Văn mẫu lớp 11: Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Đây thôn Vỹ Dạ” của Hàn Mạc Tử

Bài văn mẫu dưới đây với đề tài: Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ "Đây thôn Vỹ Dạ" của Hàn Mạc Tử là tài liệu văn mẫu lớp 11 được VnDoc.com sưu tầm và đăng tải. Hi vọng, tài liệu này sẽ giúp ích cho quá trình dạy và học của quý thầy cô giáo và các em học sinh, giúp những tiết học Văn sinh động và hiệu quả hơn. Mời các bạn tham khảo.

1. Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ mẫu 1

Hàn Mạc Tử được biết đến là một nhà thơ có sức sáng tạo mãnh liệt với phong cách "điên", có đôi khi là vượt ra khỏi thế giới hiện thực, tràn ngập mộng mị. Tuy nhiên sáng tác của ông vẫn có những vần thơ về thiên nhiên mượt mà, đẹp tươi như rọi vào lòng người đọc xúc cảm mới. Bài thơ "Đây thôn Vỹ Dạ" là một bức tranh tuyệt đẹp về cảnh vật, thiên nhiên xứ Huế mộng mơ. Bức tranh ấy neo đậu trong lòng nhà thơ và neo lại trong lòng người đọc nhiều dư âm.

"Đây thôn Vỹ Dạ" là bài thơ được ghi sau một bức ảnh được gửi từ người con gái xứ Huế. Khi ấy Hàn Mạc Tử đang ở Quy Nhơn dưỡng bệnh. Nỗi nhớ mong, hoài niệm về con người và thiên nhiên xứ Huế, Hàn Mạc Tử đã viết bài thơ tuyệt đẹp này.
Thiên nhiên trong bài thơ "Đây thôn Vỹ Dạ" dường như cũng mang nhiều gam màu, nhiều cung bậc lẫn lộn trong chính cảm xúc của nhà thơ.

Mở đầu bài thơ là lời trách móc nhẹ nhàng, tình tứ người "khách xa" sao lâu nay không về Huế chơi:

Sao anh không về chơi thôn Vỹ

Tứ thơ thật đẹp, thật tinh tế và ẩn chứa nội dung sâu xa. Nỗi nhớ về Huế được tác giả gửi gắm qua lời trách yêu nhẹ nhàng này. Hàn Mạc Tử đã dẫn dụ người đọc khám phá một bức tranh xứ Huế nhiều nét đẹp riêng.

Sau lời trách móc ấy, một bức tranh thiên nhiên tươi sáng, tràn đầy sức sống hiện ra:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọ
Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Bức tranh thiên nhiên xứ Huế vào buổi sáng ban mai tinh khôi, trong lành. Ánh nắng đầu ngày luôn tinh khô, tràn đầy sức sống nhất. Dường như ánh nắng đang lên cao trên những hàng cau dài thẳng tắp. Từ "nắng" được lặp lại hai lần như nhấn mạnh bầu không khí trong lành nhất ở xứ Huế mộng và thơ. Một khu vườn hiện lên thật xinh xắn và tươi đẹp. "Vườn ai" phiếm chỉ một địa danh cụ thể nào đó nhưng tác giả ẩn ý không nói ra. Màu xanh "như ngọc" của khu vườn khiến cho bức tranh bừng lên sức sống. Không phải xanh non, xanh rì mà là "xanh mướt". Từ "mướt" làm mềm cả câu thơ và khiến cho khung cảnh trở nên hiền dịu và nên thơ hơn

Đến câu thơ cuối dường như hình ảnh con người mới xuất hiện. Mặt chữ điền là khuôn mặt phú hậu, hiền lành của người con trai. Cây trúc biểu tượng cho chí trí nam chi. Có lẽ có "khách đường xa" nào đã ghé thăm xứ Huế, nhưng chỉ là ghé thăm một cách thầm lặng như vậy.

Qua ngôn ngữ điêu luyện, giọng văn nhẹ nhàng, Hàn Mạc Tử đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên xứ Huế nên thơ nhất. Tuy nhiên sang đến khổ thơ thứ hai thì dường như bức tranh thiên nhiên ở đây đã bắt đầu chuyển màu:

Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Có một sự chia ly, tan vỡ ở trong hai câu thơ. Mây và gió vốn chung đường nhưng trong thơ Hàn Mạc Tử lại chia lìa đôi ngả. Hình ảnh hoa bắp ven bờ sông hương lay nhẹ rơi rụng xuống mặt nước khiến người đọc liên tưởng đến sự nổi trôi, bấp bênh của một đời người. Thiên nhiên ở đây vẫn đẹp, nhưng đẹp mang nỗi buồn mênh mang và sâu thẳm.

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay

Xứ Huế với một đêm nên thơ, tràn ngập ánh trăng nhưng dường như tác giả đang thấp thỏm, lo âu điều gì đó. Từ "kịp" khiến cho mạch thơ vỡ ra, vội vàng và gấp gáp hơn. Tác giả đang hỏi ai hay hỏi chính bản thân mình

Và đến khổ thơ cuối thì dường như thiên nhiên đã chuyển sang gam màu khác, mờ ảo, huyền diệu hơn:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ai biết tình ai có đậm đà

Một đêm trăng mờ ảo, sông nước mênh mông khiến tác giả có cảm giác như mọi thứ đang ở trong cõi hư không. Màu trắng bao trùm lấy khổ thơ cuối. Sự mộng mị của cảnh sông nước khiến cho tác giả thấy mình chới với, không có điểm tựa. Câu hỏi cuối cùng của bài thơ là một câu hỏi da diết và day dứt, nó như một điệp âm cứ thổn thức mãi trong lòng tác giả.

Bức tranh thiên nhiên của xứ Huế có sự chuyển biến qua ba khổ thơ theo hướng hư không, mờ ảo dần. Tuy nhiên người đọc vẫn nhận ra được sức sống tràn trề, nét đẹp tinh khôi của một bức tranh thiên nhiên ở Huế.

"Đây thôn Vỹ Dạ" là một bức tranh về xứ Huế vừa tươi đẹp, vừa mộng mơ, vừa huyền ảo khiến người đọc có cảm giác như đang lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh.

2. Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ mẫu 2

Hàn Mạc Tử là thi sĩ với phong cách sang tác riêng và "lạ" trong phong trào Thơ mới. Thơ ông luôn bộc lộ nỗi niềm da diết với đời, với người nhưng nhận lại là sự thờ ơ và lãnh đạm. Đọc thơ Hàn Mạc Tử, chúng ta nhận ra cái tôi hơi hướng "điên" với những vần thơ "suýt" vượt ra khỏi "mảnh đất hiện thực". Nhưng đối lập với những hình ảnh "điên" đó là những hình ảnh thơ rất đẹp và thi vị. Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" là một ví dụ tiêu biểu. Bức tranh thiên nhiên xứ Huế hiện lên nên thơ và tươi đẹp qua những nét vẽ tài hoa của tác giả.

"Đây thôn Vĩ Dạ" thực ra là lời đáp của nhà thơ dành cho một cô gái ở thôn Vĩ Dạ khi cô gái ấy trách sao lâu rồi không ghé về chơi. Tứ thơ được viết ra từ mạch cảm xúc chân thành và mãnh liệt đó.

Huế luôn là mảnh đất gợi nhớ, gợi thương đối với những ai đã từng đặt chân qua đây. Bởi nó có một nét đẹp vừa tươi mới, vừa cổ kính, vừa gần gũi. Thiên nhiên trong bài thơ chính là chất liệu để làm tôn thêm hình ảnh con người nơi xứ Huế.

Câu thơ đầu có thể nói là câu thơ phác họa một cách rõ nét nhất bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và đầy lôi cuốn của mảnh đất kinh đô này:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Khổ thơ được cất lên bằng tiếng trách hờ của cô gái đối với nhân vật trữ tình. Một câu trách nhẹ nhàng, nhưng tình cảm và đầy sự tinh tế. Dù có trách thì người khác cũng không nỡ lòng nào để giận để hờn. Và đằng sau câu trách ấy là một bức tranh thiên nhiên thơ mộng được vẽ ra. Có thể nói tác giả đã không còn đơn thuần dùng chất liệu ngôn ngữ để vẽ tranh nữa mà đã dùng cả sự rung động trong trái tim để vẽ nên bức tranh tuyệt đẹp đó.

Thiên nhiên cứ thế sang rực lên, tươi tắn và khỏe khắn. Cách dùng từ "nắng mới lên" gợi cho người đọc liên tưởng đến nắng đầu ngày, nắng bình minh khoan thai, dễ chịu và nhẹ nhàng. Nắng mới lên đậu trên hàng cau xanh vút khiến người đọc mường tượng đến một khung cảnh tSahanh mát và trong lành.

Ở câu thơ thứ ba, tác giả dùng đại từ phiếm chỉ "vườn ai" như để hỏi người nhưng cũng là tự hỏi mình. "Vườn ai" vừa bộc lộ sự kín đáo, e dè, vừa thê hiện sự tinh tế và sâu sắc của nhà thơ. "Vườn ai" thì chính trong trái tin của nhân vật trữ tình đã hiểu quá rõ, quá sâu sắc rồi. Màu xanh của khu vườn là một màu xanh rất đặc biệt và lạ kì. "Xanh như ngọc" chính là màu xanh vừa trong lành vừa tinh khôi. Từ "mướt" như làm sang bừng lên cả câu thơ, tạo sự mềm mại và uyển chuyển cho khu vườn buổi sang mai.

Một bức tranh thiên nhiên giàu chất thơ và tươi đẹp biết bao nhiêu.

Sang đến câu thơ thứ hai thì thiên nhiên từ tươi tắn chuyển sang buồn bã và vương sự chia li.

Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Gió mây xưa nay vốn đi chung đường nhưng trong thơ của Hàn Mạc Tử lại là chia đôi thành hai đường xa lạ. Từ "buồn thiu" như diễn tả được tâm trạng của thiên nhiên, một sự não nề và thê lương.

Đoạn cuối có thể xem là đoạn thiên nhiên thôn Vi trở nên huyền ảo và mơ hồ hơn. Có thể nói đó chính là sự cảm nhận tinh tế và sâu sắc của Hàn Mạc Tử.

Với những nét vẽ đơn giản, nhẹ nhàng nhưng tinh tế và sâu sắc, Hàn Mạc Tử đã vẽ lên trước mắt người xem một bức tranh thiên nhiên xứ huế vừa tươi mới, vừa thơ mộng, vừa u sầu. Có lẽ đó chính là nét đặc trưng của Huế.

3. Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ mẫu 3

"Đây thôn Vĩ Dạ" ra đời ngẫu nhiên trong một lần Hàn Mặc Tử nhận được bức thư của nàng thơ Hoàng Thị Kim Cúc xưa gửi cho thi sĩ trong những ngày cuối cùng của đời người bên giường bệnh. Bức thư kèm theo một bức ảnh chụp cảnh non nước mây trời xứ Huế. Quá khứ về những ngày ở Huế ùa về, Hàn Mặc Tử chợt xúc động và viết lên bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ". Có lẽ, đó là lí do bức tranh thiên nhiên Vĩ Dạ trong bài thơ lại đầy sắc, hương và tình đến thế.

Trong số các nhà văn, nhà thơ Việt Nam, ít ai chịu nỗi đau đời nhiều như Hàn Mặc Tử. Cuộc đời Hàn bị ruồng bỏ nơi bãi bồi, chòi gác. Người chịu căn bệnh phong hành hạ thể xác tới cuối đời. Đưa nỗi đau vào các tác phẩm, Hàn Mặc Tử trở thành đỉnh cao thơ Mới với cái "tôi" hoàn toàn "loạn" và dị biệt. Tác phẩm "Đây thôn Vĩ Dạ" tiêu biểu cho cái tôi kì dị ấy. Thế nên mới có lời nhận xét thế này "Thơ Hàn Mặc Tử thường có bước cóc nhảy về ý, ý nọ cách ý kia một khoảng rất xa, thoạt nhìn tưởng đầu Ngô mình Sở...". Chỉ riêng cách thể hiện bức tranh thiên nhiên trong bài thơ, ta đã thấy những điểm đó.

Bức tranh thiên nhiên trong bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" được thể hiện tập trung chủ yếu trong hai khổ thơ đầu tiên. Hàn Mặc Tử đã khắc họa hai bức tranh với hai gam màu khác nhau, một tươi sáng đầy sức sống; một thấm đẫm lạc lõng, cô đơn, dự cảm bất an.

Trước hết, bức tranh thiên nhiên Vĩ Dạ đầy sức sống gợi về từ quá khứ tươi đẹp thời tuổi trẻ đầy niềm yêu sống và hoài bão của Hàn Mặc Tử những ngày ở Huế. Thuở đó, khi anh thi sĩ lắm mộng mơ phải lòng cô gái Huế Hoàng Thị Kim Cúc, tâm hồn người đang yêu khi nào chẳng phơi phới. Vậy nên Vĩ Dạ sống trong lòng nhà thơ mới tràn trề nhựa sống như thế:

"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc"

Vĩ Dạ nhiều cau. Những hàng cau xanh bát ngát của buổi sớm mai cộng hưởng ánh nắng vàng rực và sắc non tơ mơn mởn của vườn cây trái Vĩ Dạ sao mà khó quên đến thế. Mỗi sớm, mặt trời rọi ánh dương xuống xuyên qua kẽ lá cau dài đổ thành giàn đan xuống mặt đất. Những thân cau cao, thẳng, nhiều đốt. Nắng rọi xuống thân cau in bóng một cây thước khổng lồ đang cần mẫn đo đạc mực nắng. Ánh nắng chiếu xuống nhưng lại có sắc "mới lên". Một câu thơ có tới hai từ nắng. Hàn Mặc Tử đã lấy màu nắng để gột rửa sắc xanh ánh lên màu ngọc bích. Có ai không yêu một Vĩ Dạ đầy sống động như thế. Sống động tới độ có gương mặt chữ điền nào đó cứ say đắm ngắm nghía quên mọi thời gian và không gian?

"Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay"

Bức tranh thiên nhiên bỗng "cóc nhảy" đến không gian trời mây sông nước với những tình cảm đứt gãy và chia lìa. Vừa mới vườn non tơ mơn mởn đây thôi mà giờ chỉ có nước "buồn", hoa bắp cô liêu, "thuyền ai" bất định... Vừa mới đây thôi còn đằm đằm ấm ấm ánh mắt ai đó say đắm cảnh sớm mai. Nay bỗng chốc thấy bóng người đang chới với một "bến sông" mỏi mòn chờ "thuyền ai" đem ánh trăng hạnh phúc về. Bức tranh có sông, nước, hoa, thuyền, bến, trăng tràn đầy ấy sao chỉ có tiếng thở than thiu nghỉu, dự cảm không "kịp".

Ngoài tiếng buồn thở than, ta thấy bức tranh như đang bị cắt rời, lìa bỏ nhau. Gió thổi mây bay. Thế mà gió "lối gió", mây lại "đường mây". Thuyền và bến luôn luôn đi liền với nhau. Thuyền cần bến đậu. Bến có thuyền mới là bến. Vậy mà thi sĩ không rõ thuyền ai, thuyền đâu. Một bức tranh chỉ thấy sự cô liêu và đứt gãy. Thế nhưng, có một điều chúng ta thừa hiểu rằng. Người càng lo sợ, càng bất an thì càng chứng tỏ tình yêu vô bờ bến với thiên nhiên Vĩ Dạ.

Tóm lại, Hàn Mặc Tử đã sử dụng nhiều nghệ thuật khác nhau để thể hiện bức tranh thiên nhiên Vĩ Dạ như sáng tạo ngôn từ, gieo vần, bắt âm, từ dùng giàu sắc thái, giọng thơ linh hoạt. Qua đó, nhà thơ nói lên tình yêu thiên nhiên, đất nước sâu nặng, thiết tha.

4. Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ mẫu 4

Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" - Hàn Mặc Tử đã miêu tả một cách sinh động, đầy màu sắc về cảnh vật của thôn Vĩ. Qua bài thơ, ta không chỉ yêu thêm về con người mà con yêu hơn nữa nét trữ tình, đằm thắm rất riêng của Huế.

Huế với vẻ đẹp nên thơ trữ tình, nó không chỉ đẹp mà còn gợi cho du khách sự nhớ nhung về một mảnh đất vừa tươi mới, vừa gần gũi, cổ kính. Vẻ đẹp đó đã tạo nên cảm hứng cho tác giả. Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ, gợi cho người đọc bao suy nghĩ: "Sao anh không về thăm thôn Vĩ".

Câu thơ như lời trách móc nhẹ nhàng của một cô gái Huế đối với người cô thương. Nỗi niềm sâu kín như thể hiện một cách kín đáo qua câu thơ, "sao lâu rồi anh không về thăm thôn Vĩ". Đó còn là lời mời đầy ẩn ý, lời nhắn nhủ về với miền đất xinh đẹp, đáng yêu

Sao anh không về thăm thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Bức tranh làng quê hiện lên đầy màu sắc, khung cảnh làng quê bình dị nhưng vô cùng đẹp đẽ. Màu nắng mới "nắng mới lên" tinh khôi, không phải là ánh nắng chói chang của những ngày hè, cũng không là cái nắng yếu ớt sau những ngày đông u ám, mà là "nắng mới" nhẹ nhàng, ấm áp, cho người ta có cảm giác khoan thai dễ chịu. Nắng mới chiếu lên hàng cau thẳng tắp, như đang đón lấy, tỏa ra thứ sức sống căng tràn đang trỗi dậy, vươn vai trong nắng sớm. Cả bức tranh với màu sắc chủ đạo là màu xanh, không chỉ có màu xanh của hàng cau mà đó còn là màu xanh của cả khu vườn, một màu "xanh mướt". Từ "mướt" làm cho người đọc liên tưởng đến một màu xanh óng, khắp nơi đều là màu xanh, ánh nắng chiếu rọi lên toàn khu vườn làm cho cây cối ánh lên như màu ngọc bích. Cũng có thể, nắng sớm soi xuống những hạt sương sớm còn đọng trên phiến lá tạo nên thứ ánh sáng long lanh làm cho nhà thơ liên tưởng đến những hạt ngọc. Trong khung cảnh thiên nhiên trữ tình đó, hình ảnh con người xuất hiện mờ ảo trong nắng mới. Tác giả không nói rõ là ai,người đọc chỉ có thể hình dung ra bóng dáng ẩn hiện sau màu xanh của lá trúc: "Lá trúc che ngang mặt chữ điền". Đó có thể là hình ảnh của người đi thăm vườn lúc sáng sớm, đó cũng có thể là hình ảnh của chính người mà tác giả thầm thương trộm nhớ, hoặc giả như đó chỉ là hình ảnh tưởng tượng trong sự nhớ nhung về một ai đó của chính nhà thơ. Bức tranh thôn Vĩ hiện lên trong sự nuối tiếc, nhớ nhung của tác giả, dù với chỉ vài nét vẽ nhưng chúng ta có thể nhận thấy nét đẹp tinh khôi, nên thơ của nơi đây. Không chỉ có thế, ẩn hiện sau từng câu chữ tả cảnh, chính là nỗi lòng của chính nhà thơ, niềm hy vọng, sức sống của tuổi trẻ, khát vọng sống mãnh liệt

Xa, xa, theo dòng sông Hương thơ mộng, chính là gió, mây, sông, nước

Gió theo lối gió, mây đường mây

Mặt nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay

Khung cảnh thiên nhiên đậm tình của tác giả, gió mây không đi chung một hướng, gió đi một đường, mây đi một nẻo. Cảnh vật dường như có sự chia tách, mặt nước sông Hương hẳn có phải vì thế mà cũng trở nên buồn bã hay không "Mặt nước buồn thiu hoa bắp lay". Hoa bắp hai bên bờ sông thoáng lay động, cả không gian tĩnh lặng ấy chỉ cảm thấy có sự chuyển động khẽ khàng của hoa bắp hẳn có phải đang an ủi sông Hương trong sự chia ly của mây và gió.

Rời xa khung cảnh thiên nhiên trầm lặng ấy, tâm trí trong tác giả hướng về thứ ánh sáng trong trẻo, nhẹ nhàng của ánh trăng "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó". "Thuyền ai" tác giả một lần nữa không nói rõ là ai, chỉ thấy hình ảnh con thuyền đang đậu trên bến sông. Cả dòng sông bỗng trốc hóa thành dòng sông trăng, ngay cả bến đậu cũng trở thành "bến sông trăng". Con thuyền như chở cả ánh trăng, chở cả một dòng ký ức của chính nhà thơ.

Ánh trăng đó có về kịp về để chứng kiến cho tâm chân tình của nhà thơ hay không, hay đó chỉ là sự nhớ nhung đầy tiếc nuối, trong ký ức của nhà thơ bỗng hiện về hình ảnh về người con gái mà tác giả thương

Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

Từ "mơ" được đặt ở đầu câu, đó có thể là giấc mơ, cũng có thể chỉ là mơ ước. Người con gái ấy đi cả vào trong giấc mơ của nhà thơ. Hình ảnh ấy bỗng nhạt nhòa trong màu trắng tinh khôi của áo dài. Bởi người con gái đó giờ đã đi xa chỉ có thể là "khách đường xa", nhà thơ không còn nhớ nổi hình ảnh người con gái đó nữa, dù trong mơ vẫn luôn chờ đợi hình bóng ai đó nhưng tất cả chỉ còn lại một màu trắng thấp thoáng xa xa giữa cái hư vô trong màu ký niệm "mờ nhân ảnh". Thế cho nên, tình cảm kia liệu cũng có khi nào cũng chỉ là hư vô như màu áo trắng thấp thoáng, lúc ẩn lúc hiện như màu áo trắng kia "Ai biết tình ai có đậm đà?". Câu hỏi tu từ không có câu trả lời, là tiếng lòng của chính nhà thơ, liệu ai có biết, liệu ai có còn nhớ hay chăng?

Bài thơ được khắc họa như một bức tranh thủy mặc, với đầy đủ tính chất với cây cối, trăng, sông, nước. Bức tranh thôn quê hiện lên giản dị nhưng đầy thơ mộng, nhưng ẩn hiện sau bức tranh ấy chính là nỗi sầu chia ly, nỗ nhớ nhung sâu sắc của người đang yêu.

Mời các bạn tham khảo thêm các bài viết dưới đây của chúng tôi:

Trên đây VnDoc đã giới thiệu tới các bạn Văn mẫu lớp 11: Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Đây thôn Vỹ Dạ” của Hàn Mạc Tử. Để có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các bạn học sinh tài liệu Soạn bài lớp 11, Giải bài tập Lịch Sử 11, Giải bài tập Địa Lí 11, Học tốt Ngữ văn 11, Tài liệu học tập lớp 11 mà VnDoc tổng hợp và đăng tải.

Đánh giá bài viết
4 6.235
Sắp xếp theo

    Ngữ văn lớp 11

    Xem thêm