Cảm nhận bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính
Cảm nhận bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính
Cảm nhận bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính dưới đây được VnDoc.com tổng hợp và sưu tầm gồm các bài văn mẫu lớp 11 hay cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra môn Ngữ văn 11 sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.
1. Dàn ý cảm nhận tác phẩm Tương tư
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Bính
- Giới thiệu chung về tác phẩm Tương tư
2. Thân bài
a. Phần 1: Chàng trai bày tỏ nỗi tương tư của mình
* Tác giả bày tỏ nỗi tương tư:
- “Tương tư” là cảm giác nhớ thương của một kẻ đang yêu, nói đúng hơn là của người yêu đơn phương. Mối tình ấy được ấp ủ, được dồn nén thành lời qua những vần thơ mộc mạc, chân thành nhất.
- Bốn câu thơ đầu bày tỏ nỗi nhớ mong khắc khoải của kẻ đang yêu. Chàng trai bày tỏ nỗi tương tư của mình:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người
Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bênh của tôi yêu nàng”
- Nghệ thuật: nhân hóa
=> Mượn hình ảnh “Thôn Đoài”, “thôn Đông” để nói lên nỗi nhớ của mình.
- Mượn chuyện nắng mưa của giời để trải lòng mình. Tác giả coi “tương tư” là một căn bệnh tiềm ẩn trong chính con người mình, tự nhiên như quy luật đất trời vậy.
* Sự hờn trách của chàng trai:
Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi…
Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!
Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?
- Những câu hỏi dồn dập, nối tiếp nhau tạo nên sự bối rối, lo lắng và chồng chất nỗi niềm trong lòng chàng trai đang yêu. Tác giả đã mượn lối nói dân gian của ca dao, dân ca để hỏi dò cớ sao cô gái lại hững hờ như vậy.
- Giọng điệu thơ nhẹ nhàng, uyển chuyển, tha thiết như truyền tải thông điệp đến cho cô gái.
- “Cớ sao”: lời trách nhưng lại rất tế nhị, đáng yêu.
=> Mối tương tư của chàng trai trằn trọc suốt bao đêm, nhưng chẳng biết ngỏ cùng ai, rồi cũng chẳng ai thấu cho. Nỗi băn khoăn cứ chồng chất, cứ dai dẳng và đợi chờ.
b. Phần 2: Khao khát hạnh phúc lúa đôi trọn vẹn
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hang cau liên phòng
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài ngồi nhớ trầu không thôn nào?
- Tác giả mượn hình ảnh quen thuộc, mộc mạc “cau”, “giầu” để diễn tả tình yêu. Trầu cau để bắt đầu tình yêu đã đẹp, trầu cau để bắt đầu một cuộc sống gia đình, một đám cưới còn đẹp hơn. Có trầu thì phải có cau, màu trầu cau thì hai ta đã sẵn.
- Thay đổi cách xưng hô “tôi – em” thành “anh – em”
=> Sự mạnh dạn chuyển đổi cách xưng hô, cách gọi thân mật. Dấu hiệu này chứng tỏ mối tình đã quá lớn, đã quá sâu và chàng trai muốn giãi bày trực tiếp với cô gái.
3. Kết bài
- Khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm
2. Cảm nhận tác phẩm Tương tư mẫu 1
Nguyễn Bính được mệnh danh là nhà thơ đồng nội, ghi dấu ấn trong lòng độc giả bằng phong cách nhẹ nhàng, bình dị, đậm chất thôn quê. Bài thơ Tương tư trích trong tập “Lỡ bước sang ngang” của ông thể hiện nỗi niềm tâm sự riêng tư của một người trót nhớ thương khắc khoải về một người.
“Tương tư” chắc chắn không phải là cái tên được tác giả lựa chọn một cách ngẫu nhiên. Nó là một cái tên đủ để toát lên toàn bộ nỗi niềm ẩn chứa bên trong từng câu chữ. Tương tư chính là cảm giác nhớ thương khắc khoải, chờ mong hồi đáp của một kẻ đang yêu thương cuồng nhiệt, nhưng đáng tiếc lại là tình đơn phương. Tâm chân tình của kẻ yêu đơn phương ấy được dồn nén, được ấp ủ và cũng được bộc lộ qua từng vần thơ chân thành, mộc mạc:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người”
Hai câu thơ đơn giản như vẽ lên trước mắt chúng ta một bức tranh thôn quê yên bình, đơn sơ đến lạ. Tác giả mượn “thôn Đoài”, “thôn Đông”, thông qua thủ pháp nhân hóa được sử dụng tài tình để thổ lộ nỗi nhớ nhung ẩn sâu tận đáy lòng. Ta như nhìn thấy một người giữa tuổi thanh xuân phơi phới, đứng ở thôn này mà hướng mắt xa xăm về phía thôn bên, những mong có thể nhìn thấy bóng hình mà mình thầm thương trộm nhớ.
“Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Câu chuyện nắng mưa của thiên nhiên đã được tác giả sử dụng thật tài tình để nói lên tấm lòng của mình. Nỗi tương tư về một ai đó, giống như căn bệnh trầm kha tồn tại sâu trong tâm hồn và nó là chuyện bình thường, là lẽ dĩ nhiên phải thế giống như quy luật của đất trời. Chỉ với bốn câu thơ mở màn rất đơn giản, tác giả đã thành công trong việc khơi dậy sự thích thú của người đọc trước mối tình bình dị mà cuồng nhiệt của chàng trai thôn Đoài với cô gái thông Đông.
Tuy nhiên, ở những câu thơ tiếp theo, chúng ta lại cảm nhận được nỗi giận hờn, trách móc nhẹ nhàng nhưng không kém phần sâu lắng của chàng trai trước sự hững hờ từ phía cô gái:
“Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Những đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?
Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?
Những câu hỏi nối tiếp nhau dồn dập như lột tả trọn vẹn nỗi lo lắng, bối rối chất chồng đang thổn thức trong lòng của chàng trai đang yêu. Chàng trai bối rối và cũng giận hờn khi dường như cô gái cứ hững hờ, vờ không biết tới tình cảm của chàng trai.
Giọng điệu của mỗi câu thơ đều uyển chuyển, nhẹ nhàng và tha thiết, như chàng trai đang muốn gửi gắm thông điệp tình cảm của mình tới cô gái. Từ “cớ sao” được sử dụng khiến lời trách móc của chàng trai trở nên tế nhị và đáng yêu hơn, đồng thời nó cũng như một lời “gợi ý” cho cô gái. Suốt bao đêm tương tư, chàng trai ấy chỉ có một niềm mong mỏi là “bến” được gặp “đò”, “Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau”, mong mỏi cô gái ấy sẽ hiểu cho nỗi lòng của mình.
Và rồi trong cái tâm trạng rối bời vì chờ mong khắc khoải ấy, chàng trai lại tự hỏi:
“Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”
Thể thơ lục bát mang lại cảm giác nhẹ nhàng, sâu lắng, dễ đi vào lòng người và sức lay động trở nên to lớn hơn. “Giàn trầu”, “hàng cau” lại được tác giả “mượn” để diễn tả nỗi nhớ thương da diết của chàng trai, giống như dây trầu quấn lấy thân cau, như sự “không thể thiếu nhau” của trầu cau trong văn hóa dân gian.
Nhưng bên cạnh sự mộc mạc ấy, việc tác giả thay đổi cách xưng hô một cách táo bạo, từ “tôi với nàng” thành “anh với em” thể hiện tình cảm đó dường như đã quá lớn, quá sâu đậm, thôi thúc chàng trai trực tiếp thổ lộ nỗi lòng với cô gái. Nhân vật trữ tình trong bài thơ có sự bình dị, trong sáng, nhưng cũng có sự chân thành, mãnh liệt.
Có thể nói, nỗi tương tư vốn rất quen thuộc đã được Nguyễn Bính “nghệ thuật hóa” một cách tài tình thông qua ngòi bút xuất thần và thông qua tứ thơ bình dị, mộc mạc.
3. Cảm nhận tác phẩm Tương tư mẫu 2
Kề vai bên những áng thơ mới tuyệt tác từ Xuân Diệu, Thế Lữ hay Huy Cận,… người ta vẫn chẳng thể nào quên được những bài thơ mộc mạc, “ hương đồng gió nội” của Nguyễn Bính. Tình yêu trong thơ của ông luôn đỗi ngọt ngào, trầm lắng tựa như chính tâm hồn tác giả. Bài thơ “ Tương Tư” trong tập “ Lỡ bước sang ngang” đã phần nào thể hiện nên những dòng chảy tâm sự của một kẻ đang yêu đơn phương với biết bao cảm giác nhớ thương, mong mỏi.
Người đời đã nói, người đau khổ nhất trong tình yêu chính là kẻ yêu đơn phương. Khi yêu, con người ta cầu mong luôn được ở cạnh người thương, được kề vai gần gũi, tâm sự. Những người đang yêu nhau mà không được gặp nhau thì sinh ra “ bệnh tương tư”. Chàng trai trong bài thơ Tương Tư của Nguyễn Bính đang ngày đêm nhớ thương một người mà chưa được hồi âm. Bởi thế bốn câu đầu tiên trong bài đã bộc lộ ngay những cảm xúc khắc khoải đang chất đứa đầy trong lòng chàng trai:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng…”
Giữa những chốn không gian bình dị, hiền hòa và yên bình, tác giả mượn “ thôn đoài” với “ thôn đông” tựa như giữa ta với nàng, để giãi bày những cảm xúc từ tận sâu đáy tim mình. Phải chăng người thương của tác giả đang ở tận chốn thôn Đông, còn ta ngồi đây nhớ mong đến nàng. Đôi chốn thôn quê yên ả đang ấm ủ, vun vén cho một tình cảm đẹp đang nảy nở trong lòng nhà thơ.
Thủ pháp nhân hóa tiếp tục được sử dụng trong hai hình ảnh “ mưa” “ nắng”. Sau cơn mưa trời sẽ hửng nắng, cũng như bệnh tương tư thường khó tránh khỏi trong tình yêu. Tác giả mượn chính những công việc của tạo hóa để giải thích cho bệnh tương tư của mình. Căn bệnh ấy là rất đỗi bình thường tựa như quy luật của đất trời khi người ta đang muốn đắm chìm trong nhớ thương. Đặc biệt, trong cả hai dòng thơ thứ ba và thứ tư đều có hệ từ “ là”. Nó tạo nên một phép so sánh hoàn toàn có cơ sở giữa căn bệnh tương tự với tự nhiên.
Cái “ tôi” trong thơ Nguyễn Bính xuất hiện cùng với “ nàng”. Không còn chút e ấp ngại ngùng che giấu tình cảm, cũng chẳng cần gọi “ nắng” gọi “ mưa” để ví von tình cảm, nhân vật tôi hiện lên một cách rõ rệt cùng với những cảm xúc tưởng chừng muốn bùng nổ, để cho “ nàng” biết rõ được tình cảm của mình vậy. Yêu nhau chẳng thể tránh những cảm xúc giận hờn, băn khoăn:
“ Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?”
Đôi ta tuy hai thôn nghe chừng xa xôi, ấy nhưng lại chỉ chung một làng. Khi lòng ta muốn hướng về nhau thì dù xa xôi cách trở cũng sẽ sẽ hòa chung lại làm một. Hai con người nhưng nếu chung một tấm lòng yêu thương, sẽ muốn hướng tới một mái ấm gia đình. Và ngôi làng ấy sẽ là nơi chúng ta vun vén cho ngôi nhà chung của đôi trai gái. “ Cớ sao” được thốt nên mang hơi hướng hờn dỗi, băn khoăn. Hiển nhiên, bên này rất muốn được “ chung” với bên ấy nhưng bên kia lại quá hờ hững. Việc tưởng chừng như rất thực tế, giản đơn lại chứa muôn trùng xa cách bởi lòng người.
Những lời than thở tương tư lại tiếp tục tuôn trào qua những câu thơ tiếp theo:
“ Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”
Đây có thể nói là đôi dòng thơ thành công nhất trong bài thơ Tương Tư để miêu tả chân thực nhất quy luật bất biến của tình yêu đơn phương. “Ngày qua ngày” lặp lại tựa như những cảm xúc đợi chờ đến vô vọng. Thời gian trôi đi càng khiến người ta sốt ruột, khó chịu vì đợi chờ hồi âm.ở câu thơ bát tiếp theo cũng có sự ngắt nhịp bất thường, nhịp ngắt ba “ lá xanh nhuộm” cùng năm từ “ đã thành cây lá vàng” càng khắc sâu cảm giác đợi chờ mòn mỏi. Tự thuở nào lá cây còn xanh non mơn mởn giống như những tình cảm chớm nở lúc mới yêu thế mà giờ đây, theo tháng năm đã phai tàn thành cây “ lá vàng”. Bệnh tương tư còn nhuộm cả màu của tình yêu. Như Nguyễn Du đã từng viết: “
Người buồn cảnh có bao giờ vui đâu”
Hay
”Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng”
Tâm hồn của con người cũng luôn đồng điệu với thiên nhiên vậy. Lòng đã không vui thì cảnh có đẹp đến nhường nào cũng hóa làm vô vị.
Trạng thái tâm lý tiếp theo mang chút hờn trách xa xôi:
“Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy cho tình xa xôi…
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho! “
Khi yêu đơn phương là chỉ dám ngắm nhìn người thương từ xa, nào có dám bộc lộ cho hết nỗi tâm tình trực tiếp với cô gái ấy. Nối thầm cho vơi bớt nỗi lòng nhưng lại cứ ngỡ cô gái mình yêu sẽ có thể hiểu thấu. Thôn đoài cùng với thôn đông chung một bến nước cây đa, cùng gọi tên chung một làng. Nào có cách trở xa xôi như “ cách trở đò giang”, ấy vậy mà ta cũng chẳng thể nào gặp nhau cho trọn vẹn để nói hết tâm tình. Chẳng qua cái tình còn xa, đối phương còn chưa biết được tình cảm của ta nên khiến cho mình vẫn phải cách trở, tương tư nhau. Đã thao thức biết bao đêm, đã khiến cho lá cũng úa màu, cho lòng mình bạc thương nhưng hỡi ai biết cho ngoài lòng mình.
Câu hỏi “ biết cho ai, hỏi ai người biết cho” chỉ góp vào một lời than thở hờn mát như để xoa dịu lòng người đôi chút. Vậy nên chàng trai sẽ vẫn luôn hy vọng mộng mơ về một tương lai không xa rằng:
“ Bao giờ bến mới gặp đò
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?”
“Bến”-“ đò”, “ hoa khuê”-“ các bướm” đều là những hình ảnh thường được mượn để nói đến quan hệ lứa đôi. Trong thơ xuân quỳnh, bà đã dùng hình ảnh của “ thuyền “ và “ biển” để nói lên nỗi nhớ thương của các cặp đôi, thì với Nguyễn Bính, đò cập bến, bướm tìm đến hoa thơm là những điều tự nhiên, chẳng bao giờ đổi thay. Chỉ tiếc là thời điểm cho những việc ý biết bao giờ cho đến. quả là một mơ tưởng, hẹn ước xa vời.
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Người ta thường nói ” Miếng đầu là trầu câu chuyện” khi có dịp thưa gửi, cưới xin. Vậy nên, Tác giả mượn “giàn trầu” và “hàng cau” để diễn tả nỗi nhớ da diết và quấn quýt như dây trầu quấn lấy thân cau. Nguyễn Bính thật khéo léo và tài hoa khi diễn tả nỗi nhớ bằng những hình ảnh thân quen và mộc mạc ấy. Ở 4 câu thơ này, người đọc nhận ra có sự thay đổi giữa cách xưng hô, tác giả đã mạnh dạn chuyển “tôi-nàng” thành “anh-em” rất táo bạo. Dấu hiệu này chứng tỏ mối tình này đã quá lớn, đã quá sâu và chàng trai muốn giãi bày trực tiếp với cô gái
Tương tư” của Nguyễn Bính đã diễn tả gần gũi nhất những cung bậc cảm xúc của chàng trai đang rơi vào tình đơn phương. Những tâm sự, nhớ nhung, biết vô vàn những lời muốn nói đều được Nguyễn Bính sắp đặt rất tuần tự, tự nhiên và hợp lý. Chẳng ai có thể ngăn cản được tình yêu đến, dù là những cảm xúc hờn dỗi, than thở hay trách than cũng đều thật đáng nhớ trong cuộc đời.
4. Cảm nhận tác phẩm Tương tư mẫu 3
Bài Tương tư nằm trong một thi tứ bao trùm Thơ mới: tình yêu nam nữ - thứ tình yêu hiện đại trăm hình muôn trạng của văn học lãng mạn giai đoạn 1930 — 1945... cái tình say đắm, cái tình thoảng qua; cái tình gần gũi, cái tình xa xôi..., cái tình trong giây phút, cái tình thiên thu.
Con người lãng mạn trong bài thơ Tương tư đã thao thức chín nhớ mười mong người thương ròng rã suốt mấy đêm rồi, mong nhớ hết ngày này đến ngày khác, thậm chí hết tháng này qua tháng khác: Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng... Theo đạo lí quân tử tu, tề, trị, bình Nho gia, nhất là Tống Nho, thì kẻ nam nhi như thế là hỏng quá... Nhưng sức cuốn hút của thơ tình Nguyễn Bính trong bài Tương tư chủ yếu không phải do thái độ thành thực giãi bày nỗi niềm chín nhớ mười mong nay do sự cải lí cho tính phù hợp quy luật của tình yêu nam nữ, đặng biện hộ cho đạo lí nhân văn (không ít nhà thơ lãng mạn đương thời bộc lộ tình cảm yêu thương nhiều khi còn đắm đuối hơn (Ao ước - Tế Hanh), tinh tế hơn (Ngậm ngùi - Huy Cận) hoặc não lòng hơn: Chúng tôi lặng lẽ bước trong thơ - Lạc giữa niềm êm chẳng bến bà - Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá - Hai người nhưng chẳng bơ va (Trăng - Xuân Diệu); mà sức cuốn hút chủ yếu là bởi những rung động của trái tim thi sĩ (thể hiện trong cấu tứ cũng như ở ngữ điệu - giọng) dung hợp rất nhuần nhuyễn tính cách dân tộc.
Chúng ta đều rõ: Linh hồn của một dân tộc thể hiện tập trung ở các hình thái folklore. Trong folklore Việt Nam có khu vực đặc biệt phát triển: thơ ca dân gian không chỉ do số lượng, mà còn ở chất lượng, ca dao dân ca là một tổng kho văn hóa chứa đựng trí tuệ, tâm linh, thần thái Việt... và trong kho tàng tinh thần đó, xuất hiện biết bao vần thơ tình yêu đặc sắc không thua kém bất cứ một khúc tình ca nào trên thế gian. Nhà thơ Nguyễn Bính chính là một chú bướm (Con bướm vàng tuyển đậu Thám hoa - Truyện cổ tích) đã xâm nhập rồi lượn bay trên một cùng văn hóa dân gian đặc biệt của dân tộc: ca dao dân ca, và đã hấp thụ được một lượng hương nhụy đáng kể...
Trong thơ mới, tất nhiên không phải chỉ riêng Nguyễn Bính, mà một số thi sĩ khác cũng đã quy tụ gần xa chung quanh vùng văn hóa cội nguồn dân tộc này - như tác giả Thi nhân Việt Nam từng nhận xét: Chưa bao giờ như bây giờ họ thấy cần phải tìm về dĩ vãng để vịn vào những gì bất diệt đủ đảm bảo cho ngày mai. Tình hình ấy cũng hoàn toàn phù hợp với một quy luật hình thành văn học lãng mạn thế giới; ví dụ không ít những cây bút lãng mạn châu u thế kỉ XIX cũng đã quay về với dân tộc, văn hóa dân gian, quan tâm sưu tầm các sáng tác dân gian theo quan niệm: cần hợp hồn giữa thời xưa và thời nay (Mickiêvich) vì có khi: phải tìm đến dân ca mới thấy được thơ chân chính.
Một trong những nét đặc trưng của tính cách Việt là ý thức về độ (không vượt ngưỡng). Ý thức về độ ấy đã chi phối nhiều khu vực văn hóa dân gian Việt: về kiến trúc, các công trình xây dựng không quá lớn, về sân khấu tuồng, bi mà vẫn tráng, chèo khi đau buồn phải có hề xua tan ngay không khí thảm sầu, về tín ngưỡng, lễ hội, nghiêm trang mà không khe khắt, về ứng nhân xử thế, ít muôn cạn tàu ráo máng... Ý thức về độ của tính cách Việt do các nguyên nhận lịch sử, đại lí lâu đời quyết định... Đồng hành trong hệ thống văn hóa ấy, tình yêu nam nữ trong ca dao dân ca tuy đắm đuối thiết tha mà không mấy bi lụy - cái thi tứ rũ liệt đến muốn tự diệt vì tình tuyệt vọng hầu như không xuất hiện trong thơ ca dân gian. Vả chăng, người bình dân (gồm cả lao động và trí thức) chủ nhân văn hóa dân gian, trong cuộc sống lúc đang lúc đang yêu thì thường cũng là khi đang có nhiều trách nhiệm lớn nhỏ ràng buộc - đối với gia đình chẳng hạn. Hãy nghe lời van vĩ dễ thương của một thôn nữ tội nghiệp xưa:
Chàng ơi buông áo em ra
Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa
Chợ trưa rau nó héo đi
Lấy gì nuôi mẹ, lấy gì nuôi em.
Chúng ta tin chắc rằng dẫu thiếu nữ ấy có trong tình huống
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt trên vai
Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ ai
Mà mắt không khô.
Đi nữa, thì cô cũng khó tùy tiện ngã bệnh hoặc liều thân, bởi vì ai sẽ thay cô tần tảo nuôi mẹ, nuôi em? Do đó, sầu tương tư, tình tuyệt vọng.. trong ca dao dân ca xưa chỉ đưa chàng đến mức nuối tiếc:
Tiếc công anh đắp đập be bờ.
Để ai quăng đó, đem lờ đến đơm,
Đêm qua vật đổi sao dời,
Tiếc công gắn bó, tiếc lời giao đoan...,
Hoặc dẫn nàng đến độ ngẩn ngơ:
Ngày ngày em đứng em trông
Trông non non ngất, trông sông sông dài...,
Quá nữa là:
Nhớ ai em những khóc thầm
Hai dòng nước mắt dầm dầm như mưa...,
Và trạng thái thông thường của họ là:
Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ
Buồn trông con nhện chăng tơ...
sầu nhớ quá, nhưng... còn nhiều việc phải làm.
Tình yêu không thể là cứu cánh duy nhất!
Nét chủ yếu của tính cách dân tộc trong bài thơ Tương tư chính là khuynh hướng cấu tứ khái quát mang ý nghĩa về độ chín: chín nhớ mười mong dài theo tháng ngày, dẫu biệt vô âm tín vẫn tiếp tục chờ đợi: Bao giờ bến mới gặp đò. với niềm hi vọng xa vời: Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào?... và chỉ đến mức ấy thôi, chứ không phải kiểu phản ứng quyết liệt: Rồi anh chết, anh chết sầu chết héo - linh hồn anh thất thểu dõi hồn em... như chàng lãng mạn trong bài Ao ước của Tế Hanh- ý tứ cực đoan này phải chăng chỉ phù hợp với tâm lí một số độc giả thành thị - Phong cách cấu tứ thơ tình yêu với các mức độ tình cảm phù hợp dân tộc tính như vậy đã xuất hiện trong hầu hết những bài thơ của Nguyễn Bính. Những nhân vật trữ tình thơ Nguyễn Bính (người thật hoặc hư cấu, khách thể hoặc chủ thể) dẫu có tâm trạng muốn yêu đơn phương, tình tuyệt vọng... đều ứng xử có chừng mực: một chàng trai bị người yêu thờ ơ, chỉ than thở: Tình tôi mở giữa mùa thu - Tình em lẳng lặng kia như buồng tằm(Đêm cuối cùng), một cô gái bị lỗi hẹn cũng nhẫn nại đợi chờ: Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày - Bao giờ em mới gặp anh đây (Mùa xuân), anh lái đò kia thất tình phẫn chí định bỏ nghề, nhưng rồi lại thôi: Lang thang anh dặm bán thuyền - Có người trả chín quan tiền lại thôi. (Anh lái đò), một chàng trai thất tình không oán hờn mà chẳng nặng lời: Em đã sang ngang với một người - Anh còn trồng cải nữa hay thôi? - Đêm qua mơ thấy hai con bướm - Khép cánh tình chung ở giữa trời (Hết bướm vàng), đau đớn hơn: người yêu yểu mệnh, nhưng nỗi đau ấy đã hòa tan cùng mộng ảo: Đêm qua nàng đã chết rồi - Nghẹn ngào tôi khóc, quả tôi yêu nàng - Hồn trinh còn ở trần gian - Nhập vào bướm trắng mà sang bên này (Người hàng xóm)... và trước thái độ quá thờ ơ của cô gái hái mơ, khách đa tình chỉ trách móc mơ màng:
Cô hái mơ ơi, cô gái ơi
Chả trả lời nhau lấy một lời
Cứ lặng trôi đi, rồi khuất bóng
Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi...
Đặc điểm dân gian, dân tộc ấy trong cấu tứ khiến những bài thơ tình Nguyễn Bính, trước và sau 1945 dễ dàng tìm được sự đồng cảm và tiếp đón hào hứng của một số lượng độc giả lớn(thành phố và tỉnh nhỏ, thành thị và nông thôn...) mà có lẽ chưa nhà thơ lãng mạn nào đạt được.
Quảng đại quần chúng độc giả tìm đến thơ tình Nguyễn Bính còn vì những bài thơ mang tình tứ gần gũi với tâm hồn, tính cách người Việt ấy đã được thể hiện bằng một thứ từ ngữ điệu (giọng) thân quen: giọng ca dao dân ca. Tình ca Tương tư, đó là thể thơ lục bát ngàn xưa dịu ngọt giàu tính nhạc, vần phong phú, lối đan chữ (chín nhớ mười mong), kiểu suy tưởng vật thể hóa (Lá xanh nay đã thành cây lá vàng), và những từ có vùng mờ ngữ nghĩa dẫn thi tứ lan tỏa man mác (Biết cho ai, hỏi ai người biết cho...) Biểu hiện đậm đà chất giọng ca dao dân ca trong Nguyễn Bính phải chăng là các bài: Chân quê, Đêm cuối cùng, Chờ nhau, Giấc mơ anh lái đò, Người hàng xóm và Lỡ bước sang ngang) Bài thơ đã dân gian hóa đến mức được dùng để ru em. Đông đảo người đọc đến với thơ tình yêu Nguyễn Bính còn do những dòng thơ thuần tính cách người Việt đó là đã đánh thức biết bao kỉ niệm êm đềm về quê hương xứ sở thân yêu...
Trong bài Tương tư, đó là hình ảnh: thôn Đoài, thôn Đông, bến nước, đầu đình, giàn trầu, hàng cau... ở những bài thơ khác của Nguyễn Bính, cũng tràn ngập các hình ảnh gần gũi, những con bướm trắng, bướm vàng vẽ vòng trên các vườn hoa cải vàng, vườn chanh, vườn cam, vườn bưởi ngào ngạt hương bay, ven đê là ruộng dâu, bãi cháy, bãi đất, vườn chè, bên ao bèo, bên giếng khơi, giậu mùng tơi xanh rờn... là những thôn nữ đôn hậu dệt lụa chăn tằm, đi trẩy hội chùa, hội làng, xem hát chèo mùa xuân với trang phục đằm thắm, dây lưng đũi, yếm lạu sồi, áo đồng lẫm, quần lĩnh tía... nhưng anh lái đò, cô lái đò sống giữa hương đồng gió nội và dưới bầu Giời cao gió cả giăng như ban ngày...
Hương đồng gió nội trong thơ Nguyễn Bính sáng tác trước 1945, được đông đảo độc giả mến mộ dài lâu. Hiện tượng ấy khiến chúng ta nhớ lại điều dự báo có sức khái quát của tác giả Thi nhân Việt Nam 50 năm trước : Nếu các thi nhân ta đủ sức chăn thành để kể thừa di sản xưa, nếu họ biết tìm đến thơ xưa với một tấm lòng trẻ, họ sẽ phát huy được những gì vĩnh viễn hơn, sâu sắc hơn mà bình dị hơn trong linh hồn nòi giống. Nhất là ca dao sẽ đưa họ về với dân quê, nghĩa là với chín mươi phần trăm số người trong nước. Trong nguồn sống dồi dào và mạnh mẽ ấy, họ sẽ tìm ra những vần thơ không chỉ dành riêng cho chúng ta, một bọn người có học mới mà có thể làm nao lòng hết thảy người Việt Nam.
5. Cảm nhận tác phẩm Tương tư mẫu 4
Thơ Nguyễn Bính mang màu sắc dân gian, khơi gợi cho ta ít nhiều về hồn xưa đất nước, quy tụ trong những câu thơ mộc mạc, giản dị mà thấm đẫm nghĩa tình.
Tương tư là thi phẩm tiêu biểu cho hồn thơ bình dị của Nguyễn Bính. Bài thơ là xúc cảm nhớ nhung, tha thiết của chàng trai chân quê với nhiều cung bậc phong phú, đẹp đẽ, thắm đượm màu sắc dân gian, hồn quê ấm áp. Màu sắc dân gian đã tạo bầu không khí thôn quê cho thi phẩm nhưng đồng thời cũng là nét đặc trưng cho phong cách thơ của Nguyễn Bính.
Một tác phẩm mang đậm màu sắc dân gian là tác phẩm mang tình cảm truyền thống cũng như phương thức thể hiện thường được bắt gặp ở ca dao, dân ca. Ca dao dân ca là chuỗi ngọc trong sáng vô ngần của người lao động bình dân. Nó thấm đẫm cách cảm, cách nghĩ của người lao động
Bài thơ tương tư trước hết là một sản phẩm của nền Thơ mới. Khi tung phá bức màn ước lệ để nhìn thẳng vào cái tôi cá nhân của mình, Thơ mới thoát ra như một tiếng ca chân thật, phong phú, mặc sức phô bày không hề giấu giếm. Nhiều nhà thơ chọn viết về đề tài tình yêu như Nguyễn Bính luôn hướng ngòi bút vào chiều sâu thẳm, huyền bí của cõi thơ này.
Thế nhưng, Nguyễn Bính đã có một hướng đi khác. Nói rằng ông có một hướng đi khác lạ thật là không phải bởi ông chưa từng rời đi. Nói ông đã có những sáng tạo vượt bậc cũng không phải bởi ông chưa từng phá vỡ thi pháp vốn có trong ca dao. Thơ ông không phải là cái tình thoảng qua, cũng chẳng phải là tình thiên thu. Tình yêu trong thơ Nguyễn Bính nằm ngay trong đời sống dân tộc được phản ánh sâu sắc trong ca dao trong mấy nghìn năm qua. Thơ ông chứa đựng cái hồn bình dị của dân tộc.
Mở đầu bài thơ, là lời tâm tình của chàng trai:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tối yêu nàng”.
Một nỗi niềm nhung nhớ, tương tư ấy vậy mà lắm cung bậc đẹp đẽ. Giọng kể tâm tình vvừa tự nhiên lại vừa hết sức kín đáo. Rõ ràng là chuyện tôi yêu nàng ấy vậy mà cứ vòng vo không nói nên lời. Đó chính là cái tình trong sáng, thánh thiện mà ta thường bắt gặp trong ca dao dân ca:
“Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Em nhận thì cho anh xin”.
(Ca dao)
Nào phải là chuyên quên chiếc áo mà đó chính là cái cớ để gặp gỡ, để chuyện trò, thổ lộ tâm tình. hay một cách tỏ tình khác đẹp đẽ, tinh tế hơn:
“Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?”
(Ca dao)
Hình ảnh chàng trai ẩn mình trong biểu tượng “thôn Đoài”. Tình cảm cũng được che giấu tế nhị: “ngồi nhớ”, không hề vồ vập hay lộ liễu. Người xưa là thế, nhẹ nhàng, kín đáo mà đắm say, nồng nhiệt: “chín nhớ mười mong”. Tiếp đến, chàng trai tiện lời tỏ bày sau khi đã viện cái cớ:
“Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?”
Lời thơ như trách móc nhưng kì thực là để gợi mở, mời gọi bước chân thôn nữ tìm đường sang chơi. Đây cũng là cái cớ để trò chuyện, đưa lời, hỏi đáp. Chắc chắc rằng, cô gái ấy đã hấu hiểu tâm tình của chàng trai. Chân đã muốn tìm đường sang mà ngại đường chưa tỏ lối. Lí ra, chàng trai sẽ chủ động hơn nhưng trong lòng còn nhiều e ngại, chưa rõ nguồn cơn để mạnh lời hơn nữa, đành kín đáo gửi lời theo gió theo trăng:
“Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy cho tình xa xôi…
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!”
Tưởng rằng chàng trai đang nói với cô gái nhưng kì thực đây là một đoạn độc thoại tự vấn. Nỗi niềm đau đáu trong lòng không thể giãi bày, muốn tìm một lời giải đáp đẻ xóa tan u uẩn. Thời gian đằng đẵng trôi càng làm cho tình yêu trong lòng cuộn cháy, thôi thúc không nguôi mà lòng người xa còn đang mờ mịt. Có một chút oán trách nhưng nào lỗi tại ai. Chàng trai không dám trực tiếp ngỏ lời e rằng như thế là thô lỗ. Càng giấu giếm trong lòng nó càng cào cấu dữ dội. Tưởng chừng, niềm thôi thúc ấy sẽ là nguồn sức mạnh mãnh liệt đưa bước chàng trai tìm sang thôn Đông. Nhưng không, chàng quyết định im lặng và chỉ tìm gặp nhau trong mộng tưởng:
“Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?”
Mãi mãi, tình yêu thầm kín được chôn giấu trong lòng. Tình yêu ấy biến thành khát vọng đẹp và suốt cuộc đời chỉ là niềm khao khát xa vời mà thôi:
“Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Đọc thơ Nguyễn Bính thấy nhẹ nhàng và thanh lọc tâm hồn. Mỗi câu thơ đưa ta trở về với hồn xưa đất nước. Bởi lẽ dù viết về chuyện tình yêu dù hợp duyên hay trắc trở, tất cả đều đặt trong không gian vườn tược của làng quê tươi xanh, tràn trề sức sống. Màu sắc dân gian của bài thơ Tương tư toát lên từ chính khung cảnh làng quê bình dị, tĩnh lặng và thân thuộc. Đó chính là phong nền cho tình yêu lứa đôi nảy nở. Thơ Nguyễn Bính có sự vận dụng linh hoạt lời ăn tiếng nói của dân gian. Ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh, cảm giác như ta đã từng đọc thấy hay nghe được ở đâu đó trong ca dao dân ca.
6. Cảm nhận tác phẩm Tương tư mẫu 5
Nguyễn Bính, được mệnh danh là "nhà thơ đồng nội", đã ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng người yêu thơ bằng những tác phẩm giản dị, mang đậm hương vị thôn quê. Bên cạnh những tác phẩm thơ mới xuất sắc của Xuân Diệu, Thế Lữ hay Huy Cận, những bài thơ mộc mạc, "hương đồng gió nội" của Nguyễn Bính vẫn luôn chiếm một vị trí đặc biệt trong lòng độc giả. Thơ tình của ông luôn ngọt ngào, trầm lắng, phản ánh chính tâm hồn sâu lắng của tác giả. Bài thơ "Tương Tư" trong tập "Lỡ bước sang ngang" đã thể hiện rõ nét dòng chảy tâm tư của một người yêu đơn phương, với những cảm xúc nhớ thương và mong mỏi khôn nguôi.
Người ta thường nói, người đau khổ nhất trong tình yêu chính là kẻ yêu đơn phương. Khi yêu, ai cũng mong được ở bên người thương, được sẻ chia những tâm sự, những niềm vui nỗi buồn. Nhưng khi tình yêu chỉ xuất phát từ một phía, người ta dễ rơi vào trạng thái "bệnh tương tư". Chàng trai trong bài thơ "Tương Tư" của Nguyễn Bính đang ngày đêm khắc khoải nhớ thương một người mà chưa được hồi âm. Vì thế, bốn câu đầu tiên trong bài thơ đã bộc lộ ngay những cảm xúc chờ đợi, nhớ nhung đầy khắc khoải của chàng trai:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông Một người chín nhớ mười mong một người Nắng mưa là bệnh của giời Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng…”
Giữa không gian thôn quê bình dị, hiền hòa, Nguyễn Bính mượn hình ảnh “thôn Đoài” và “thôn Đông” như để giãi bày những cảm xúc từ tận sâu đáy tim mình. Có lẽ người thương của tác giả đang ở thôn Đông, còn ông ngồi đây nhớ mong đến nàng. Hình ảnh hai thôn quê yên ả đang ấp ủ, vun vén cho một tình cảm đẹp đang nảy nở trong lòng thi sĩ.
Nguyễn Bính sử dụng thủ pháp nhân hóa trong hình ảnh “mưa” và “nắng” để nói lên tâm trạng của mình. Sau cơn mưa trời sẽ lại hửng nắng, cũng như "bệnh tương tư" là điều khó tránh khỏi trong tình yêu. Tác giả mượn quy luật tự nhiên để giải thích cho căn bệnh tương tư của mình, căn bệnh ấy cũng tự nhiên như sự thay đổi của trời đất. Đặc biệt, trong hai câu thơ thứ ba và thứ tư, từ "là" xuất hiện để tạo nên một phép so sánh hợp lý giữa bệnh tương tư và các hiện tượng tự nhiên.
Cái “tôi” trong thơ Nguyễn Bính hiện lên rõ ràng cùng với “nàng”, không còn chút e ấp ngại ngùng nào, mà là một sự bộc bạch thẳng thắn, đầy cảm xúc:
“Hai thôn chung lại một làng Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?”
Chỉ hai câu thơ ngắn gọn, Nguyễn Bính đã vẽ nên hình ảnh đôi lứa dù ở hai thôn khác nhau nhưng chung một làng. Khi đã yêu nhau, khoảng cách vật lý không còn là vấn đề, chỉ cần lòng ta hướng về nhau, mọi khoảng cách sẽ bị xóa nhòa. Từ “cớ sao” được thốt lên như một lời hờn dỗi, băn khoăn, thể hiện mong muốn được "sang bên ấy" để gần gũi hơn, nhưng lại cảm thấy bị hờ hững, xa cách.
Những lời than thở về nỗi tương tư tiếp tục tuôn trào qua những câu thơ tiếp theo:
“Ngày qua ngày lại qua ngày Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”
Hai câu thơ này là một trong những thành công nổi bật của bài thơ "Tương Tư", miêu tả chân thực quy luật của tình yêu đơn phương. "Ngày qua ngày" lặp lại, như diễn tả sự chờ đợi vô vọng. Thời gian trôi qua càng làm tăng thêm sự sốt ruột, khó chịu vì không nhận được hồi âm. Nhịp ngắt ba trong câu "lá xanh nhuộm" cùng với năm từ "đã thành cây lá vàng" càng khắc sâu cảm giác chờ đợi mòn mỏi. Tình cảm ban đầu tươi mới như lá xanh, nhưng qua thời gian, nó cũng phai tàn, héo úa như lá vàng.
Tiếp theo là trạng thái tâm lý mang chút hờn trách:
“Bảo rằng cách trở đò giang, Không sang là chẳng đường sang đã đành. Những đây cách một đầu đình, Có xa xôi mấy cho tình xa xôi… Tương tư thức mấy đêm rồi, Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!”
Yêu đơn phương là chỉ dám ngắm nhìn người thương từ xa, không dám bộc lộ trực tiếp tình cảm. Chàng trai trong thơ cứ thầm thì với chính mình, hy vọng người thương có thể hiểu được nỗi lòng. Thôn Đoài và thôn Đông chung một bến nước, cây đa, cùng chung một làng, không xa xôi cách trở, vậy mà lòng vẫn cách trở. Sự cách trở không phải ở khoảng cách địa lý, mà ở sự xa cách về tình cảm, khi đối phương chưa biết đến tình cảm của mình.
Câu hỏi “biết cho ai, hỏi ai người biết cho” như một lời than thở hờn mát, giúp xoa dịu phần nào nỗi lòng chàng trai. Anh vẫn hy vọng về một tương lai không xa:
“Bao giờ bến mới gặp đò Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?”
Hình ảnh “bến” và “đò”, “hoa khuê” và “bướm” thường được mượn để nói về quan hệ lứa đôi. Nguyễn Bính khéo léo sử dụng những hình ảnh này để diễn tả khát vọng được gặp gỡ, sum vầy cùng người thương, như một điều tự nhiên không thể tránh khỏi. Nhưng thời điểm cho những điều ấy vẫn là một giấc mơ xa vời, chưa biết bao giờ mới trở thành hiện thực.
Cuối cùng, chàng trai nhớ lại:
“Nhà em có một giàn giầu, Nhà anh có một hàng cau liên phòng. Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông, Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”
Hình ảnh “giàn trầu” và “hàng cau” được mượn để diễn tả nỗi nhớ da diết, quấn quýt như dây trầu quấn lấy thân cau. Nguyễn Bính thật tài hoa khi sử dụng những hình ảnh quen thuộc, mộc mạc để diễn tả nỗi nhớ. Trong bốn câu thơ này, người đọc nhận ra sự thay đổi cách xưng hô từ "tôi-nàng" thành "anh-em", thể hiện tình cảm đã quá lớn, quá sâu, thôi thúc chàng trai muốn bộc lộ trực tiếp với cô gái.
Bài thơ "Tương Tư" của Nguyễn Bính đã diễn tả chân thực những cung bậc cảm xúc của chàng trai yêu đơn phương. Những tâm sự, nhớ nhung, băn khoăn và mong mỏi được Nguyễn Bính sắp xếp một cách tự nhiên, hợp lý. Tình yêu dù đau khổ nhưng vẫn đẹp đẽ và đáng trân trọng, và những cảm xúc hờn dỗi, trách than ấy sẽ mãi là những kỷ niệm đáng nhớ trong cuộc đời mỗi người.
7. Cảm nhận tác phẩm Tương tư mẫu 6
Nguyễn Bính, nhà thơ được mệnh danh là "nhà thơ đồng nội", đã ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả bằng phong cách sáng tác nhẹ nhàng, bình dị và đậm chất thôn quê. Tác phẩm "Tương tư" của ông, trích từ tập thơ "Lỡ bước sang ngang", thể hiện một nỗi niềm tâm sự sâu kín của người trót mang nỗi nhớ nhung, yêu thương khắc khoải dành cho một người.
Tên gọi "Tương tư" không phải là lựa chọn ngẫu nhiên của tác giả. Tên gọi này gói gọn trong mình toàn bộ cảm xúc ẩn chứa trong từng câu chữ của bài thơ. "Tương tư" là cảm giác nhớ thương da diết, một nỗi niềm mong mỏi hồi đáp của người yêu đơn phương. Tâm tư chân thành ấy được dồn nén, ấp ủ và bộc lộ qua từng vần thơ mộc mạc, chân thành:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người”
Hai câu thơ giản dị như vẽ lên trước mắt ta bức tranh thôn quê yên bình, mộc mạc. Nguyễn Bính mượn hình ảnh “thôn Đoài”, “thôn Đông” và thông qua thủ pháp nhân hóa tinh tế, tác giả đã lột tả nỗi nhớ nhung sâu thẳm trong lòng. Ta có thể hình dung ra hình ảnh một người trẻ tuổi, đứng ở một thôn mà hướng mắt về phía thôn bên kia, mong ngóng hình bóng người mình yêu thương.
“Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Tác giả sử dụng hình ảnh thiên nhiên để nói lên tấm lòng mình một cách thật tài tình. Nỗi tương tư được ví như căn bệnh sâu sắc trong tâm hồn, điều này giống như quy luật tự nhiên, là chuyện bình thường không thể tránh khỏi. Chỉ với bốn câu thơ mở đầu giản dị, Nguyễn Bính đã khơi dậy sự hứng thú của người đọc đối với mối tình chân thành nhưng đầy nhiệt huyết của chàng trai thôn Đoài với cô gái thôn Đông.
Tiếp theo, qua những câu thơ, ta cảm nhận được sự giận hờn, trách móc nhẹ nhàng nhưng sâu lắng của chàng trai trước sự hờ hững của cô gái:
“Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Những đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?
Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?”
Những câu hỏi dồn dập như lột tả trọn vẹn nỗi lo lắng, bối rối chất chứa trong lòng chàng trai đang yêu. Chàng trai giận hờn vì cô gái dường như hững hờ, vờ như không biết đến tình cảm của mình.
Giọng điệu của mỗi câu thơ uyển chuyển, nhẹ nhàng và tha thiết, như chàng trai đang muốn gửi gắm thông điệp tình yêu của mình đến cô gái. Từ “cớ sao” được sử dụng tinh tế, khiến lời trách móc trở nên đáng yêu, đồng thời như một lời gợi ý cho cô gái. Suốt bao đêm tương tư, chàng trai chỉ mong “bến” gặp “đò”, “hoa khuê các” gặp “bướm giang hồ”, mong cô gái hiểu thấu nỗi lòng mình.
Trong nỗi khắc khoải chờ mong, chàng trai lại tự hỏi:
“Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”
Thể thơ lục bát mang lại cảm giác nhẹ nhàng, sâu lắng và dễ dàng đi vào lòng người, tạo nên sức lay động mạnh mẽ. Hình ảnh “giàn trầu”, “hàng cau” được mượn để diễn tả nỗi nhớ da diết, như dây trầu quấn quýt thân cau, không thể tách rời nhau trong văn hóa dân gian.
Bên cạnh sự mộc mạc, tác giả táo bạo thay đổi cách xưng hô từ “tôi với nàng” thành “anh với em”, thể hiện tình cảm đã quá lớn, quá sâu đậm, thôi thúc chàng trai bộc lộ trực tiếp với cô gái. Nhân vật trữ tình trong bài thơ thể hiện sự bình dị, trong sáng nhưng cũng đầy chân thành, mãnh liệt.
Nỗi tương tư quen thuộc đã được Nguyễn Bính nghệ thuật hóa tài tình qua ngòi bút tinh tế và những vần thơ bình dị, mộc mạc.
8. Cảm nhận tác phẩm Tương tư mẫu 7
Bài thơ "Tương Tư" của Nguyễn Bính được viết trong bối cảnh của phong trào Thơ Mới, nơi tình yêu nam nữ - một thứ tình yêu hiện đại phong phú và đa dạng, đã trở thành một chủ đề nổi bật trong văn học lãng mạn giai đoạn 1930-1945. Đó là một tình yêu mãnh liệt, đôi khi chỉ thoáng qua; lúc thì gần gũi, lúc lại xa xôi; có thể chỉ là một khoảnh khắc, hoặc kéo dài cả đời.
Trong "Tương Tư", người con trai lãng mạn của Nguyễn Bính sống trong nỗi nhớ nhung khôn nguôi, suốt đêm ngày mong mỏi người thương. Hình ảnh lá xanh đổi thành cây lá vàng thể hiện sự chờ đợi dài đằng đẵng, theo từng ngày, từng tháng. Theo quan niệm Nho gia, đặc biệt là Tống Nho, thì một người đàn ông chìm đắm trong tình yêu như thế là không đúng đắn. Nhưng sức hút của thơ tình Nguyễn Bính không chỉ ở sự chân thành trong việc bộc lộ tình cảm, mà còn nằm ở sự thể hiện tinh tế các quy luật của tình yêu nam nữ, làm nổi bật đạo lý nhân văn.
Nguyễn Bính đã thấm nhuần văn hóa dân gian Việt Nam và thể hiện điều đó trong thơ của mình. Linh hồn của một dân tộc được thể hiện rõ nét qua folklore, và trong folklore Việt Nam, thơ ca dân gian không chỉ phong phú về số lượng mà còn đậm đà về chất lượng. Ca dao, dân ca chứa đựng những giá trị văn hóa, tinh thần và tình yêu của người Việt, và Nguyễn Bính đã tận dụng điều đó để tạo nên những vần thơ tình yêu độc đáo.
Trong phong trào Thơ Mới, không chỉ riêng Nguyễn Bính mà nhiều thi sĩ khác cũng tìm về với văn hóa dân gian. Các tác giả của "Thi Nhân Việt Nam" đã nhận xét rằng: "Chưa bao giờ như bây giờ họ thấy cần phải tìm về dĩ vãng để vịn vào những gì bất diệt đủ đảm bảo cho ngày mai." Điều này phù hợp với quy luật của văn học lãng mạn thế giới, khi nhiều cây bút lãng mạn châu Âu thế kỷ XIX cũng quay về với văn hóa dân gian, tìm kiếm cảm hứng từ những sáng tác dân gian để hợp hồn thời xưa và thời nay.
Một nét đặc trưng của văn hóa dân gian Việt Nam là ý thức về độ, tức là sự không vượt ngưỡng. Điều này chi phối nhiều khía cạnh của văn hóa dân gian Việt Nam, từ kiến trúc, sân khấu đến tín ngưỡng, lễ hội và cách ứng xử. Trong tình yêu, người Việt thể hiện tình cảm đắm đuối nhưng không bi lụy. Tình yêu trong ca dao dân ca thường đằm thắm nhưng không quá đau khổ, bởi cuộc sống của người dân lúc đang yêu cũng là lúc họ phải đảm đương nhiều trách nhiệm khác.
Những vần thơ tình yêu trong "Tương Tư" của Nguyễn Bính, dẫu có đượm buồn, nhưng vẫn luôn giữ được nét bình dị và gần gũi. Nhân vật trong thơ Nguyễn Bính, dù có yêu đơn phương hay gặp phải tình tuyệt vọng, đều ứng xử có chừng mực. Chàng trai trong bài thơ "Tương Tư" chờ đợi trong hy vọng, dẫu biết rằng tình cảm có thể không được đáp lại. Tâm trạng này khác xa với sự bi lụy của một số nhà thơ lãng mạn khác, như trong bài "Ao ước" của Tế Hanh.
Cách cấu tứ và giọng điệu của Nguyễn Bính mang đậm chất dân gian, khiến thơ tình của ông dễ dàng được độc giả đồng cảm và yêu mến. Những bài thơ tình của ông, như "Chân quê", "Đêm cuối cùng", "Chờ nhau", "Giấc mơ anh lái đò", "Người hàng xóm" và "Lỡ bước sang ngang", đều mang giọng ca dao dân ca, tạo nên một thứ từ ngữ điệu thân quen, dễ đi vào lòng người.
Trong bài "Tương Tư", những hình ảnh thôn quê như thôn Đoài, thôn Đông, bến nước, đầu đình, giàn trầu, hàng cau đều gợi nhớ về quê hương xứ sở. Ở những bài thơ khác của Nguyễn Bính, cũng tràn ngập các hình ảnh gần gũi như những con bướm trắng, bướm vàng, vườn hoa cải, vườn chanh, vườn cam, vườn bưởi. Những thôn nữ đôn hậu, những người lao động chăm chỉ, những buổi trẩy hội chùa, hội làng, xem hát chèo mùa xuân... tất cả đều tạo nên một bức tranh đồng quê sống động và thân thương.
Những vần thơ của Nguyễn Bính, trước và sau 1945, đã được đông đảo độc giả mến mộ. Thơ tình của ông không chỉ thu hút bởi những tình cảm chân thành, mà còn bởi những hình ảnh gần gũi với cuộc sống của người dân Việt Nam. Tác giả "Thi Nhân Việt Nam" đã từng dự báo rằng nếu các thi nhân biết tìm về với thơ xưa, họ sẽ phát huy được những giá trị vĩnh cửu và giản dị trong linh hồn dân tộc, và sẽ có những vần thơ làm nao lòng người Việt Nam.
Như vậy, sức hút của thơ tình Nguyễn Bính nằm ở sự kết hợp hài hòa giữa tình yêu lãng mạn và văn hóa dân gian Việt Nam. Những vần thơ của ông không chỉ thể hiện tình cảm cá nhân mà còn phản ánh tinh thần và tính cách của dân tộc. Điều này đã giúp thơ của Nguyễn Bính tìm được sự đồng cảm và yêu mến của độc giả qua nhiều thế hệ.
Mời các bạn cùng tải về bản PDF để xem đầy đủ nội dung