọ đùn lớp kia tạo thành núi bạc. Câu thơ thứ 2 cũng dễ khiến người đọc liên hệ đến câu thơ nổi tiếng khác của Đỗ Phủ: “Mặt đất mây đùn cửa ai xa”. Cánh chim chao nghiêng như một nét chấm phá cho bức tranh thiên nhiên rộng lớn. Cánh chim vốn là một thi liệu quen thuộc thường dùng để tả buổi chiều trong thơ xưa: “Chim bay về núi tối rồi” hay “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”. Cánh chim nhỏ bé đối lập với vũ trụ mênh mang vô cùng vô tận một lần nữa lại gợi cảm giác bơ vơ, lạc lõng, buồn thương, tội nghiệp đã trở thành cảm xúc chủ đạo của cả bài thơ. Đến cuối bài, thi sĩ mới trực tiếp bộc lộ tâm trạng:

“Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Từ láy “dợn dợn” thật giàu giá trị biểu cảm khi không chỉ diễn tả sóng nước lan ra mà còn gợi sóng lòng đang cuộn xoáy bên trong con người. Nỗi nhớ quê hương bắt gặp khung cảnh sông nước mênh mông, vắng lặng lại càng trở nên da diết, khắc sâu hơn vào tâm khảm. Ở câu thơ cuối bài, Huy Cận đã vận dụng sáng tạo hai câu thơ của Thôi Hiệu trong bài “Hoàng hạc lâu”

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thuỷ sử nhân sầu”

(Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)

Nỗi nhớ của Huy Cận không chịu tác động từ ngoại cảnh mới bộc lộ. Nó lúc nào cũng thường chực sẵn trong lòng, chỉ đợi thời điểm để bùng lên tha thiết. Đứng trên mảnh đất quê hương mà nhớ quê, chỉ có thể là nhớ về quê hương của một thuở bình yên trong quá khứ. Đó cũng là tâm trạng chung của cả một thế hệ thanh niên thời trong thời buổi nước ta đang lầm than vì bóng đen nô lệ, đau đớn khi chịu cảnh nước mất nhà tan. Họ có tình yêu đối với quê hương đất nước, bất mãn với thời cuộc nhưng cô đơn, lạc lõng giữa ngã ba đường, chưa thể tìm thấy lối đi cho mình.

Với “Tràng Giang”, Huy Cận đã đánh dấu vị trí của mình trong phong trào thơ mới:

“Là Tràng giang”, khổ nào cũng dập dềnh sóng nước

Là tâm trạng, khổ nào cũng lặng lẽ u buồn”.

Người đọc hôm nay đến với thơ Huy Cận cùng một tấm lòng trân trọng “nỗi buồn thế hệ của ông”. Ẩn sau bức tranh sông nước trải dài mênh mang là một tâm sự yêu nước thầm kín, là nỗi lòng của cả một thế hệ “sống giữa quê hương mà bơ vơ như kiếp đi đày”.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận - Mẫu 10

Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất trong phong trào Thơ mới, thơ Huy Cận bật lên trong phong trào Thơ Mới với nỗi buồn mênh mang, khắc khoải, đó là nỗi sầu của một cái tôi giàu ý thức, giàu suy tư về cuộc đời và con người. “Tràng giang” (trích trong tập thơ “Lửa thiêng”) là bài thơ tiêu biểu, thể hiện rõ nhất phong cách thơ của Huy Cận, trong mỗi khổ thơ đều chất chứa nỗi buồn da diết. Đặt cái nhỏ bé của con người trước thiên nhiên mênh mông, Huy Cận đã thành công khơi dậy nỗi cô đơn, cảm giác chơi vơi, lạc lõng của con người giữa dòng đời rộng lớn.

Mở đầu bài thơ là những câu thơ đậm phong cách cổ điển giàu hình ảnh và giàu nhạc điệu, chính những từ láy và cách gieo vần đã tạo nên âm điệu cho cả khổ thơ:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng”

“Tràng giang” ở đây không chỉ nói đến một con sông dài mà còn rộng, những con sóng trên sông được miêu tả rất thật, sống động với từng gợn sóng, đọc câu thơ “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp” ta cảm nhận được sức gợi rất mãnh liệt, từng con sóng giống như những nỗi buồn của thi nhân, nỗi buồn ấy cứ dài rộng, triền miên theo cả không gian và thời gian. Hình ảnh con thuyền xuôi mái chèo, mặc cho sức nước đẩy đưa gợi sự lênh đênh, phó mặc số phận cuộc đời, cũng bởi con thuyền so với dòng sông là quá nhỏ bé, dòng nước “song song”, “thuyền về nước lại” chẳng hứa hẹn sự giao thoa, gặp gỡ lại mang nặng nỗi buồn chia lìa, xa cách. Ta cảm nhận được sự mới mẻ hiện đại trong “Tràng giang” bởi nó xuất hiện cái tầm thường, nhỏ bé, vô nghĩa như “củi một cành khô”, đã là củi nhưng cũng chỉ có một cành mà lại còn là củi khô, hết sức tầm thường, bé nhỏ. Hình ảnh một cành củi khô lạc trôi bồng bềnh trên dòng nước mênh mông rộng lớn gợi lên nỗi buồn về một kiếp người nhỏ bé, tầm thường. Nỗi buồn càng thấm sâu hơn vào cảnh vật khi cảnh càng hoang tàn, quạnh hiu đến nao lòng:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

Cặp từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” cùng gợi lên sự buồn bã, quạnh hiu, cô đơn, không gian xung quanh đều vắng vẻ, lại thêm tiếng vãn chợ chiều đằng xa, chợ chiều ngày xưa vốn đã thưa thớt, vắng vẻ, không có được cái nhộn nhịp tấp nập như chợ sáng, ngay cả tiếng chợ chiều đằng xa cũng không còn nữa, âm thanh cuộc sống của con người văng vẳng nhạt nhòa. Hai câu thơ sau gợi ra một không gian cao sâu, dài rộng mênh mông “sâu chót vót”, chiều cao dường như vô tận, “sông dài, trời rộng”, nhưng đứng giữa cái mênh mông bao la, rộng dài vô tận của vũ trụ đó lại chỉ có “bến cô liêu”, ta cảm nhận được sự cô liêu không chỉ của bến đò mà còn là sự cô liêu trong lòng người, con người nhỏ bé như bị choáng ngợp, lạc lõng giữa đất trời bao la.

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Tiếp nối mạch cảm xúc được gợi ra từ hai khổ thơ đầu, đến đây nỗi buồn vẫn được khắc sâu vào hình ảnh bèo dạt lênh đênh, lênh đênh vô định lại thêm sự chia ly tan tác, trời rộng mênh mông nhưng tuyệt nhiên không có bóng dáng con người “không một chuyến đò ngang”, cũng không có nổi một cây cầu để gắn kết, tạo sự gần gũi với con người. Chỉ có thiên nhiên với thiên nhiên “bờ xanh” với “bãi vàng” nối tiếp nhau, có thể nói, nỗi buồn của tác giả không dừng lại ở nỗi buồn trước trời rộng sông dài mà còn là nỗi buồn về nhân thế, cuộc đời.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Khung cảnh trời thu với những đám mây trắng đùn lên phía cuối trời, ánh mặt trời phản chiếu lên những đám mây đó biến chúng thành những ngọn núi màu bạc trắng xóa, gợi cảnh thiên nhiên thật kỳ vĩ, tráng lệ. Thế nhưng xen giữa cái tráng lệ ấy vẫn là nỗi buồn, là hình ảnh cánh chim nhỏ nghiêng mình, con chim bé nhỏ đơn côi lẻ bóng trong buổi chiều tà gợi nỗi niềm xa vắng nhớ thương, cảnh thiên nhiên càng hùng vĩ, rợn ngợp bao nhiêu thì nỗi buồn càng sâu lắng và khắc khoải hơn. Nỗi nhớ quê hương dợn dợn theo từng con nước lên xuống, không thể ngừng, không thể nguôi ngoai, nỗi nhớ nhà cũng theo đó mà càng da diết, không cần khói hoàng hôn, không cần tác động ngoại cảnh cũng đủ làm cho sự nhớ nhung tràn ngập tâm hồn. Nhà thơ khát khao,được trở về quê hương, tìm một bến đỗ cho tâm hồn, tìm nơi sẻ chia sự cô đơn, trống vắng.

Như vậy, xuyên suốt bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận là cả nỗi buồn cứ triền miên, vô tận, đó là cái buồn của một “cái tôi” đang cô đơn trống trải giữa thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Bài thơ mới chấm phá nét cổ điển đã khắc họa rõ nỗi buồn nhân thế, niềm khao khát hòa nhập với cuộc đời của nhà thơ, đồng thời là tình cảm nhớ thương đối với quê hương, đất nước.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận - Mẫu 11

Huy Cận là một trong những tác giả xuất sắc nhất trong phong trào thơ mới, thơ ông thường mang nỗi sầu nhân thế và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên vũ trũ. Một trong những thi phẩm tiêu biểu cho hồn thơ ấy của Huy Cận là bài “Tràng giang”. Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của ông trước Cách mạng. Bài thơ được trích từ tập “Lửa thiêng”, mang tâm sự u hoài trước kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời mênh mông, vô định. Bài thơ vừa có đượm nét đẹp cổ điển lại vừa có nét hiện đại, đem đến nhiều yêu mến, say mê cùng những rung động khó phai trong tâm hồn độc giả.

Mở đầu bài thơ ta bắt gặp lời đề từ ” Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài “. “Bâng khuâng, nhớ” miêu tả tâm trạng, “trời rộng,sông dài ” tả cảnh. từ đó ta thấy lời đề từ đã thâu tóm ngắn gọn và chính xác cả cảnh lẫn tình của bài thơ.

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngã

Củi mội cành khô lạc mấy dòng

Ở khổ một nhà thơ thể hiện nổi buồn của mình trước cảnh sông nước mênh mông,bát ngát. mở đầu bài thơ là hình ảnh “sóng gợn” – những làn sóng đang lan ra, loang ra đến vô tận cũng giống như nổi buồn của nhà thơ âm thầm mà da diết khôn nguôi. ở đây nhà thơ lặp lại hình ảnh “Tràng Giang” ở đề bài.”Tràng Giang” giống với trường giang, đều là từ Hán Việt, đều chỉ sông dài mà mang tính khái quát, cổ kính. nhưng “Tràng Giang” chỉ cả sông dài lẫn rộng vần “ang” tạo dư âm vang xa, trầm buồn. kết hợp với vầng “ang” còn có điệp từ “điệp điệp” để thể hiện nổi buồn đó.Hình ảnh tiếp theo hiện ra trong nhãn quan của Huy cận là “con thuyền “.Nó gợi sự lẽ loi và cô đơn. Nhưng lạ kìa! con thuyền này đang xuôi mái, nó đang phó mặc cho dòng nước.”con thuyền” này làm cho bức tranh sông nước càng trở nên quạnh vắng,mênh mông và ngược lại,giữa cảnh vật bao la rộng lớn này, hình ảnh “con thuyền” có mà cũng như không.Tếp đến là sự đối lập giữa con thuyền và dòng nước,”thuyền về”,” nước lại” gợi cảm giác chia lìa làm cho nổi buồn của nhà thơ tăng cấp lên thành “sầu”. Và nổi sầu này lan khắp “trăm ngã” của đất trời. cùng với làn sóng, con thuyền thì xuất hiện cành “củi khô” đang trôi giữa dòng nước. tại sao nhà thơ không nói là một cảnh củi khô mà lại sữ dụng hình ảnh “củi một cành khô”? đó là hình thức đảo ngữ để làm tăng sức gợi của hình ảnh nhỏ nhặt tầm thường này – gợi một kiếp người trôi nổi, vô định giữa dòng đời. So với các thơ văn cổ điển thì những hình ảnh xuất hiện trong văn thơ thường là “Tùng, Cúc”. Những hình ảnh nhỏ nhặt,tầm thường không được ưa chuộng. Qua đó thấy được sự sáng tạo độc đáo của Huy Cận – Nhà thơ mới xuất sắc.

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Năng xuống, trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng bến cô liêu

Ở khổ hai vẫn là cảnh sông nước, nhưng ngoài những hình ảnh “con thuyền, dòng nước, củi ” ở khổ một thì ở đây được điểm thêm vài nét như “cồn, gió, làng, chợ, bến”

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Hình ảnh còn cát xuất hiện nhiều trong thơ cổ điển. trong trích “Chinh Phụ Ngâm” có câu “Bến phì gió thổi đìu hiu mấy gò”. Nhưng ở Huy cận, sử dụng thêm từ láy “lơ thơ”, kết hợp với “đìu hiu” làm cho cảnh vậy trở nên thưa và vắng mang đậm nét buồn, làm cho cảnh vật vắng lặng, buồn tẻ, im ắng và cũng chính vì im ắng nên nhà thơ cảm nhận được:

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

“làng xa”, “chợ vãn” là âm thanh sinh hoạt của đời sống hằng ngày,có sự hiện diện của con người nhưng không rõ. câu thơ này có nét tương đồng ơới thơ của Nguyễn Khuyến trong bài “câu cá mùa thu” – “cá đâu đớp động dưới chân bèo”.Có âm thanh cá đớp nhưng ở “đâu”,có thể có mà cũng có thể không. nghe mơ hồ,xa xôi.một sự việc ngay cạnh mình mà Nguyễn Khuyến còn không cảm nhận rõ thì sao Huy Cận có thể biết chính xác sự việc ở một nơi xa thế kia. Sự hiện diện của con người quả thật không có trong cảm nhận của Huy Cận. rồi nhà thơ bỏ qua cái âm thanh mơ hồ kia, hướng lên trời nhà thơ thấy hình ảnh:

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng bến cô liêu

Hình ảnh “nắng xuống ” đối lập với “trời lên”, nhà thơ sử dụng nghệ thật đối ý để gợi sự chuyển động hai chiều của đất trời. “Sâu ” gợi độ hun hút, khôn cùng, “chót vót ” gợi độ cao vô tận. “Sâu chót vót” nghe như vô lí nhưng lại là sự sáng tạo độc đáo của Huy cận. đó là cái nhìn tâm tưởng của nhà thơ, nhà thơ đang đứng bơ vơ giữa vũ trụ thăm thẳm nên nhìn xuyên suốt vào lòng đất, vào ruột trời. Cùng với hình ảnh “Nắng xuống, Trời lên ” thì “Sông dài, trời rộng” tạo không gian ba chiều “rộng,cao, sâu”.một không gian ba chiều hiện ra làm cho không gian vô cùng, cảnh vậy vắng lặng gợi nổi buồn xa vắng.không gian oó chứa “bến cô liêu” – gợi sự lẽ loi, trơ trọi, hoàn toàn là cảnh vật đượm buồn.Sau nổi buồn xa vắng thì nổi buồn bơ vơ lại dồn dập vào nhà thơ. Nó được thể hiện ở khổ ba:

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

Mở đầu khổ ba là hình ảnh “bèo”, hình ảnh này tương đồng với hình ảnh “củi khô” ở khổ một nhưng nó lại gợi một kiếp người trôi nổi, lênh đênh.câu thơ “Bào dạt về đâu hàng nối hàng” là câu hỏi tu từ, là sự hụt hẫng, mất phương hướng của nhà thơ.tiếp đến là hình ảnh “bờ cây xanh, bãi cát vàng”, những hình ảnh này mênh mông, rộng lớn kết hợp với hình thức phủ định “không một cái cầu, không một chuyến đò” nhằm khẳng định không có sự hiện diện của con người. lại một lần nữa nhà thơ trơ trọi với cảnh vật. Nhà thơ sữ dụng các hình thức từ láy “mênh mông, lặng lẽ” gợi nổi buồn bã,hiu quạnh và trống vắng.không có sự giao hòa giữa cảnh và người, nhà thơ không chỉ buồn cảnh vật mà còn buồn thế thái nhân tình, khao khát tình người,tình đời. nhà thơ Huy Cận từng nói “tôi có nổi buồn thế hệ, nổi buồn không tìm thấy lối ra cho nên cứ kéo dài triền miên”. Quả thật như thế, sau nổi buồn sông nước, nổi buồn hiu quạnh, nổi buồn bơ vơ thì khổ thơ cuối cùng là nổi nhớ nhà của ông.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Lúc này nhãn quan của ông đã hướng lên vũ trụ và ông thấy hình ảnh đầu tiên là những đám mây, với từ “đùn” cho thấy chúng chồng xếp mạnh mẽ lên nhau thành núi sau đó được ánh hoàng hôn chiếu vào tạo ra màu sắc lấp lánh mà nhà thơ gọi nó là “núi bạc”. Hình ảnh này tuy rực rỡ nhưng lại ẩn chứa nổi buồn của ông, giống như nổi buồn của ông tích tụ như núi.cùng với đám mây còn có hình ảnh cánh chim.ở đây cánh chim mang đậm tính chất thơ cổ điển, là tín hiệu thẩm mĩ để báo hiệu hoàng hôn mà ở các nhà thơ khác cũng sử dụng như thế. Tiêu biểu là Hồ Chí Minh trong bài thơ chiều tối – “chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”.nhưng khác với HCM, cánh chim của Huy Cận lại đối lập với bầu trời rộng lớn, tượng trưng cho cái tôi cô độc, nhỏ nhoi trước cuộc đời, tô đậm cảm giác rợn ngợp, lạc loài.

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Nghệ thật tự láy “dợn dợn” diễn tả những con sóng vời theo con nước lan tỏa ra tích tắt cho thấy nổi nhớ nhà luôn thường trực trong ông và sẵn sàng lan tỏa ra khắp nơi. Ở câu thơ cuối Huy Cận chịu ảnh hưởng của thơ đường, tiêu biểu là Thôi Hiệu

Nhật mộ hương quan hà xứ nhị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu

Với Thôi Hiệu, mỗi lần thấy khói sóng là ông nhớ nhà da diết nhưng sao da diết bằng Huy Cận khi không có cái gì để gợi nhớ, cho thấy nổi nhớ nhà của Huy cận luôn sôi sục và rạo rực. Từ đó thấy được tấm lòng yêu quê hương đất của ông.

Bài thơ Tràng giang gợi nổi buồn man man thiên cổ của Huy Cận. Tất cả cảnh vật liên quan đến con người đều không hiện hữu, qua đó thấy được nổi cô đơn của Huy cận truớc cảnh thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đậm tình người, tình đời, tình yêu nước tha thiết.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận - Mẫu 12

Huy Cận là nhà thơ của thiên nhiên nhiên, đất nước, con người. Ông thường viết những bài thơ ngợi ca vẻ đẹp của con người lao động, của sự say mê cống hiến cho đời. Ta thấy được sự khỏe khoắn, tươi vui trong các tác phẩm của ông như Đoàn thuyền đánh cá, Bài ca cuộc đời.... Nhưng Huy Cận cũng có những lúc u sầu, buồn bã trước trần thế - điều hiếm khi ta thấy trong các sáng tác của nhà thơ này. Nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương và sự cô đơn, buồn tủi được nhà thơ thể hiện trong bài thơ Tràng giang, được sáng tác năm 1939. Trước cảnh sông nước mênh mông, rộng lớn, nhà thơ thấy mình nhỏ bé, cô đơn, từ đó khơi dậy nỗi nhớ quê hương tha thiết.

Ta cảm nhận được một tâm trạng đượm buồn của tác giả ẩn sau bức tranh thiên nhiên ở khổ thơ đầu:

"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng"

Các từ láy "song song", "điệp điệp" gợi ra một không gian sông nước mênh mang, bao la và rộng lớn. Trong không gian ảm đạm đó chỉ có duy nhất một hình bóng con thuyền, nhưng con thuyền ấy cũng lênh đênh, vô định, để mặc cho dòng nước đẩy trôi đi cũng giống như tâm trạng của nhà thơ lúc này. Những sự vật cũng chuyển động hết sức lặng lẽ, như đang u sầu, u uất trước cuộc đời. Hình ảnh "Thuyền về nước lại" nghe sao mà xót xa quá! Thuyền và nước vốn là hai sự vật song hành cùng nhau, thuyền nhờ có nước mới trôi đi, nước thì có thuyền mà sóng sánh, ấy vậy nhưng ở đây Huy Cận lại thể hiện sự chia cắt giữa thuyền và nước, sự chia cắt này gợi một nỗi sầu "trăm ngả".... Không có gì có thể buồn hơn. Câu thơ cuối của khổ thơ thứ nhất là hình ảnh thơ độc đáo với hai vế: "Củi một cành khô - lạc mấy dòng". Lượng từ "một" diễn tả sự ít ỏi, chỉ độc một cành củi khô, cũng giống như chỉ có duy nhất một con thuyền. Tâm trạng buồn bã của tác giả được đẩy đến đỉnh điểm, khi xung quanh các sự vật cũng đều đơn côi, lẻ bóng không biết đi về đâu. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình vừa cho thấy cái vô hồn của cảnh vật, vừa thể hiện lên sự có hồn, là tâm trạng buồn bã của thi nhân.

Khổ thơ thứ hai tiếp tục diễn tả nỗi cô đơn của tác giả, nhưng có một chút gì đó rõ ràng hơn:

"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều."

Nếu như ở khổ thơ đầu, ta chỉ thấy những hình ảnh của thiên nhiên thì đến những câu thơ này đã xuất hiện hình bóng của con người. Nhưng con người cũng xuất hiện trong trạng thái thật chán nản, đó là tiếng vãn chợ chiều ở phía xa xa. Một ngôi làng gần đấy đang bắt đầu dọn dẹp cho phiên chợ cả ngày của mình, chỉ còn lại những tiếng chào tạm biệt, âm thanh vãn chợ văng vẳng đâu đấy. Những tưởng sự xuất hiện của con người sẽ làm cho bức tranh bớt ảm đạm hơn nhưng không, chúng lại khiến cho tác giả cảm nhận sâu sắc được tình cảnh của mình, chợ đã không còn tươi vui, tấp nập như buổi sớm mai, cũng như tâm trạng không còn vui vẻ, hào hứng của nhà thơ Huy Cận. Hai câu thơ sau miêu tả thiên nhiên cực độc đáo:

"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."

Hình ảnh đối lập: "Nắng xuống - trời lên" thể hiện sự buông thả của cuộc đời. Ánh nắng rực rỡ đã nhường chỗ cho một màn đêm sắp buông xuống. Cụm từ "sâu chót vót" là hình ảnh cực kì độc đáo, bởi lẽ "chót vót" vốn là một từ để miêu tả độ cao nhưng ở đây lại được dùng để miêu tả độ sâu, cùng với câu thơ sau tạo nên một bức tranh vô cùng rộng lớn mà trong đó là sự tồn tại nhỏ bé của tác giả.

Khổ thơ tiếp theo vẫn là một sự buồn thương, u ám trong bức tranh thiên nhiên buổi chiều tà:

"Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng."

Nhà thơ tiếp tục sử dụng hình ảnh "bèo" trôi, cũng như con thuyền và cành củi khô ở đoạn đầu, là những số phận lênh đênh, trôi nổi không biết dạt về đâu. Khung cảnh bên bến sông trơ trọi, không có một chuyến đò để đưa khách, không có một cái cầu bắc nhịp, chỉ có một bờ bãi rộng lớn bao la. Cả một bức tranh hiện thực đượm buồn mà nỗi cô đơn của tác giả như đang muốn thoát ra khỏi đó, để có một cuộc sống tươi đẹp hơn, tươi vui hơn.

Khổ thơ cuối là nỗi nhớ nhà của tác giả:

"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà"

Cách miêu tả thiên nhiên của Huy Cận như gợi ra trước mắt người đọc một bức tranh với những đám mây cứ tầng tầng, lớp lớp đùn ra trên những ngọn núi cao tít tắp, cùng với đó là hình ảnh cánh chim nhỏ nghiêng trong bóng chiều bay về tổ để đoạn tụ với gia đình. Có lẽ khi chứng kiến những hình ảnh thiên nhiên ở các câu thơ trước, nhà thơ đã cảm nhận được nỗi buồn thấm sâu trong lòng mình nhưng chỉ đến khi nhìn thấy hình ảnh cánh chim, Huy Cận mới bộc lộ trực tiếp nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương da diết. Ta thấy được tình cảm chân thành, gắn bó của nhà thơ với gia đình, với quê hương, đất nước. Dù có đang ở nơi đâu thì trong lòng của một người con xa quê vẫn luôn khắc khoải nhớ về những bóng hình của những người thân thương...

Tràng là dài, giang là sông, tràng giang là sông dài, cũng là một nỗi buồn kéo dài vô tận của nhà thơ. Huy Cận đã lồng ghép tâm trạng của mình vào từng cảnh vật trong bài thơ, qua đó bộc lộ nỗi buồn thương và nỗi nhớ nhà tha thiết. Đọc bài thơ, ta thấy thêm được một khía cạnh khác trong thơ Huy Cận, rằng ông không chỉ viết hay, viết sâu sắc về sự hồ hởi, tươi vui mà còn viết rất thấm thía, cảm động khi nói về nỗi buồn. Đây quả là một nhà thơ tài ba đáng ngưỡng mộ!

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận - Mẫu 13

Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới gai đoạn 1930-1945. Thơ ông thường là sự kết hợp giữa vẻ đẹp hiện đại và vẻ đẹp cổ điển, chúng đan hòa vào nhau tạo nên một chất thơ rất độc đáo. Trước Cách mạng, những sáng tác của Huy Cận thường mang một nỗi buồn man mác, bâng khuâng. Bài thơ “Tràng giang” là tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận với việc vẽ lên bức tranh thiên nhiên đượm buồn để nói lên tâm tư, nỗi niềm của thi sĩ về kiếp người nhỏ nhoi, lạc trôi vô định giữa dòng đời rộng lớn.

Ngay từ nhan đề, “Tràng giang” gợi lên một không gian mênh mông, sầu thẳm. Tràng giang nghĩa là sông dài. Thế nhưng nhà thơ không dùng trường giang mà thay vào đó là tràng giang, một từ Hán Việt có ý nghĩa sâu rộng hơn. Hai âm thanh của vần “ang” kéo dài, ngân nga, nó không chỉ là con sông dài mà còn mở ra trước mắt bạn đọc một khoảng sông nước mênh mông, vô tận. Dòng sông vừa rộng, vừa dài gợi lên trong tâm hồn thi sĩ một cảm giác xốn xang pha chút sầu thẳm. Giữa không gian rộng lớn ấy, kẻ trữ tình đứng đây, ngắm nhìn và tâm hồn trở nên cô lieu, đượm buồn về sự nhỏ bé của chính mình trước sự bát ngát của thiên nhiên.

Lời tựa đề cũng chính là cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ. “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Từ láy “bâng khuâng’ như lột tả hết được tâm hồn của người thi sĩ. Trước sự mênh mông của đất trời, kẻ thi sĩ thấy tràn lên một sự cô đơn, một nỗi buồn không biết tỏ cùng ai. Nó gặm nhấm tâm hồn ông để trở thành nỗi nhớ, thành niềm hiu quạnh. Bên trên là bầu trời xanh thẳm bát ngát, ở dưới là dòng tràng giang mênh mông, nhà thơ đứng đó, ở giữa và càng cảm thấy mình nhỏ bé, cô liêu. Lời đề từ ngắn thôi nhưng đã làm toát lên vẻ đẹp vừa cổ điển, vừa hiện đại đặc trưng cho phong cách và cảm hứng trong thơ Huy Cận.

Ngay mở đầu bài thơ, dòng sống đã gợi lên một nỗi buồn sầu thẳm.

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xua mái nước song song

Thuyền về bến lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng

Hàng loạt từ ngữ lột tả nỗi buồn được nhắc đến. Nó làm cho tâm hồn kẻ trữ tình man mác, bâng khuâng. Nỗi buồn ấy kết hợp với hai điệp từ “song song, điệp điệp” càng như dài, vô tận không điểm dừng. Nỗi buồn cứ triền miên, trải dài và như sâu thẳm hơn. Thuyền và nước vốn là hai vật không thể tách rời, chúng quấn quýt, hòa quyện vào nhau. Thuyền xua mái, nước đẩy thuyền trôi lênh đênh, nhưng tại sao ở đây, “thuyền về nước lại sầu trăm ngả”? Liệu rằng đó có phải hình ảnh của một cuộc chia li không báo trước? Cuộc chia li làm ai cũng phải ngậm ngùi, buồn bã. Thuyền và nước là hai hình ảnh rất quen thuộc trong thơ cổ điển. Thế nhưng đắt nhất trong khổ thơ lại là hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng”. Giữa dòng nước vô tận ấy, hiện lên bóng dáng một cành củi nhỏ bé đang lênh đênh theo nhịp chảy của dòng nước. Con số một dường như càng nhấn mạnh hơn sự nhỏ bé, lẻ loi. Cành củi ấy không biết mình sẽ đi đâu về đâu giữa mênh mông nước cuốn. Rồi dòng nước nào sẽ cuốn nó đi, nó cũng không biết. Mọi thứ như vô định, không phương hướng. Hình ảnh cành củi khô như là nỗi ám ảnh trong lòng người đọc về những kiếp người bé nhỏ, đang phó thác cho số phận, cuộc đời họ bấp bênh, cô độc không lối rẽ. Một cảm xúc nghe sao tê tái, xót xa.

Sang khổ thơ tiếp theo, tác giả lại vẽ lên một tràng giang đìu hiu, thê lương hơn.

Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Cùng một câu thơ nhưng tác giả sử dụng tận hai từ láy. “Lơ thơ” gợi tả sự thưa thớt, ít ỏi. Những cồn cỏ vốn phải tươi tốt,trải dài một màu xanh mượt mà. Nhưng ở đây, chúng lại lác đác, lơ thơ, thiếu sức sống. Từng con gió “đìu hiu” thổi qua, nó như mệt mỏi, tiêu điều. Khung cảnh ấy gợi lên sựu lạnh lẽo, cô độc khiến cho con người càng thêm cô đơn đến nỗi phải thốt lên “đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Chợ vốn là hình ảnh của sự ấm nó, đông đúc. Ở đó là nơi con người tụ tập, trao đổi buôn bán. Nó vốn dĩ phải trào lên những âm thanh sống động, tiêng cười nói của con người nhưng ở đây nhà thơ lại sử dụng hình ảnh chợ chiều.Buổi chiều chợ đã vãn người, chỉ còn lại khoảng đất trống vắng tanh. Tất cả như càng làm nổi bật lên nỗi niềm cô đơn, hiu quạnh đang dấy lên trong tâm hồn người thi sĩ.

Sang khổ ba, không gian yên ắng ấy đã có âm thanh của sự dịch chuyển.

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Từng đám bèo nối nhau trôi dạt giữa dòng nước mênh mông. Tuy ở đây đã có sự di chuyển nhưng chính cái động ấy càng làm tâm hồn nhà thơ thêm tê tái. “Bèo” là hình ảnh vẫn hay tìm thấy trong thơ cổ điển nhưng nó lại là biểu tượng của sự bấp bênh, trôi nổi. Từng hàng béo đại diện cho biết bao số phận lạc long giữa sóng gió cuộc đời. Chúng cứ nối dài đến vô tận. Cảm giác lạnh lẽo, không chút “thân mật”, không có gì để có thể kéo tâm hồn nhà thơ ra khỏi nỗi cô đơn, tiêu điều.

Sau bức tranh của sông nước tràng giang mênh mông, vô tận, mãi đến cuối bài thơ, tác giả mới bộc bạch nỗi niềm của mình.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Làng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Trên bầu trời từng đám mây cứ hiện lên, cuồn cuộn như những dãy núi màu bạc trắng. Những cánh chim nhỏ bé đang chao liệng, nghiêng mình trong bóng chiều tà. Chiều tà đẹp nhất có lẽ là ở nông thôi. Buổi chiều gợi cho ta nỗi nhớ về quê nhà, về những gì thân thương nhất. Hình ảnh làn khói chập chờn trong ánh hoàng hôn là những nét vẽ đẹp nhất vè sự ấm no của quê hương. Và đứng trước không gian ấy, nỗi nhớ quê nhà trào dâng lên trong lòng người thi sĩ.

Như vậy, với những hình ảnh mang đậm phong cách cổ điển cùng hồn thơ nhẹ nhàng, sâu lắng, “Tràng giang” đã gợi lên trong lòng người đọc biết bao cảm xúc dạt dào. Nó là tiếng nói nghẹn ngào của những tâm hồn bé nhỏ, của những cuộc đời bấp bênh, là nỗi nhớ và tình yêu tha thiết đối với quê hương, đất nước.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận - Mẫu 14

Dù đã hơn nữa thế kỉ trôi xa, nhưng trên thi đàn dân tộc vẫn phảng phất dư vị ngọt ngào của phong trào Thơ mới. Nổi bật lên trên nền trời nghệ thuật ấy là hồn thơ Huy Cận với tập thơ "Lửa thiêng" thể hiện tâm thế thời đại mang nỗi sầu nhân thế, nỗi buồn của người dân mất nước. Đây là tập thơ hay toàn bích, nhuần nhị, đằm thắm, hài hoà Đông – Tây, kim – cổ, kết tinh nhiều giá trị văn hoá truyền thống, mà Tràng Giang là một trong những thi phẩm xuất sắc.

Cảm hứng chủ đạo của bài thơ đã người đọc có thể cảm nhận được ngay từ câu từ đề từ. Nhà thơ đã viết: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Thứ nhất chúng ta có thể hiểu câu đề từ này chủ thể của “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” là con người. Còn có thể hiểu theo một cách khác đó chính là chủ thể là tạo vật. Trời rộng bâng khuâng nhớ sông dài. Từ đó ta thấy được câu thơ mang đầy cảm hứng về sự giao hòa giữa thiên nhiên và con người. Cả con người và trời đất đều mang nỗi niềm, từ trong lòng người mà lan tỏa lên cảnh vật, từ tâm cảnh ra ngoại cảnh “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song,

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Từ láy “điệp điệp” vừa thật gợi hình lại vừa thật gợi cảm. Khiến cho ta có thể tưởng tượng ra hình ảnh những làn song nhỏ đang chuyển động nhẹ nhàng, liên tiếp nhau trải dài trên dòng sông bao la. Từ đó đồng thời dấy lên trong lòng người đọc cảm nhận được về nỗi buồn của thi nhân như cũng đang hòa tan vào dòng nước. Hai con sóng (sóng nước và sóng lòng) quyện hòa vào nhau, tạo thành một dòng sông tâm trạng. Hình ảnh con thuyền đang trôi như vô định, sự chuyển động như vô tri mặc cho xuôi theo dòng nước và hình ảnh đối xứng “thuyền về – nước lại” gợi ra sự chia ly như càng khắc họa rõ hơn nỗi buồn đó. Cuối đoạn thơ ta lại bắt gặp một hình ảnh vô cùng ấn tượng tượng đó là: Củi (một cành) – Dòng (mấy). Củi tượng trưng cho hình ảnh một con người; dòng ở đây tương trưng cho dòng đời, sự bao la của cuộc sống. Câu thơ đã gợi lên sự bơ vơ, cô đơn của con người trước sự mênh mang của vũ trụ, của cuộc đời. Thi nhân cảm thấy mình thật lạc lõng, đơn độc, bé nhỏ trong sự to lớn, biến chuyển không ngừng của dòng chảy cuộc sống. Một câu thơ bảy chữ vỡ ra thành sáu mảnh cô đơn.

Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Hai câu thơ đầu với “cồn cát” nhỏ lại “lơ thơ”, “gió” thì “ đìu hiu” tất cả những hình ảnh này đều gợi lên khung cảnh thiên nhiên vắng vẻ đến thê lương. Mặc dù ở câu thơ sau ta thấy sự xuất hiện của con người nhưng hoạt động của con người đã ở thời điểm vãn bóng. Điều này lại càng khiến cho khung cảnh cho nên vắng lặng hơn. Sự xuất hiện của con người mới chớm đó nhưng lại nhanh chóng rời đi. Ở câu thơ “nắng xuống trời lên sâu chót vót” không gian hai chiều như được mở ra đó chính là chiều cao và chiều sâu cùng với sự mênh mông dàn trải của “sông dài, trời rộng, bến cô liêu” thì con người lại càng trở nên bé nhỏ, đơn côi hơn. Với cách sử dụng từ độc đáo, âm hưởng trầm bổng, nhà thơ Huy Cận như muốn lấy âm thanh để xoá nhoà không gian buồn tẻ hiện hữu nhưng không thành. Nỗi buồn của lòng người cứ thế hiện hữu bao phủ chiếm cả không gian, đất trời, vũ trụ.

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Cảnh vật dường như đã có màu sắc hơn nhưng không những không khiến cho khung cảnh trở nên tươi vui hơn mà ngược lại tăng thêm nỗi buồn. Sự xuất hiện của hình ảnh “cánh bèo- hàng nối hàng” những tưởng sẽ thể hiện sự đông đúc tươi vui thế chỗ cho cái đơn côi “củi một cành”. Nhưng những “cánh bèo” đó lại chính là hình ảnh số phận của những con người nhỏ bé đang trôi dạt trong vô định. Một nét vẽ tượng trưng thứ hai đem đến liên tưởng những kiếp người lưu lạc, trên dòng đời. Đúng là sầu nhân thế, vạn cổ sầu. Ở câu thơ “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” từ "lặng lẽ" đã được nhà thơ Huy Cận dụng ý đảo lên đầu câu nhằm nhấn mạnh. Cảnh vật cũng như con người vẫn ở bên nhau, tiếp nối nhau nhưng dường như không có sự liên quan. Không đò, không cầu: gợi không gian xa cách không có cầu nối. Không gian thiên nhiên có thêm màu sắc nhưng nỗi buồn càng đậm và sâu hơn.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc.

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Hai câu thơ đầu cảnh vừa mang vẻ đẹp cổ điển vừa mang vẻ đẹp hiện đại. Nhà thơ đã sử dụng bút pháp ước lệ trong thơ cổ với hình ảnh “cánh chim”, “mây”, “núi bạc”. Cánh chim trong hoàng hôn bé nhỏ, lẫn vào trong nắng chiều, mang trĩu nặng những tâm trạng của nhà thơ. Tương phản với hình ảnh cánh chim nhỏ bé đó là hình ảnh của thiên nhiên kì vĩ, bao la “lớp lớp mây cao đùn núi bạc”. Hai câu thơ cuối vừa mang phong vị cổ điển vừa trực tiếp nói lên tâm trạng buồn nhớ quê hương của nhà thơ. Ta đã bắt gặp hình ảnh tương tự trong thơ cổ qua bài thơ của Thôi Hiệu:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng xử nhân sầu.

Huy Cận đã mượn ý thơ của người xưa để thể hiện một nỗi nhớ quê hương dường như đã có từ lâu của mình. “Không khói hoàng hôn”, không có tín hiệu ở ngoại cảnh nhưng nỗi nhớ vẫn được gợi lên trong tâm cảnh. Một nỗi nhớ in sâu trong tâm khảm của nhà thơ. Khổ thơ cuối chính là sự kết tinh về nội dung và nghệ thuật của bài thơ. Nỗi nhớ quê, nhớ nhà mênh mang như gửi về mọi phía chân trời và đang trôi theo Tràng Giang.

Bài thơ Tràng Giang đã đem đến người đọc bức tranh thiên nhiên sông nước gần gũi quen thuộc nhưng vắng lặng và bức tranh tâm trạng mang nỗi sầu thiên cổ của nhà thơ. Cảnh đẹp nhưng lại buồn. Đồng thời đây cũng là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ của Huy Cận trước Cách mạng tháng 8.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận - Mẫu 15

Nhà thơ Huy Cận với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào Thơ mới 1930 – 1945. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ Huy Cận thường mang nỗi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như “Lửa thiêng”, “Vũ trụ ca”, Kinh cầu tự”. Tuy nhiên sau Cách mạng tháng tám, hồn thơ của ông đã trở nên mới lạ hơn, lạc quan hơn, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động như “Trời mỗi ngày lại sáng”, “Đất nở hoa” hay “Bài thơ cuộc đời”… Vẻ đẹp thiên nhiên cùng nỗi sầu nhân thế đã cho thấy một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, điều này được thể hiện đậm nét qua bài thơ “Tràng giang”. Đây là một ý thơ tiêu biểu và nổi tiếng cho hồn thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám.

“Thơ Huy Cận thường buồn”, Xuân Diệu, người bạn tri kỉ và cũng chính là người bạn đời thân thiết của Huy Cận cũng đã phải thốt lên như vậy. Là hai người bạn thân thiết của nhau – hai người thi sĩ đa tình cùng yêu mến và tìm đến với thế giới thiên nhiên vô tận. Nhưng ở Xuân Diệu, thiên nhiên say đắm ngọt ngào mang hương vị ngôn ngữ tình yêu, còn với Huy Cận, thì cây cỏ núi sông lại bình thản lặng lẽ như thấm thía nỗi buồn của “cái tôi” lẻ loi cô độc.

Khi cảm nhận bài thơ Tràng giang, ta nhận thấy “Tràng giang” là một trong những tác phẩm kết tụ nỗi sầu “mang mang thiên cổ” đó. Đọc bài thơ, có lẽ ta sẽ bắt gặp được một nỗi buồn, nỗi buồn của chàng thanh niên mà “trọn kiếp mắt chàng thường đẫm lệ”, nỗi buồn có lẽ rất… Huy Cận.

Đã hơn một lần Xuân Diệu nói về thơ Huy Cận như sau “Trong thơ Việt Nam, ta bỗng nghe bay dậy một tiếng địch buồn, không phai tiếng sáo thiên thai, không phải điệu ái tình, không phải lời li tao kể chuyện một cái tôi, mà ấy là một bản ngậm ngùi dài. Có phải tiếng đìu hiu của một khóm trúc bông lau, có phải niềm than vãn của bờ sông bãi cát, có phải mặt trăng một mình đang cảm thông cùng các vì sao? Hay tiếng rền rĩ dịu êm sẽ vấn lấy ta như một dải lụa ôm ấp một vế đau, tiếng len thấm thía vào hồn ta như khí hậu của núi đèo, tiếng làm thành sương đọng lệ trên mắt ta…”. Một lời nhận xét thật hay mà có lẽ chỉ cần bấy nhiêu đó thôi, ta đã hiểu được khá nhiều về thơ Huy Cận. Và đặc biệt là đối với “Tràng giang”.

Khi cảm nhận bài thơ Tràng giang, ta thấy thấm thía một nỗi sầu buồn. Đó là tiếng thơ từ sóng nước, là nỗi niềm buồn tủi từ cảnh vật, hay nỗi buồn đã hóa thành tình yêu đất nước…

Một nỗi buồn từ sóng nước khi cảm nhận bài thơ Tràng giang
Bài thơ chính là một bức tranh thiên nhiên mà linh hồn của nó là một nỗi buồn xa xăm, hoang vắng, có một cái gì đó như tàn lụi cô đơn.

“Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song”

Cảm nhận bài thơ Tràng giang để nhìn những cơn sóng nhỏ đang lặng lẽ gối đầu nhau mà đi xa đến tận cuối chân trời, tâm hồn nhà thơ bỗng dâng lên một nỗi buồn “điệp điệp”. Từ “điệp điệp” đã tạo nên hình ảnh một nỗi buồn ngàn trùng, một nỗi buồn triền miên, lớp lớp… Thường người ta nói “trùng trùng điệp điệp” để chỉ núi non, nhưng ở đây tác giả lại đem nó để miêu tả một nỗi buồn, đúng là một sáng tạo thật độc đáo trong cách dùng từ để hình ảnh hóa một nỗi buồn thật là lãng mạn! Âm điệu thơ như ngân xa da diết, như thân thuộc quen quen. Có lẽ Huy Cận đã liên tưởng đến một câu ca dao:

“Sóng bao nhiêu gợn, dạ em sầu bấy nhiêu”

Ở đây, có bao nhiêu gợn sóng trên dòng tràng giang là có bấy nhiêu nỗi buồn trong lòng thi sĩ. Khi cảm nhận bài thơ Tràng giang, ta thấy câu thơ không chỉ nghiêng về số liệu mà còn nặng về sắc thái, nỗi buồn chỉ nhẹ nhàng lặng lẽ thôi nhưng da diết và dai dẳng, nó như vô tình ngàn xa và tạo thành một tiếng buồn vô tình, vang vọng mãi giữa đất trời vũ trụ…

Và nổi bật giữa những lớp sóng bạt ngàn đó là hình ảnh của một con thuyền, một con thuyền nhỏ nổi bật giữa những lớp sóng nhưng cũng đang khuất chìm trong chúng. Hình ảnh độc đáo vô cùng! Chiếc thuyền con như đang lênh đênh, bập bềnh không định hướng, cứ xuôi mãi, xuôi mãi theo dòng nước vô tận nghìn trùng. Cụm từ “nước song song” cũng là một cấu tứ lạ mà ta chưa từng đọc bao giờ, nó đối với “buồn điệp điệp” ở câu trên như để gợi ra một nỗi buồn mênh mông trùng điệp!

Sang câu thơ thứ ba, nước và thuyền đã chuyển động ngược chiều nhau, con thuyền đã không còn trôi xuôi theo dòng nước nữa:

“Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng…”

Thế cân bằng song song của câu thơ đã bị phá vỡ. Thuyền về, mà về đâu? Không rõ! Chỉ để lại một mặt sông vắng bóng thuyền, nỗi cô đơn như trải rộng ra dường như vô tận. Hình ảnh con thuyền cứ khuất dần, khuất dần rồi xa mờ hẳn, nước đành chia “sầu trăm ngả”. Huy Cận đã khéo léo trong việc miêu tả sự vận động của sự vật để nói đến bước đi của không gian. Thời gian vận chuyển theo tầm nhìn con thuyền và không gian cũng mở rộng cùng với nó.

Nếu như lúc trước, không gian chỉ xác định theo dòng nước đang chuyển động song song cùng với con thuyền thì hình bóng con thuyền đã trở nên mất dạng, không gian chợt mở rộng ra đến “trăm ngả”, vô tận mênh mông không có lấy một điểm tựa nào. Chính vì vậy, câu thơ thứ ba đã trở thành một đòn bẩy để nâng câu thơ cuối tạo thành một chi tiết độc đáo vô cùng:

“Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Độc đáo về hình ảnh thơ và cả ý thơ! “Củi một cành khô” có lẽ là một hình ảnh mà ta chưa từng bắt gặp bao giờ, chính nó đã đưa đoạn thơ thoát khỏi bầu không khí cổ kính để trở về với thời hiện đại. Hình ảnh một cành củi khô đang nổi trội dập dềnh giữa muôn vàn cơn sóng, lúc bị đẩy bên này, lúc lại dạt sang bên kia… Đó có phải chăng là hóa thân của một kiếp người lữ thứ, luôn lạc lõng bơ vơ, bị cuốn trôi theo chiều xoáy cuộc đời?

Dòng tràng giang đó, vẫn bình thản suy tư qua lớp sóng “buồn điệp điệp”, qua dòng khơi “nước song song” và qua vẻ hững hờ mặc cho “thuyền về nước lại” mặc cho nhánh củi lạc loài trôi! Ôi, tràng giang, sóng gợn tràng giang! Một nỗi sầu nhân thế cứ dài dằng dặc ra mãi khi cảm nhận bài thơ Tràng giang…

Nỗi buồn từ cảnh vật nơi bến bờ khi cảm nhận bài thơ Tràng giang
Sang khổ thơ sau, tác giả đã đi sâu vào việc mô tả chi tiết nỗi buồn. Cái buồn bàng bạc cả không gian giờ đã không còn đi lang thang vô địch trên sông mà đã tấp vào một cồn đất nhỏ:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

Cảm nhận bài thơ Tràng giang để thấy cảnh trong bài thơ chứa đầy tâm trạng. Có lẽ Huy Cận đã tập trung tất cả các hình ảnh và nhạc điệu để làm nổi bật lên cái buồn của con người trước cảnh trời rộng sông dài. Cảm giác buồn sầu được gửi gắm trong vần điệu, trong các từ gợi hình mong manh và cô quạnh! “Lơ thơ” gợi hình ảnh, “đìu hiu” gợi cảm giác, cả hai từ láy như đã được nhà thơ phát huy hết hiệu quả để mô tả nỗi buồn, một nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng sâu lắng, buồn đến lạnh lẽo cô đơn, đến rợn ngợp tâm hồn.

Câu thơ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”, có thể hiểu là “đâu đây có tiếng làng xa vãn chợ”, nhưng đó cũng có thể là câu hỏi mà tác giả đặt ra cho chính bản thân mình: “đâu rồi” hay “có đâu” tiếng “làng xa vãn chợ?” Ở đây, Huy Cận đã vận dụng khá tự nhiên một thủ pháp quan trọng trong thủ pháp cổ điển là lấy động tả tĩnh, cố tìm kiếm và lắng nghe một âm thanh động để lặng đi trong bầu không khí tĩnh lặng đến rợn người!

Nỗi buồn ấy như càng trải rộng hơn trước cái nền không gian mà tác giả dựng nên bằng những từ ngữ vô cùng độc đáo:

“Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”

Cùng một lúc, Huy Cận đã sử dụng thủ pháp của một nhà nhiếp ảnh và nghệ thuật của một nhà hội họa để dựng nên một bức tranh độc đáo. Thông thường từ “chót vót” chỉ được dùng để diễn tả chiều cao, vào thơ sâu thăm thẳm” không gian như vụt lớn hơn ra. Khi cảm nhận bài thơ Tràng giang, ta nhận thấy trên bức tranh sông dài hiện thêm một nét trời cao “sâu chót vót”, vài cồn đất nhỏ, “bến cô liêu”. Thiên nhiên phóng khoáng hơn và tưởng chừng sẽ sống động hơn, nhưng không. Khi lòng người còn “đìu hiu”, “cô liêu” thì “cảnh có vui đâu bao giờ”. Vài dải đất giữa sông dài, vài ngọn gió “đìu hiu”, chưa đủ để làm tươi cảnh vật và âm thanh của “tiếng làng xa vãn chợ chiều” thì mơ hồ và mong manh lắm!

Quanh tác giả giờ đây chỉ còn có thiên nhiên, một thiên nhiên với cái buồn ảo não và da diết đến bàng bạc cả không gian và thời gian. Những lớp tiếng sóng gợn tràng giang, tiếng đìu hiu heo hắt của bờ lau khóm trúc, nỗi sầu vạn cổ tự ngàn xưa chợt theo gió thổi về! Giờ đây, giữa thiên nhiên vũ trụ rộng mênh mông bao la ấy, chỉ còn lại có một mình tác giả, một mình đứng lặng chôn chân trong quạnh quẽ, cô liêu, cũng như Trần Tử Ngang, ngàn năm trước cũng đã có cuộc viễn du tương tự như thế:

“Ai người trước đã qua!

Ai người sau chưa tới?

Giữa trời đất vô cùng

Mình ta luôn giọt lệ!”

Người cô đơn lại gặp cảnh hoang vắng tịch liêu thì nỗi cô đơn ngày càng thêm đậm. Khổ thơ thứ ba như mở ra cái khung cảnh dường như không có chút dấu vết nào của sự sống, một khung cảnh như đã bị chìm đắm trong thế giới của sự ngột ngạt đến vô cùng.

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Nỗi buồn được mở rộng ra hơn, dù lời thơ có thêm được vài gam màu sắc nhạt nhòa. Cảnh có mở ra thêm bờ bờ bãi bãi, thêm ít màu sắc vàng tô điểm giữa bức tranh và thay thế “củi một cành khô” đơn độc lênh đênh đã là những đám bèo “hàng nối hàng” theo nhau đi mãi. Nhưng “hàng nối hàng” kia chợt xuất hiện trong dòng sông của nhà thơ như câu trả lời, đành để mặc cho tâm hồn mình trở thành một chiếc đảo cô đơn giữa mây trời sông nước như “Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề”.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang dễ thấy một loạt các tình từ mênh mông và lặng lẽ đã gợi lên không khí vắng vẻ u buồn, lại thêm những chi tiết phủ định “không một chuyến đò ngang” đã càng làng tăng nỗi cô liêu quạnh quẽ. Đến đây tình trạng cô đơn có lẽ đã lên tới đỉnh điểm, ước mong tìm thấy một “chút niềm thân mật” ở một “chuyến đò ngang”, một sự liên lạc nào đó với con người qua chiếc cầu nhỏ bé, nhưng tất cả đều không có được:

“Thuyền không giao nối đây qua đó

Vạn thuở chờ mong một cánh buồm!”

Đôi bờ sông như hai thế giới tách biệt nhau, bờ này tự thu mình không liên lạc với bờ kia! Dòng nước vẫn cứ vô tình hững hờ chảy. Tràng giang mỗi lúc một bao la, mỗi lúc mỗi ai hài dưới tâm tư trĩu nặng của người thi sĩ trẻ, đã sớm vương nỗi sầu thiên cổ mênh mang và những cánh bèo đang tản dạt trên lớp sóng nước kia có phải chăng chính là hình ảnh tượng trưng cho thân phận nhà thơ, của lớp người trẻ ở những năm 1930, cũng hoang mang vô định, cũng mỏng manh nhỏ bé và cũng long đong nổi trôi theo dòng chảy bất tận của cuộc đời?.

Khi cảm nhận bài thơ Tràng giang, ta bỗng thấy giống như tâm trạng mà Xuân Diệu một lần đã viết: “Chúng tôi cũng bơ vơ, mỗi hồn người là một cõi bơ vơ trong đất trời là một khung bơ vơ”. Như vậy, cái buồn của Huy Cận, của một chàng thi sĩ đã “hơn một lần gửi áo cho trăng” và lòng vẫn hay “sầu mưa”, “tủi nắng” ấy không phải là cái buồn vô cớ, mà nó cũng chính là cái buồn của thời đại, mà nếu nói cho chính xác hơn thì đó là nỗi buồn của thanh niên tiểu tư sản trí thức lúc bấy giờ, những con người bị “giấc mơ con đè nát cuộc đời con” với những mảnh linh hồn nhưng lại bị “thiên hạ bỏ đìu hiu”. Và có lẽ chính vì vậy hơn một lần họ đã từng than thở:

“Nếu như chưa biết bao nhiêu lần hốt hoảng

Trong sầu đen đã gãy cánh như dơi

Nếu chưa biết bao nhiêu dòng lệ đắng

Chảy như sông không rửa sạch sầu đời!”

Mượn dòng sông để soi linh hồn bé nhỏ cô đơn, nỗi buồn kia như lại càng thêm oằn sâu và trĩu nặng! Nhà thơ đã đem lại cái tâm trạng đầy cô đơn buồn bã ấy mà phủ lên cảnh vật thiên nhiên

Tràng giang và nỗi buồn cụ thể hóa thành tình yêu nước

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”

Trên giữa bầu trời xanh mênh mông, mây đùn lên trông giống như những ngọn núi bạc trắng xóa, chợt xuất hiện một cánh chim bé nhỏ mà “Bóng chiều sa nặng đến nỗi nó phải nghiêng cánh” (Xuân Diệu). Dùng một vật hữu hình để diễn tả một cái vô hình, thật khó để hình dung được ranh giới giữa cái nhỏ bé hữu hạn và cái lớn lao vô hạn mà Huy Cận đã đưa ra. Khi cảm nhận bài thơ Tràng giang, ta nhận thấy cảnh vật hiện lên trong thơ ông dù cho rất buồn nhưng vẫn chưa đựng được một cái gì đó hùng tráng và mạnh mẽ.

Điều độc đáo ở đây chính là cách nhìn của nhà thơ. Trong cánh chim nghiêng, tác giả đã thấy được bóng chiều sa. Trong lúc Nguyễn Du thấy bóng chiều qua những nhánh “tơ liễu thướt tha” Hàn Mặc Tử thấy bóng xuân sang trên những giàn thiên lí, thì ở đây Huy Cận cũng tỏ ra tinh tế không kém khi nhận thấy bóng chiều về trên một cánh chim nghiêng. Một cánh chim lẻ loi, chấp chới trong ánh chiều đang xuống, khiến cho trời đất như rộng trải ra thêm! Không gian vừa mới trải mênh mông trong dáng dấp ngàn mây “lớp lớp” chất chồng, chợt ầm xuống hoàng hôn rất nhanh, đó cũng là khi tâm hồn người lữ khách chợt bâng khuâng nhớ đến quê nhà.

“Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Âm hưởng của thơ Đường triền miên trong câu cuối, mượn niềm luyến nhớ quê hương của Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc Lâu.

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu”

Nhưng Huy Cận đã bộc lộ tình yêu đậm đà tha thiết hơn! Tình yêu khắc khoải nên thủy triều rạo rực xôn xao. Điệp từ “dợn dợn” cũng rập rờn như sóng tràng giang “điệp điệp”, cái rập rờn trùng điệp chan chứa biết bao tình. Ngày xưa, nhà thơ Đường phải có “khói sóng trên sông”, Hồ Dzếnh phải có “khói buồn bay lên mây” mới có thể gợi nhớ quê hương, mới có thể “nhớ nhà trong điếu thuốc”, nhưng còn ở đây thì lại khác.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang để thấy nhân vật trữ tình trong thơ Huy Cận đứng trước cảnh không sương, không khói hoàng hôn mà cũng rưng rưng nỗi nhớ về một miền quê xa khuất phía chân trời. Huy Cận chẳng cần ngoại cảnh! Lúc này cái buồn đã thành hình, không chỉ còn là cái cảm giác sầu mênh mông vời vợi do xúc cảm sinh tình khi ngắm sông nước tràng giang. Hai câu kết được gói gọn trong những dòng cảm xúc thiết tha và đẹp đẽ làm sao! Và nó làm ta gợi nhớ đến những câu thơ ngày trước:

“Đạm đạm trường giang thủy

Du du viễn khách tình”

Bao phủ toàn bài thơ là một nỗi buồn rộng khắp và thấm thía, một nỗi buồn mà Hoài Thanh đã từng nhận xét là “Người đã nói cùng ta nỗi buồn nơi quán chật đèo cao, một nỗi buồn của sông dài trời rộng, nỗi buồn của người lữ thứ dừng ngựa trên non, buồn đêm mưa, buồn nhớ bạn… Người đã khơi gợi dậy cái hồn buồn của Đông Á, người đã khơi gợi cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này.

Có những tác phẩm văn học vừa đọc xong, gấp lại là ta sẽ quên ngay, nhưng cũng có không ít những bài văn bài thơ, thật diệu kì, đã đi sâu vào lòng ta bằng một sức hút vô cùng mãnh liệt. Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận, ta thấy đây chính là một bài thơ như vậy. Đọc “Tràng giang”, ta cảm thấy từng lời thơ, từng âm điệu như những dòng chảy của một con sông, cứ len lỏi nhẹ nhàng nhưng chảy sâu vào tận đáy tâm hồn, khắc chạm vào đó những ấn tượng thâm trầm mà sâu sắc.

Bài thơ “Tràng giang” hiện diện với tư cách là một bài thơ buồn nhưng vẫn đậm đà và lắng sâu một tình yêu quê hương tha thiết nồng nàn! Có phải chăng vì vậy mà Xuân Diệu đã từng ca ngợi rằng “Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc”.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận - Mẫu 16

Mới đọc, có khi nhầm Tràng giang là một bài thơ thuần túy tả cảnh thiên nhiên. Nhưng nghiền ngẫm cho kỹ mới thấy điều tác giả muốn nói đến trong bài thơ này tuyệt nhiên không phải là cái hữu hình, nhất thời; mà là cái vô hình, cái vĩnh viễn. Đúng như Hoài Thanh đã khẳng định: “Huy Cận có lẽ đã sống một cuộc đời rất bình thường, nhưng Người luôn luôn lắng nghe mình sống để ghi lấy cái nhịp nhàng lặng lẽ của thế giới bên trong”. Cái thế giới bên trong, cái linh hồn của tạo vật trong bài Tràng giang, là nỗi buồn xa vắng mênh mông.

Dòng sông và con người; không gian bao la và tâm trạng cụ thể; đó là một tứ thơ cổ điển:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Bài thơ có tựa đề Tràng giang, câu thơ đầu tiên lại nhắc lại tựa đề. Tràng giang chứ không phải Trường giang, mặc dù trường và tràng đều có nghĩa như nhau.

Tràng giang góp phần tạo nên dư âm vang xa, trầm lắng của câu thơ mở đầu, tạo nên âm hưởng chung cho toàn bộ giọng điệu của cả bài thơ. Mặt khác, Tràng giang còn gợi nên được hình ảnh một con sông dài và rộng, vừa là tràng giang, vừa là đại giang. Phải chăng, đấy là sông Hồng, hoặc sông Cửu Long, bền bỉ muôn đời, đã từng chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử? Và suy cho cùng, sức mạnh của hai câu thơ trên không phải là nghệ thuật miêu tả, mà ở nghệ thuật khêu gợi, khêu gợi được cả cảm xúc và ấn tượng về một nỗi buồn triền miên kéo dài theo không gian (tràng giang), và theo thời gian (điệp điệp).Ở khổ thơ đầu, cũng như toàn bộ bài Tràng giang, nghệ thuật đối của thơ Đường đã được vận dụng hết sức linh hoạt, chủ yếu đối về ý, chứ không bị câu thúc về niệm luật như cách đối trong thơ cổ. Chẳng hạn, Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp, có thể coi là đối với Con thuyền xuôi mái nước song song; Nắng xuống, trời lên sâu chót vót, đối với: Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. Hoặc ở một cấp độ khác: Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng – Mênh mông không một chuyến đò ngang lại cũng có thể đối với Không cầu gợi chút niềm thân mật – Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng…Nghệ thuật đối ý (và đối xứng) nói trên, một mặt, làm cho giọng điệu của bài thơ uyển chuyển, linh hoạt (tránh được sự khuôn sáo, cứng nhắc dễ thấy đối với một số bài thơ Đường luật hồi đầu thế kỉ); mặt khác, vẫn phát huy được một trong những thế mạnh của loại thơ này, tạo nên không khí trang trọng cổ điển. Bên cạnh đó, nghệ thuật dùng từ láy như điệp điệp, song song cũng có hiệu quả nhất định gợi âm hưởng cổ kính. Nhưng Tràng giang vẫn là một bài thơ hiện đại. Trước hết, hiện đại ở hình ảnh, ở thi liệu, ở cảm xúc:

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Vào những năm 30 của thế kỉ XX, đây là những câu thơ mới mẻ; bởi trong đó xuất hiện cái tầm thường nhỏ nhoi, vô nghĩa như củi một cành khô… Thơ xưa chủ yếu là “địa hạt” dành riêng cho những tao nhân mặc khách; hầu như thiếu vắng cái hiện thực thô ráp của đời thường. Đến thời Thơ mới, nó mới xuất hiện, góp phần tạo nên cuộc cách mạng trong thơ (Hoài Thanh). Hình ảnh một cành củi khô đơn lẻ trôi bồng bềnh, trên dòng sông mênh mông sóng nước gợi lên nỗi buồn về kiếp người nhỏ bé, vô định.

Đến khổ thơ thứ hai, nỗi buồn càng như thấm sâu vào cảnh vật:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Theo Huy Cận, từ đìu hiu ông học được trong bản dịch Chinh phụ ngâm: Non Kì quạnh quẽ trăng treo – Bến Phi gió thổi đìu hiu mấy gò. Cặp từ láy lơ thơ và đìu hiu gợi lên sự buồn bã, quạnh vắng, cô đơn… Chợ chiều thường buồn tẻ, không có được cái nhộn nhịp, hào hứng của chợ sáng, chợ trưa. Đoàn Văn Cừ đã đặc tả thành công nét buồn này bằng những câu kết của bài thơ Chợ Tết nổi tiếng:

Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê

Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ.

Trong Tràng giang, tiếng chợ chiều đã vãn từ một làng xa nào vẳng lại đã gợi một không khí buồn vắng, cô tịch:

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Đây là mấy câu thơ có giá trị tạo hình. Không gian được mở rộng, và đẩy cao thêm. Sâu gợi lên ở người đọc ấn tượng thăm thẳm, hun hút khôn cùng. Chót vót gợi tả chiều cao vô tận. Càng rộng, càng cao, thì cảnh vật càng thêm vắng lặng, chỉ có sông dài, với bến bờ lẻ loi xa vắng (cô liêu). Nỗi buồn tựa hồ thấm vào không gian ba chiều. Con người trở nên bé bỏng, có phần rợn ngợp trước vũ trụ vĩnh hằng, rộng lớn, không khỏi thấy lạc loài giữa cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian. (Hoài Thanh). Ấn tượng nói trên lại được tô đậm thêm ở khổ thơ tiếp theo:

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thăn mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

vẫn trong mạch cảm xúc ở hai khổ đầu, nỗi buồn càng được khắc sâu qua hình ảnh những cánh bèo dạt lênh đênh. Bên cạnh những hình ảnh thuyền và nước cùng trôi về cõi vô biên, hình ảnh cành củi khô bập bềnh trên sông nước ở khổ một, đến khổ thơ này, ấn tượng về sự chia li tán, tan tác được lấy lại một lần nữa, càng gợi thêm một nỗi buồn mênh mông. Toàn cảnh sông dài, trời rộng tuyệt nhiên không có bóng con người: Không một chuyến đò, đồng thời cũng không có lấy một cây cầu – những hình ảnh có thể tạo nên sự gần gũi giữa con người với con người, mà chỉ có thiên nhiên (bờ xanh) nốì tiếp với thiên nhiên (bãi vàng) xa vắng, hoang sơ.

Như vậy, sự cô quạnh đã được thi sĩ đặc tả độc đáo bằng chính cái không tồn tại. Thực ra, điều này còn có thể nhận thấy ở khổ bốn (Không khói hoàng hôn…) nhưng rõ nhất vẫn là ở khổ ba. Bởi vậy, có thể nói, thái độ phủ định thực tại của tác giả nằm ngay ở trong kết cấu của bài thơ.

Khổ kết bài thơ mượn một số cách diễn đạt của thơ Đường, mà vẫn giữ được nét riêng biệt của Thơ mới, và vẫn thể hiện nét độc đáo của hồn thơ Huy Cận:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều xa.

Lòng quê dợn dợn vời con nước.

Không khói hoàng hồn cũng nhớ nhà.

Thiên nhiên buồn, nhưng cũng thật tráng lệ. Mùa thu, những đám mây trắng đùn lên trùng điệp ở phía chân trời. Ánh dương phản chiếu trông lấp lánh như những núi bạc. Hình ảnh mây cao đùn núi bạc tạo ấn tượng về sự hùng vĩ của thiên nhiên. Trước cảnh sông nước, mây trời bao la và hùng vĩ ấy, bỗng hiện lên một cánh chim nhỏ bé, nó chỉ cần nghiêng cánh là cả bóng chiều sa xuống. Hình ảnh cánh chim đơn lẻ, trong một buổi chiều tà cũng dễ gợi lên một nỗi buồn xa vắng. (Chim hôm thoi thót về rừng / Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành – Truyện Kiều – Nguyễn Du). Nhưng điều đáng nói hơn ở đây chính là hiệu quả của nghệ thuật đối lập; đối lập giữa cánh chim bé nhỏ với vũ trụ bao la, hùng vĩ. Phải chăng, điều này đã làm cho cảnh thiên nhiên rộng hơn, thoáng hơn, hùng vĩ hơn và đặc biệt cũng buồn hơn?

Như vậy, đi suốt bài thơ là nỗi buồn triền miên, vô tận. Nỗi buồn ở bài thơ này cũng như phần nhiều nỗi buồn của các nhà Thơ mới, trước hết, chính là nỗi buồn của cả thế hệ, của cả dân tộc, trong những năm ngột, ngạt, dưới thời thuộc Pháp. Vả chăng, có lẽ nỗi buồn nói trên còn xuất phát từ chính quan niệm mĩ học của các nhà thơ lãng mạn đương thời. Theo họ, cái đẹp thường đi sóng đôi với cái buồn. Bô-đơ-le, người được Rem-bô mệnh danh là hoàng đế của các nhà thơ, đã từng có câu thơ nổi tiếng: Em cứ đẹp, và em mãi buồn. Vả chăng, cái buồn của Huy Cận ở bài thơ này, trước sau, vẫn là cái buồn trong sáng, góp phần làm phong phú thêm tâm hồn của bạn đọc; nó cũng như cái buồn đã làm nên sức hấp dẫn mê hồn của thơ ca dân gian Nga, như Biê-lin-xki đã nhận xét.

Bài thơ có ý vị cổ điển, tạo nên được những âm hưởng kì lạ do tác giả đã chọn được thể thơ thích hợp (gần với thể cổ phong), vận dụng tự nhiên lối đối, sử dụng có hiệu quả, với tần số cao, hệ thống từ láy (10 lần trong 16 dòng thơ), và cách ngắt nhịp truyền thống… Chất cổ điển đặc biệt rõ ở câu kết. Thôi Hiệu nhìn khói nhớ đến quê hương (Nhật mộ hương quan hà xứ thị / Yên ba giang thượng sử nhãn sầu – Hoàng Hạc Lâu.) Tản Đà dịch: Quê hương khuất bóng hoàng hôn / Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai? Huy Cận không cần có khói sóng – không cần có cái gợi nhớ – mà lòng vẫn dợn dợn nhớ nhà. Rõ ràng, nỗi nhớ của Huy Cận da diết hơn, thường trực hơn và cháy bỏng hơn; do đó, hiện đại hơn!

Cổ kính, trang nghiêm, Tràng giang còn là một bài thơ rất Việt Nam. Dòng sông sóng gợn, con thuyền xuôi mái chèo, cành củi khô bồng bềnh, cánh bèo lênh đênh, chợ chiều của làng quê, cánh chim trong buổi chiều tà… thật gần gũi với người Việt Nam chúng ta.

Cảm nhận bài thơ Tràng Giang - Mẫu 17

Bài thơ được sáng tác vào năm 1939 in lần đầu tiên trên báo “Ngày nay” sau đó in trong tập “Lửa thiêng” – tập thơ đầu tay của Huy Cận. Cũng chính tập thơ này đã đưa ông trở thành gương mặt tiêu biểu của phong trào “Thơ mới” thời kỳ đầu.

Ngay khi đọc tên bài thơ “Tràng giang” người ta có thể hình dung được tư tưởng và tâm tư mà tác giả gửi trong đó. Tiêu đề gợi ra một con sông dài, mênh mông, bát ngát. Tuy nhiên, ẩn sau hình ảnh sông dài còn là những mảnh đời bấp bênh, trôi nổi, u sầu.

Câu đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” tiếp tục khẳng định nỗi niềm u uất, không biết tỏ cùng ai của nhân vật trữ tình trước không gian bao la của dòng sông.

Khổ đầu tiên đến với người đọc bằng hình ảnh con sông buồn, chất chứa những nỗi niềm khó tả

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Vừa mới đọc khổ đầu tiên, người đọc thấy được không khí u sầu, buồn bã thông qua các từ “buồn”, “sầu”, “lạc cành khô”. Câu thứ nhất miêu tả sóng, câu thứ hai tả những dòng trôi. Nếu như câu thứ nhất gợi được những vòng sóng đang loang ra, xô đuổi nhau đến tận chân trời, thì câu thứ hai lại vẽ ra luồng nước cứ song song, rong ruổi mãi về cuối trời.

Hai câu thơ kết hợp làm cho không gian vừa mở ra theo bề rộng, vừa vươn theo chiều dài. Tác giả tiếp tục khắc họa nỗi chia ly qua câu thơ thứ ba. “Thuyền” và “nước” vốn dĩ là hai hình ảnh gắn bó, khăng khít với nhau nhưng qua con mắt của nhân vật trữ tình thì lúc này hai hình ảnh ấy không còn song hành với nhau nữa.

“Sầu trăm ngả”, nỗi buồn, sự u hoài, buồn bã càng ngày càng dâng lên. Với câu thơ thứ tư tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ “củi một cành khô” để nói về sự cô đơn, trơ trọi của “củi”. Số từ “một” chỉ một mình, cô đơn cùng với tính từ “khô” – hết nhựa sống, càng làm cho hình ảnh khô héo hơn.

Tác giả thật tài tình khi đã sử dụng nghệ thuật đối “một” – “mấy” như nhấn mạnh hơn sự cô độc của củi trên dòng sông. “Lạc mấy dòng” không chỉ diễn tả nỗi niềm cô đơn của củi mà còn nói đến sự bấp bênh, trôi nổi khi “lạc” hết dòng sông này đến dòng sông khác. Nét độc đáo của câu thơ không chỉ là phép đối mà còn ở cách ngắt nhịp 1/3/3.

Khổ thơ thứ hai tiếp tục là khung cảnh buồn nhưng mang nét đìu hiu, thiếu sức sống.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

Huy Cận thật khéo léo khi sử dụng hai từ láy trong cùng một câu thơ để miêu tả cảnh hoang vu, vắng vẻ hai bên bờ sông: “Lơ thơ” – thưa thớt, ít ỏi, ” đìu hiu” – vắng lặng, ít người. Trên “cồn nhỏ” làn gió phảng phất không khí buồn, ảm đạm của chốn ít người, thiếu sức sống. Nó u sầu đến nỗi không nghe thấy tiếng ồn ào của phiên chợ chiều.

“Đâu” diễn tả cảm giác mơ hồ, không xác định được điểm tựa để bám víu. Như vậy, chỉ qua vài nét chấm phá của nhà thơ đã hiện lên bức tranh quê thê lương, thiếu sức sống. Đến với hai câu thơ tiếp, dường như tác giả mở rộng tầm nhìn ra qua biện pháp đối “nắng xuống” – “trời lên” đã làm không gian mở rộng về chiều cao.

Chính cách dùng từ ngữ đặc sắc của Huy Cận đã gợi ra khoảng không vũ trụ sâu thăm thẳm, đó cũng là lúc nỗi buồn, cô đơn của nhà thơ dâng lên cao, trở nên vô cùng vô tận. Một góc nhìn đầy thú vị, mới mẻ.

Câu thơ cuối cùng thi sĩ dùng không gian rộng để nói về nỗi cô đơn, vắng vẻ. “Bến cô liêu” – buồn, thưa thớt trơ trọi giữa không gian rộng lớn của sông, trời. Toàn cảnh khổ hai là một màu cô đơn, vắng vẻ, đối lập với hình ảnh cảnh vật thưa thớt là không gian mênh mông, nhấn mạnh hơn nỗi u sầu vạn cổ.

Cảm nhận bài thơ Tràng Giang - Mẫu 18

Huy Cận là nhà thơ của từ thiên nhiên, cuộc sống và con người. Ông thường viết các vần thơ ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống lao động, của tinh thần hăng say đóng góp cho xã hội. Ta thấy được nét khoẻ khoắn, vui tươi trong những sáng tác của ông như: Đoàn thuyền đánh cá, Bài ca cuộc đời,....... Nhưng Huy Cận cũng có những lúc cô đơn, buồn bã nơi đất khách quê người – điều ít khi ta thấy trong các tác phẩm của nhà thơ này. Nỗi nhớ quê, nhớ mẹ cùng tâm trạng cô độc, buồn bã được nhà thơ thể hiện trong bài thơ Tràng giang, được viết năm 1939. Trước cảnh sông nước bao la, mênh mông, nhà thơ thấy mình bé nhỏ và đơn độc, điều đó gợi dậy nỗi nhớ quê hương da diết.

Ta cảm nhận được một tâm trạng đượm buồn của tác giả ẩn sau bức tranh thiên nhiên ở khổ thơ đầu:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng”.

Các từ láy "song song", "điệp điệp" gợi nên một không gian sông nước mênh mang, bao la và ảm đạm. Trong không gian u ám đó chỉ có duy nhất một hình bóng con thuyền, nhưng con thuyền nào cũng chơi vơi, vô định và bỏ mặc cho dòng nước cuốn trôi theo cũng hệt như tâm trạng của nhà thơ lúc này. Những sự vật cũng chuyển động một cách im lặng, như thể đang bất lực và tuyệt vọng trước cuộc sống. Hình ảnh "Thuyền về nước lại" nghe sao mà đau xót quá! Thuyền và nước vốn dĩ là hai sự vật song hành với nhau, thuyền không có nước mới trôi đi, nước nhờ có thuyền mà về, ấy thế nhưng ở đây Huy Cận đã biểu hiện sự chia cắt của thuyền và nước, sự chia cắt này gợi một nỗi sầu "trăm ngả"..... Không có gì có thể đau hơn nữa. Câu thơ cuối cùng của khổ thơ thứ nhất là hình tượng thơ đặc biệt với hai vế: "Chỉ một cành khô – không nhiều dòng". Lượng chữ "một" diễn tả sự cô đơn, chỉ độc một cành củi khô, cũng gần như chỉ có duy nhất một con thuyền. Tâm trạng buồn bã của nhà thơ được đẩy lên cao trào, khi xung quanh các sự vật cũng chỉ cô đơn, vắng bóng không biết nhìn về đâu. Nghệ thuật tả cảnh vô tình vừa cho ra cái đẹp của thiên nhiên, vừa bộc lộ được sự có hồn, là tâm trạng đau buồn của thi nhân.

Khổ thơ thứ hai tiếp tục diễn tả nỗi cô đơn của tác giả, nhưng có một chút gì đó rõ ràng hơn:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.”

Nếu như ở khổ thơ đầu, ta chỉ thấy những hình ảnh của thiên nhiên thì đến những câu thơ này đã xuất hiện hình bóng của con người. Nhưng con người cũng xuất hiện trong trạng thái thật chán nản, đó là tiếng vãn chợ chiều ở phía xa xa. Một ngôi làng gần đấy đang bắt đầu dọn dẹp cho phiên chợ cả ngày của mình, chỉ còn lại những tiếng chào tạm biệt, âm thanh vãn chợ văng vẳng đâu đấy. Những tưởng sự xuất hiện của con người sẽ làm cho bức tranh bớt ảm đạm hơn nhưng không, chúng lại khiến cho tác giả cảm nhận sâu sắc được tình cảnh của mình, chợ đã không còn tươi vui, tấp nập như buổi sớm mai, cũng như tâm trạng không còn vui vẻ, hào hứng của nhà thơ Huy Cận. Hai câu thơ sau miêu tả thiên nhiên cực độc đáo:

“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

Hình ảnh đối lập: “Nắng xuống – trời lên” thể hiện sự buông thả của cuộc đời. Ánh nắng rực rỡ đã nhường chỗ cho một màn đêm sắp buông xuống. Cụm từ “sâu chót vót” là hình ảnh cực kì độc đáo, bởi lẽ “chót vót” vốn là một từ để miêu tả độ cao nhưng ở đây lại được dùng để miêu tả độ sâu, cùng với câu thơ sau tạo nên một bức tranh vô cùng rộng lớn mà trong đó là sự tồn tại nhỏ bé của tác giả. Khổ thơ tiếp theo vẫn là một sự buồn thương, u ám trong bức tranh thiên nhiên buổi chiều tà:

“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Nhà thơ tiếp tục sử dụng hình ảnh “bèo” trôi, cũng như con thuyền và cành củi khô ở đoạn đầu, là những số phận lênh đênh, trôi nổi không biết dạt về đâu. Khung cảnh bên bến sông trơ trọi, không có một chuyến đò để đưa khách, không có một cái cầu bắc nhịp, chỉ có một bờ bãi rộng lớn bao la. Cả một bức tranh hiện thực đượm buồn mà nỗi cô đơn của tác giả như đang muốn thoát ra khỏi đó, để có một cuộc sống tươi đẹp hơn, tươi vui hơn.

Khổ thơ cuối là nỗi nhớ nhà của tác giả:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

Cách miêu tả thiên nhiên của Huy Cận đã gợi ra trước mắt người đọc một bức tranh với những đám mây cứ tầng tầng, lớp lớp hiện ra trên các đỉnh núi cao chót vót, cùng với đó là hình ảnh con chim nhỏ bay trong bóng chiều tìm đến tổ để về sum họp với cha mẹ. Có lẽ khi bắt gặp những hình ảnh đó ở các câu thơ đầu, nhà thơ đã cảm nhận được nỗi buồn ẩn sâu trong lòng người nhưng phải đến lúc trông thấy hình ảnh cánh chim thì Huy Cận mới bộc lộ rõ nỗi nhớ gia đình, nhớ quê hương đất nước. Ta thấy được tình cảm yêu thương, gần gũi của nhà thơ với nhân dân, với quê hương, đất nước. Dù có đang sống nơi nào thì trong lòng của một người con xa xứ cũng vẫn khắc khoải nhớ đến từng bóng hình của những người thân thương.

Tràng là dài, giang là sông, tràng giang là sông dài, cũng là một nỗi buồn kéo dài vô tận của nhà thơ. Huy Cận đã lồng ghép tâm trạng của mình vào từng cảnh vật trong bài thơ, qua đó bộc lộ nỗi buồn thương và nỗi nhớ nhà tha thiết. Đọc bài thơ, ta thấy thêm được một khía cạnh khác trong thơ Huy Cận, rằng ông không chỉ viết hay, viết sâu sắc về sự hồ hởi, tươi vui mà còn viết rất thấm thía, cảm động khi nói về nỗi buồn. Như vậy, xuyên suốt bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận là cả nỗi buồn cứ triền miên, vô tận, đó là cái buồn của một “cái tôi” đang cô đơn trống trải giữa thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Bài thơ mới chấm phá nét cổ điển đã khắc họa rõ nỗi buồn nhân thế, niềm khao khát hòa nhập với cuộc đời của nhà thơ, đồng thời là tình cảm nhớ thương đối với quê hương, đất nước.

Cảm nhận bài thơ Tràng Giang - Mẫu 19

Huy Cận được mệnh danh là thi sĩ cả vạn lý sầu. Trước cách mạng hồn thơ ông mang sự ưu tư của thời cuộc. Tác phẩm Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu về nỗi buồn vô hạn của Huy Cận trước cuộc sống, trước thời đại. Ẩn sau nỗi buồn đó còn là lời tâm tình, lòng yêu nước nồng nàn. Nhan đề của bài thơ gồm hai vần "ang" đây là âm mở, gợi lên sự bao la, rộng lớn. Không gian dòng sông hiện ra không chỉ là một con sông bình thường mà nó đã là con sông khổng lồ mang tầm cỡ thế giới. Không chỉ thế việc sử dụng từ Hán Việt cũng làm cho bài thơ mang màu sắc hoài cổ, mang ý nghĩa khái quát. Không phải bất kì tác phẩm nào cũng có lời đề từ và khi đề từ xuất hiện nó sẽ là một gợi dẫn có tính khái quát toàn bộ nội dung tác phẩm. Trước khi mở đầu bài thơ "Tràng giang" là lời đề từ của chính Huy Cận viết: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài". Câu thơ đề tự gợi ra không gian vũ trụ mênh mông, bao la mở rộng ra cả bề ngang và chiều cao. Trước không gian đó con người cảm thấy cô đơn và lạc lối, đây cũng là tâm trạng của nhiều thế hệ thi nhân xưa nay. Câu thơ đề từ đã khơi nguồn cảm xúc chung của bài thơ.

Bài thơ mở đầu là đoạn thơ phảng phất nỗi buồn:

"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng"

Những con sóng lăn tăn gợn theo chiều gió cuốn, không gian ấy vô cùng tĩnh lặng. Nhưng ở đây không chỉ có thiên nhiên mà nó còn có cảm xúc của con người "buồn điệp điệp", nỗi buồn không phải vô hình mà hữu hình qua chữ "điệp điệp". Nỗi buồn ấy tầng tầng lớp lớp chồng lên nhau, nó không những lặng lẽ mà lắng đọng, mà len lỏi trong lòng con người. Nổi bật trong không gian đó là hình ảnh con thuyền buông mình, lênh đênh, vô định. Giữa dòng tràng giang con thuyền trở nên nhỏ bé, cô đơn hệt như chính hình ảnh con người. Từ "xuôi mái" cho thấy trạng thái chán nản, phó mặc cho dòng đời xô đẩy. Đó có lẽ cũng chính là hình ảnh của những con người Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử lúc đương thời. Thuyền cứ trôi, cứ về để lại nỗi đau mênh mông, vô tận cho người ở lại trong nước. Và hiển hiện trong thực tế đó chỉ là những cây củi khô cô đơn, lạnh lẽo. Đảo ngữ "củi" được đưa lên đầu câu thể hiện tính nhạt nhẽo, tầm thường, không chỉ vậy đó còn là hình ảnh củi khô không có sức sống lạc trôi giữa dòng đời hữu hạn. Hình ảnh "củi khô" ẩn dụ cho những phận con người bé nhỏ, cô đơn giữa cái bao la của dòng sông. Đồng thời cũng ẩn dụ cho cái tôi lạc lõng, cô đơn của Thơ mới. Huy Cận di chuyển hướng đến gần hơn nữa với những bờ, những cồn ở ngay xung quanh mình. "Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu" là một hình ảnh rất thật ở bãi giữa sông Hồng, cộng với hai từ láy "lơ thơ" "đìu hiu" tạo ra cảm giác cô đơn, vắng lặng, buồn tẻ. Trong không gian ấy tác giả cố gắng kiếm tìm hơi ấm tâm hồn, là tiếng chợ xa, từ "đâu" có thể nghe thấy được, không gian là cái yên tĩnh đến lạ thường. Nỗi cô đơn còn được tô đậm thêm khi không gian được mở rộng đến vô tận, nắng hạ chiều lên, sông cao - núi thấp, cộng với từ "sâu chót vót" đã mở rộng không gian ra cả ba phía: rộng, cao, sâu. Khắc hoạ nỗi cô độc và sự bé nhỏ đến cùng cực của con người trước không gian bao la. Đôi mắt Huy Cận lại tìm kiếm, lại hướng ra vô cùng và thu lại chỉ có:

"Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cần gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng".

Những cánh bèo lênh đênh, vô định nối tiếp nhau chảy trôi, sự chảy trôi không mục đích, không phương hướng, cũng như những kiếp người nhỏ bé, đơn độc lúc bấy giờ. Không gian sông nước mênh mông không có lấy một chuyến đò qua sông. Đò ấy không đơn thuần là phương tiện trung chuyển con người mà nó còn là phương tiện kết nối tình cảm. Nhưng tất cả đã bị phủ định một cách tuyệt đối: không một, không cầu, không còn một chút tình đời, tình người nào còn tồn tại ở đây nữa. Khổ thơ cuối cùng vẽ ra bức tranh không gian nhiều tầng bậc, ông hướng mắt lên cao: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc/ Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa”. Bầu trời với những đám mây lớn được phản chiếu dưới ánh mặt trời trở nên hùng vĩ, tráng lệ hơn. Động từ “đùn” cho thấy những đám mây ùn ùn kéo về, dựng lên những dãy núi tráng lệ. Và giữa lưng chừng trời là cánh chim nhỏ bé, đơn độc, cảm tưởng như nó đã bị không gian nuốt chửng. Trước cảnh thiên nhiên cô tịch, lặng lẽ, nỗi nhớ quê hương trong ông bỗng da diết, cồn cào:

"Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà".

Câu thơ làm ta bất giác nhớ đến câu thơ của Thôi Hiệu: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thưởng sử nhân sầu”. Cũng đều là nỗi bi ai, là nỗi nhớ quê hương da diết nhưng Huy Cận đã có một cách thể hiện thật mới, thật khác. Lòng quê hương "dợn dợn" tức cứ tăng, cứ cao mãi lên, như thể sóng lòng đang tan dần theo sóng nước. Nỗi nhớ quê hương cứ thường trực, dai dẳng. Đây cũng là biểu hiện mạnh mẽ của lòng yêu nước. Tác phẩm là sự pha trộn hoàn hảo giữa truyền thống và hiện đại, đã tạo ra bức tranh thiên nhiên bao la và lạnh lẽo, hoang vu. Qua tác phẩm đã cho ta thấy một cái tôi bơ vơ, mẹ và một nỗi buồn vô tận giữa trời đất. Nhưng đồng thời bài thơ cùng thể hiện lòng yêu nước nồng nàn mà vô cùng sâu sắc.

Cảm nhận bài thơ Tràng Giang - Mẫu 20

Huy Cận là một trong những cây bút xuất sắc nhất của phong trào thơ mới. Thơ ông giàu chất suy tư, triết lý và luôn thể hiện sự giao cảm giữa con người với vũ trụ. Tràng Giang là một trong những bao thơ tiêu biểu của tác giả, thể hiện đầy đủ quá trình tư tưởng và chất thơ của nhà thơ.

Ngay ở tiêu đề bài thơ nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn của cảnh và tâm trạng của nhà thơ, lời tựa đã nắm bắt chính xác và chính xác tâm trạng của cả cảnh và bài thơ.

“Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngã

Củi mội cành khô lạc mấy dòng”

Khi trước dòng sông mênh mông, tác giả cảm thấy nỗi buồn của bản thân giống như nhân lên nhiều lần. Ngay ở khổ thơ đầu, tác giả đã sử dụng ngôn ngữ tượng hình để khái quát khung cảnh mà qua đó tác giả muốn bộc lộ tâm trạng của mình. Hình ảnh “sóng gợn” gợi sự lan tỏa, lan tỏa vào vô tận, như nỗi niềm của nhà thơ, lặng lẽ mà mênh mang. Con sóng giữa sông dài rộng càng nhân lên nỗi sầu của nhà thơ. Cảnh tượng con thuyền và mọi cảnh vật hiu quạnh làm lòng nhà thơ xúc động, bởi không biết bày tỏ nỗi niềm của mình cùng ai. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh rất đời thường trong thơ của mình và đây là một sáng tạo độc đáo trong phong cách thơ của ông.

“Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng bến cô liêu”

Một lần nữa tác giả sử dụng các hình ảnh “cồn, gió, làng, chợ, bến” để bày tỏ cảm xúc của mình. Theo quan niệm của tác giả, cảnh trở nên thưa thớt, vắng vẻ bởi nỗi buồn thăm thẳm của người khiến cảnh trở nên vắng lặng, buồn tẻ, vắng lặng và cũng chính vì vắng lặng nên nhà thơ mới cảm nhận được điều đó.

Tác giả tiếp nhận những âm thanh đời thường, nhưng không phân biệt được tiếng nói từ đâu. Nhà thơ cố trấn tĩnh để lắng nghe tiếng nói bị bóp nghẹt, nhưng không cảm nhận được, và nhà thơ đã chuyển hướng nhìn sang một điểm mới.

“Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng bến cô liêu”

Nhà thơ dùng nghệ thuật chân thực đối lập mặt trời lặn trời lên để gợi sự vận động hai chiều của đất trời như nỗi buồn trong tâm trạng con người. Đứng giữa một vùng bao la sông nước, đất trời, con người như nhỏ bé hơn và nỗi buồn thì vô tận.

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Hình ảnh bèo dạt đưa cảm xúc trôi nổi trước mắt, không nơi trôi dạt, không cầu đò đưa khách, cảnh tượng ấy làm cho người ta không sao thoát khỏi sầu não. Tả cảnh này, tác giả thể hiện niềm khao khát cảm thương cuộc đời, mong muốn rũ bỏ những sầu muộn của cuộc đời để có một cuộc sống tốt đẹp hơn.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

Ngắm hết cảnh chung quanh, nhà thơ đưa mắt ra khỏi không gian và tác gải thấy hình ảnh đầu tiên là những đám mây, mà từ “đùn” cho thấy chúng được kết khối dày đặc trên những ngọn núi nơi ánh hoàng hôn buông xuống, tạo nên một màu sắc rực rỡ mà các nhà thơ gọi là “núi bạc”. Hình ảnh này tuy huy hoàng nhưng chứa đựng nỗi buồn của ông, bởi nỗi buồn của ông tụ lại như mây núi với hình ảnh cánh chim.

“Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Tác giả đã dùng biện pháp tu từ “dợn dợn” khi miêu tả những con sóng theo làn nước lan tỏa, thoáng qua cho thấy nỗi nhớ nhà luôn thường trực bên trong nhà thơ.

Bài Tràng Giang thể hiện nỗi nhớ quê hương của nhà thơ. Nhà thơ đứng trước một khung cảnh thiên nhiên bao la rộng lớn và bâng khuâng vì cảnh đó mà sinh ra tình cảm, gợi lại tình yêu quê hương chân thành của nhà thơ. Tràng Giang đã trở thành một sáng tác tiêu biểu của nền văn học Việt Nam cũng như của tác giả Huy Cận.

Cảm nhận bài thơ Tràng Giang - Mẫu 21

Huy Cận được mệnh danh là nhà thơ cả vạn lí sầu. Trước cách mạng hồn thơ ông mang nỗi sầu bi của thời đại. Tác phẩm Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu cho nỗi buồn miên man của nhà thơ trước cuộc đời, trước thời đại. Ẩn sau nỗi buồn ấy còn là lời tâm sự, lòng yêu nước kín đáo.

Nhan đề của bài thơ gồm hai vần “ang” đây là âm mở, gợi nên sự mênh mông, rộng lớn. Không gian dòng sông hiện ra không chỉ là một con sông bình thường mà nó còn là con sông lớn mang tầm vóc vũ trụ. Không chỉ vậy, sử dụng từ Hán Việt còn khiến cho bài thơ mang âm hưởng cổ kính, mang tính khái quát.


Không phải bất cứ tác phẩm nào cũng có lời đề từ, khi đề từ xuất hiện nó thường là một gợi dẫn có ý nghĩa bao quát toàn bộ nội dung tác phẩm. Trước khi bắt đầu bài thơ Tràng giang là lời đề từ do chính Huy Cận sáng tác:

Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài

Câu thơ đề tự gợi ra không gian vũ trụ rộng lớn, bát ngát mở ra cả chiều rộng và chiều cao. Trước không gian ấy con người cảm thấy bơ vơ, lạc lòng, đây cũng là cảm xúc của biết bao thế hệ thi nhân xưa nay. Câu thơ đề từ đã khơi mạch cảm xúc chung của bài thơ.

Bài thơ mở đầu bằng khổ thơ thấm đượm nỗi buồn:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng

Những con sóng lăn tăn gợn theo chiều gió thổi, không gian ấy hoàn toàn yên tĩnh. Nhưng ở đây không chỉ có thiên nhiên mà ẩn khuất còn có tâm trạng của con người “buồn điệp điệp”, nỗi buồn không còn vô hình mà hữu hình qua từ láy “điệp điệp”. Nỗi buồn ấy tầng tầng lớp lớp chồng lên nhau, nó tuy nhẹ nhàng mà thấm đẫm, mà lan tỏa trong lòng con người. Nổi bật trong không gian đó là hình ảnh con thuyền xuôi mái, lênh đênh, phiêu dạt. Giữa dòng tràng giang con thuyền trở nên bé nhỏ, đơn côi tựa như chính hình ảnh con người. Từ “xuôi mái” cho thấy trạng thái buông xuôi, phó mặc cho dòng nước xô đẩy. Đó phải chăng cũng chính là tâm trạng của những con người Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Thuyền cứ trôi, cứ về để lại nỗi buồn mênh mang, vô hạn cho người ở lại – nước. Và hiển hiện trong hiện thực đó chính là những cành củi khô đơn độc, lẻ loi. Đảo ngữ “củi” được đảo lên đầu câu nhấn mạnh sự vô nghĩa, tầm thường, không chỉ vậy đó còn là cảnh củi khô không còn sức sống lạc trôi giữa dòng đời vô định. Hình ảnh “củi khô” ẩn dụ cho những kiếp người nhỏ bé, bơ vơ giữa sự mênh mông của dòng đời. Đồng thời còn ẩn dụ cho cái tôi lạc loài, bơ vơ trong Thơ mới.

Huy Cận di chuyển điểm nhìn về gần hơn với những bãi, những cồn ở ngay trước mắt mình. “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu” là một hình ảnh rất thực ở bãi giữa sông Hồng, kết hợp với hai từ láy “lơ thơ” “đìu hiu” gợi nên sự thưa thớt, vắng vẻ, hiu quạnh. Trong không gian ấy tác giả cố gắng đi tìm hơi ấm cuộc sống, là tiếng chợ xa, nhưng “đâu” có thể tìm thấy được, không gian là sự tĩnh lặng đến tuyệt đối. Nỗi buồn càng được tô đậm hơn nữa khi không gian được mở rộng đến vô cùng, nắng xuống chiều lên, sông dài – trời rộng, kết hợp với từ “sâu chót vót” đã mở rộng không gian ra cả ba phía: rộng, cao, sâu. Khắc họa nỗi cô đơn, sự nhỏ bé đến cực điểm của con người trước không gian vũ trụ.

Đôi mắt Huy Cận lại tìm kiếm, lại hướng ra vô cùng và thu lại chỉ có:

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cần gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Những cánh bèo lênh đênh, vô định nối tiếp nhau chảy trôi, sự chảy trôi không mục đích, không phương hướng, cũng như những kiếp người nhỏ bé, đơn độc lúc bấy giờ. Không gian sông nước mênh mông không có lấy một chuyến đò qua sông. Đò ấy không đơn thuần là phương tiện trung chuyển con người mà nó còn là phương tiện kết nối tình cảm. Nhưng tất cả đã bị phủ định một cách tuyệt đối: không một, không cầu, không còn một chút tình đời, tình người nào còn tồn tại ở đây nữa.

Khổ thơ cuối cùng vẽ ra bức tranh không gian nhiều tầng bậc, ông hướng mắt lên cao: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc/ Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa”. Bầu trời với những đám mây lớn được phản chiếu dưới ánh mặt trời trở nên hùng vĩ, tráng lệ hơn. Động từ “đùn” cho thấy những đám mây ùn ùn kéo về, dựng lên những dãy núi tráng lệ. Và giữa lưng chừng trời là cánh chim nhỏ bé, đơn độc, cảm tưởng như nó đã bị không gian nuốt chửng. Trước cảnh thiên nhiên cô tịch, lặng lẽ, nỗi nhớ quê hương trong ông bỗng da diết, cồn cào:

Lòng quê dờn dợn vợi con nước
Không khói hoàng hôn cùng nhớ nhà.

Câu thơ làm ta bất giác nhớ đến câu thơ của Thôi Hiệu: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Cũng đều là nỗi bi ai, là nỗi nhớ quê khắc khoải nhưng Huy Cận đã có cách thể hiện thật mới, thật lạ. Lòng quê “dờn dợn” tức cứ tăng, cứ mạnh mãi lên, dường như sóng lòng đang trải ra cùng sóng nước. Nỗi nhớ quê hương luôn thường trực, dai dẳng. Đây cũng là biểu hiện kín đáo của lòng yêu nước.

Tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên mênh mông và quạnh hiu, hoang vắng. Qua đó còn cho ta thấy một cái tôi bơ vơ lạc lõng, một nỗi buồn vô tận giữa đất trời. Nhưng đồng thời bài thơ cùng thể hiện lòng yêu nước kín đáo mà vô cùng sâu lắng.

--------------------

Để có kết quả học tập lớp 11 tốt nhất, mời các bạn tham khảo thêm các bài viết dưới đây của chúng tôi:

Trên đây VnDoc đã giới thiệu tới các bạn Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận. Mời bạn đọc cùng tham khảo thêm mục Soạn văn 11...

Chia sẻ, đánh giá bài viết
51
Chọn file muốn tải về:
Chỉ thành viên VnDoc PRO tải được nội dung này!
79.000 / tháng
Đặc quyền các gói Thành viên
PRO
Phổ biến nhất
PRO+
Tải tài liệu Cao cấp 1 Lớp
Tải tài liệu Trả phí + Miễn phí
Xem nội dung bài viết
Trải nghiệm Không quảng cáo
Làm bài trắc nghiệm không giới hạn
Mua cả năm Tiết kiệm tới 48%
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Ngữ văn lớp 11

    Xem thêm