Đề thi học kì 2 Ngữ văn 11 Cánh diều - Đề 3
Đề kiểm tra học kì 2 môn Ngữ văn 11 Cánh diều
Đề thi học kì 2 Ngữ văn 11 Cánh diều - Đề 3 là tài liệu hữu ích giúp bạn đọc có thể trau dồi, luyện tập kiến thức để chuẩn bị thật tốt cho kì thi cuối học kì 2 lớp 11 sắp tới nhé. Đề thi gồm có 2 phần đọc hiểu và làm văn. Thí sinh làm bài trong thời gian 90 phút. Đề có đáp án và lời giải chi tiết kèm theo. Mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây.
1. Đề thi học kì 2 lớp 11 môn Văn Cánh diều
A. PHẦN ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Cho ngữ liệu sau đọc và trả lời câu hỏi:
Tuổi trẻ là đặc ân vô giá của tạo hóa ban cho bạn. Vô nghĩa của đời người là để tuổi xuân trôi qua trong vô vọng.(…) Người ta bảo, thời gian là vàng bạc, nhưng sử dụng đúng thời gian của tuổi trẻ là bảo bối của thành công. Tài năng thiên bẩm chỉ là điểm khởi đầu, thành công của cuộc đời là mồ hôi, nước mắt và thậm chí là cuộc sống. Nếu chỉ chăm chăm và tán dương tài năng thiên bẩm thì chẳng khác nào chim trời chỉ vỗ cánh mà chẳng bao giờ bay được lên cao. Mỗi ngày trôi qua rất nhanh. Bạn đã dành thời gian cho những việc gì ? Cho bạn bè, cho người yêu, cho đồng loại và cho công việc? Và có bao giờ bạn rùng mình vì đã để thời gian trôi qua không lưu lại dấu tích gì không ?
Các bạn hãy xây dựng tầm nhìn rộng mở (…), biến tri thức của loài người, của thời đại thành tri thức bản thân và cộng đồng, vận dụng vào hoạt động thực tiễn của mình. Trước mắt là tích lũy tri thức khi còn ngồi trên ghế nhà trường để mai ngày khởi nghiệp; tự mình xây dựng các chuẩn mực cho bản thân; nhận diện cái đúng, cái sai, cái đáng làm và cái không nên làm. Trường đời là trường học vĩ đại nhất, nhưng để thành công bạn cần có nền tảng về mọi mặt, thiếu nó không chỉ chông chênh mà có khi vấp ngã.
(Theo Báo mới.com; 26/ 03/ 2016)
Câu 1 (0.5 điểm): Chỉ ra điều cần làm trước mắt được nêu trong đoạn trích.
Câu 2 (0.5 điểm): Phân tích ngắn gọn tác dụng của câu hỏi tu từ được sử dụng trong đoạn trích trên.
Câu 3 (1.0 điểm): Anh/chị hiểu thế nào về ý kiến: “Trường đời là trường học vĩ đại nhất, nhưng để thành công bạn cần có nền tảng về mọi mặt”?
Câu 4 (2.0 điểm): Anh/chị có cho rằng “Tài năng thiên bẩm chỉ là điểm khởi đầu, thành công của cuộc đời là mồ hôi, nước mắt và thậm chí là cuộc sống” không? Vì sao?
B. PHẦN VIẾT (6.0 điểm)
Câu 1 (6.0 điểm): Phân tích Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh để làm rõ tinh thần thơ mới của ông.
2. Đáp án đề thi học kì 2 lớp 11 môn Văn Cánh diều
A. PHẦN ĐỌC HIỂU
Câu 1:
Điều cần làm trước mắt là:
+ tích lũy tri thức khi còn ngồi trên ghế nhà trường để mai ngày khởi nghiệp;
+ tự mình xây dựng các chuẩn mực cho bản thân;
+ nhận diện cái đúng, cái sai, cái đáng làm và cái không nên làm.
Câu 2:
- Câu hỏi tu từ: Bạn đã giành …..dấu tích gì không?
- Tác dụng: Hỏi thể hiện sự trăn trở về việc sử dụng quỹ thời gian, cảnh báo việc để thời gian trôi qua một cách vô nghĩa. Từ đó nhắc nhở mỗi người trân quý thời gian và có ý thức sử dụng thời gian hiệu quả, ý nghĩa.
Câu 3:
- Ý kiến Trường đời….mọi mặt có thể hiểu:
+ đời sống thực tiễn là một môi trường lí tưởng, tuyệt vời để chúng ta trau dồi kiến thức, rèn luyện kinh nghiệm, bồi dưỡng nhân cách…;
+ song muốn thành công trước hết ta cần chuẩn bị hành trang, xây dựng nền móng vững chắc từ nhiều môi trường giáo dục khác như gia đình, nhà trường…
Câu 4:
Em hoàn toàn đồng ý với quan điểm "Tài năng thiên bẩm chỉ là khởi đầu, thành công của cuộc đời là mồ hôi, nước mắt và thậm chí là cuộc sống". Nếu như mỗi người phát hiện được một loại tài năng thiên bẩm của bản thân mình thì đó chính là một điều may mắn mang đến một chút lợi thế cho cuộc sống của người đó. Tuy nhiên, giống như viên ngọc mà không mài thì sẽ chẳng thành đồ có giá trị, con người có tài năng thiên bẩm thì sẽ mãi không ứng dụng được vào cuộc sống nếu như người đó không chịu luyện tập và rèn giũa bản thân trở nên tốt đẹp hơn mỗi ngày. Để đạt được thành công trong cuộc sống, con người phải bỏ ra mồ hôi, nước mắt, những sự hy sinh và đánh đổi cả cuộc đời để có thể trở nên mạnh mẽ, vững vàng hơn trước những khó khăn và thử thách. Những khó khăn, gian nan dù cho có đau đớn nhưng là những yếu tố mài giũa con người trở thành phiên bản tốt đẹp hơn của chính mình. Dù cho có thất bại và nhận thật nhiều đắng cay, những sự hy sinh của con người rồi sẽ được đền đáp xứng đáng bằng những thành công sau này.
B. PHẦN VIẾT
1. Mở bài:
– Giới thiệu tác giả Hoài Thanh
– Giới thiệu tác phẩm Một thời đại trong thi ca
2. Thân bài:
a. Nguyên tắc xác định tinh thần thơ mới.
Trong việc xác định tinh thần thơ mới, ta đối mắt với một số khó khăn:
– Tác giả đã trích dẫn những ví dụ tiêu biểu từ các nhà thơ cổ điển và hiện đại, từ đó đưa ra nhận định về sự phức tạp trong việc phân biệt thơ mới và thơ cũ.
– Ranh giới giữa thơ mới và thơ cũ không luôn rõ ràng, dễ dàng nhận thấy: “…hôm nay, cái mới vẫn còn chứa đựng những tàn dư của cái cũ.”
– Cả thơ mới và thơ cũ đều có những điểm mạnh và điểm yếu: Đáng tiếc, cái tầm thường và cái không hoàn hảo không chỉ xuất hiện trong một thời kỳ cụ thể.
Bằng cách sử dụng câu từ ẩn dụ và cách diễn đạt thân thiết, tác giả đã tạo nên một phong cách gần gũi, chân thành và đầy cảm xúc để thể hiện khó khăn trong việc xác định tinh thần thơ mới, cũng như khát khao của những người yêu thơ trong việc khám phá tinh thần thơ mới.
Trong quá trình xác định tinh thần thơ mới, tác giả đề xuất một số nguyên tắc quan trọng:
– Tiêu chuẩn đánh giá thơ mới nên được đặt bằng việc so sánh những tác phẩm xuất sắc với nhau, vì chỉ có những tác phẩm tốt mới thể hiện được bản chất của thơ ca đích thực.
– Để có cái nhìn khách quan và toàn diện, ta cần nhìn vào ngữ cảnh rộng hơn thay vì chỉ tập trung vào chi tiết nhỏ nhặt.
– Việc so sánh với thơ cũ là cách tốt để thấy rõ sự khác biệt và từ đó, xác định được bản chất chính của tinh thần thơ mới.
Tác giả đã sử dụng phong cách lập luận logic, dựa trên các ví dụ và giả định, để đưa ra những quan điểm thuyết phục.
Tổng cộng, bằng cách triển khai một dàn ý chặt chẽ và sử dụng lập luận có logic, tác giả đã thể hiện quan điểm khoa học, biện chứng và khách quan của mình về một vấn đề văn học mới mẻ và phức tạp.
b. Tinh thần thơ mới:
Phân tích sự tương phản giữa thơ cổ và thơ hiện đại:
Thơ cổ thường thể hiện chất riêng của người viết, thường được gắn kết với cộng đồng và văn hóa dân tộc thời xưa. Trong khi đó, thơ hiện đại thường tập trung vào cá nhân, thể hiện suy tư sâu xa của tác giả. Tinh thần thơ hiện đại: Tự thể hiện bản thân. Tự thể hiện ở đây mang ý nghĩa tối cao của nó.
Nhận xét:
Thơ cổ thường thể hiện tiếng nói chung của cộng đồng, gắn kết với tầng lớp, cộng đồng và quốc gia. Thơ hiện đại thể hiện giọng điệu của cá nhân, gắn liền với tư duy riêng, văn hóa cá nhân và bản sắc riêng. Sự so sánh, đối chiếu và cái nhìn lịch sử, triết học đóng vai trò quan trọng trong thẩm mỹ nghệ thuật:
– Đặt bản thân vào bối cảnh của cộng đồng.
– Đặt bản thân vào ngữ cảnh thời đại, đối mặt với tâm trạng của người trẻ để phân tích và đánh giá.
=> Do sự ưu ái cho việc thể hiện bản thân, thơ hiện đại mang theo mình nhiều phong cách nghệ thuật độc đáo, tạo nên sự đa dạng của ngôn ngữ thơ trong thời kỳ này.
c. Sự vận động của thơ mới xung quanh cái tôi và bi kịch của nó.
Hành trình thăng trầm của cái tôi thơ mới:
– Ban đầu: Ban đầu, nó tỏ ra mơ hồ và lạc hướng, giống như một thực thể xa lạ trong một môi trường không quen thuộc. Điều này gây ra sự khó chịu và ác cảm.
– Tiến xa hơn: Tuy nhiên, qua thời gian, nét mơ hồ của nó dần tan biến. Nó thiết lập liên kết với vô số cá nhân và trở nên đáng thương trong mắt họ. Trong thực tế, nó có thể đáng tội nghiệp tới mức khó tả.
Khía cạnh bi kịch của cái tôi thơ mới:
– Cái tôi thơ mới gánh chịu sự đáng thương và đáng tội nghiệp do:
Mất đi tính cách kiên định và tự tin như các vị nhà thơ vĩ đại trước đó: Không thể so sánh được với sự hùng dũng của Lí Bạch hay lòng tự trọng không khuất phục của Nguyễn Công Trứ. Thay vào đó, nó thể hiện sự than thở, khổ sở và thất bại. Thiếu sự tin tưởng hoàn toàn vào hiện thực, nỗ lực thoát khỏi hiện thực mà lại vướng vào một tình huống bi kịch: “càng sâu càng cảm thấy lạnh lẽo”.
– Hình ảnh bi kịch này kết nối mạnh mẽ với tình trạng người trẻ thời kỳ đó: Cô đơn, trống rỗng và mong muốn thoát khỏi hiện thực vì họ thiếu sự tin tưởng vào nó, nhưng cuối cùng lại rơi vào vùng bế tắc. (Đây cũng chính là đặc điểm cơ bản của thơ mới). Điều này thể hiện nỗi lòng của những người trẻ mất nước, không có điểm tựa hoặc niềm tin trong cuộc sống.
– Mỗi nhà thơ mang đến một phong cách nghệ thuật riêng, và cái tôi thơ của họ độc đáo, có sức hấp dẫn riêng.
3. Kết bài:
– Khái quát lại vấn đề và nêu cảm nhận cá nhân về bài thơ.