Đồng bằng sông cửu Long là vựa lúa lớn nhất cả nước là do có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển:
Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên:
Là đồng bằng châu thổ lớn nhất nước ta, rộng khoảng 4 triệu ha.
Phần lớn diện tích đồng bằng là đất phù sa được bồi đắp phù sa hằng năm, rất màu mỡ, nhất là dải đất phù sa ngọt dọc sông Tiền và sông Hậu, có diện tích 1,2 triệu ha, rất thích hợp để cây lúa phát triển.
Khí hậu thể hiện rõ tính chất cận xích đạo: tổng số giờ nắng trung bình năm là 2200 – 2700 giờ; chế độ nhiệt cao, ổn định với nhiệt độ trung bình năm 25- 27°C; lượng mưa hằng năm lớn (1.300 – 2.000mm), thích hợp với cây lúa nước.
Mạng lưới sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, lạo điều kiện thuận lợi cho việc cung cấp nước cho sản xuất lúa.
Điều kiện kinh tế – xã hội:
Dân số hơn 74,4 triệu người (năm 2006), nên có lao động dồi dào; người dân cần cù, có kinh nghiệm sản xuất lúa, thích ứng nhanh với sản xuất hàng hoá.
Hệ thống thuỷ lợi khá hoàn chỉnh; giao thông vận tải đường bộ, đường sông thuận lợi.
Mạng lưới cơ sở chế biến và dịch vụ sản xuất lúa rộng khắp.
Thị trường tiêu thụ rộng lớn.
Thuận lợi của tài nguyên đất ở đồng bằng Sông Cửu Long:
Đồng bằng sông Cửu Long có 3 nhóm đất chính (phù sa, phèn, mặn) cùng với một số loại đất khác khiến cho vùng đa dạng về các loại cây trồng khác nhau. Trong đó, diện tích đất phù sa chiếm 1,2 triệu ha là điều kiện thuận lợi để vùng thâm canh cây lúa nước giúp vùng trở thành vựa lúa lớn nhất của cả nước.
Khó khăn về tài nguyên đất đồng bằng Sông Cửu Long:
Nhóm đất mặn và đất phèn của vùng chiếm diện tích lớn.
Một vài loại đất thiếu dinh dưỡng, đặc biệt là các nguyên tố vi lượng hoặc đất quá chặt, khó thoát nước.
- Các tỉnh : Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Kiên Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng, Đồng Tháp, Cà Mau, An Giang
- Thành phố : Cần Thơ.
* Sự phát triển tổng hợp kinh tế biển có thể làm thay đổi mạnh mẽ bộ mặt kinh tế của vùng:
- Hoạt động khai thác dầu khí ở thềm lục địa phía Nam cùng với công nghiệp lọc, hóa dầu sẽ mang lại sự phát triển mạnh mẽ nền kinh tế của vùng. Đây được xem là ngành mũi nhọn của cả nước cũng như đối với Đông Nam Bộ, trong quá trình phát triển cần chú ý giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường.
- Phát triển GTVT biển với cụm cảng Sài Gòn, Vũng Tàu…thúc đẩy hoạt động giao lưu, mở rộng phát triển kinh tế với bên ngoài, tăng cường thu hút đầu tư.
- Phát triển du lịch biển, mang lại nguôn thu ngoại tệ lớn.
- Đẩy mạnh hoạt động đánh bắt nuôi trồng thủy sản để khai thác hiệu quả thế mạnh nguồn lợi thủy sản, kết hợp phát triển công nghiệp chế biến để nâng cao giá trị sản phẩm.
* Một số phương hướng khai thác tổng hợp tài nguyên biển và thềm lục địa.
- Đẩy mạnh khai thác và chế bến dầu khí, xây dựng các trung tâm lọc dầu. Phát triển cụm khí – điện – đạm Phú Mỹ.
- Tăng cường đánh bắt xa bờ, nuôi trồng thủy sản ven bờ.
- Phát triển các hoạt động du lịch biển, nhất là ở Bà Rịa – Vũng Tàu.
- Đẩy mạnh phát triển các cụm cảng nước sâu: cụm cảng Sài Gòn, Vũng Tàu.
- Chú ý vấn đề môi trường trong khai thác phát triển tổng hợp kinh tế biển của vùng.
Việc xây dựng các công trình thủy lợi có ý nghĩa hàng đầu trong việc sử dụng hợp lí tài nguyên nông nghiệp của vùng:
- Đông Nam Bộ có một mùa khô kéo dài và sâu sắc, lại có các vùng thấp dọc sông Đồng Nai và sông La Ngà bị ngập úng trong mùa mưa. Do vậy, vấn đề thủy lợi ở đây có ý nghĩa hàng đầu.
- Dự án thủy lợi Phước Hòa (Bình Dương – Bình Phước) được thực hiện sẽ giúp chia một phần nước của sông Bé cho sông Sài Gòn, cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt.
Từ đó góp phần tăng diện tích đất trồng trọt, tăng hệ số sử dụng đất trồng hằng năm và khả năng đảm bảo lương thực, thực phẩm của vùng cũng khá hơn.
Một số phương hướng chính để khai thác lãnh thổ theo chiều sâu trong công nghiệp của vùng:
- Trong công nghiệp:
+ Tăng cường phát triển công nghiệp năng lượng, đáp ứng nguồn điện và nhu cầu sản xuất công nghiệp của vùng.
+ Chính sách mở cửa, thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
+ Chú trọng phát triển các ngành công nghiệp trọng điểm.
+ Chú trọng bảo vệ môi trường, tránh làm tổn hại đến tài nguyên du lịch – tiềm năng của vùng.
Vị trí địa lý: Giáp với đồng sông Cửu Long, Tây Nguyên là những vùng nguyên liệu dồi dào để phát triển công nghiệp chế biến.
Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên:
Đất đai: đất badan chiếm 40% diện tích của vùng, đất xám bạc bạc màu trên phù sa cổ, thoát nước tốt.
Khí hậu: cận xích đạo => hình thành các vùng chuyên canh cây công nghiệp, cây ăn quả cận nhiệt đới qui mô lớn.
Thủy sản: gần các ngư trường lớn, nguồn hải sản phong phú => phát triển ngư nghiệp.
Rừng ngập mặn để nuôi trồng thủy sản nước lợ. Có vườn quốc gia Cát Tiên, khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ.
Khoáng sản: dầu khí với trữ lượng lớn, sét, cao lanh => thúc đẩy ngành công nghiệp năng lượng, vật liệu xây dựng.
Sông ngòi : hệ thống sông Đồng Nai có tiềm năng thủy điện lớn.
Kinh tế – xã hội:
Nguồn lao động: có chuyên môn cao
Cơ sở vật chất kĩ thuật: có sự tích tụ lớn, có nhiều trung tâm công nghiệp lớn.
Cơ sơ hạ tầng: thông tin liên lạc và mạng lưới giao thông phát triển, là đầu mối của các tuyến đường bộ, sắt, biển, hàng không.
Tuy nhiên, bên cạnh những điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế thì vùng cũng gặp một số khó khăn như:
Mùa khô kéo dài có khi tới 4 tháng gây ra tình trạng thiếu nước ngọt để sinh hoạt và sản xuất.
Vùng có khá ít về chủng loại khoáng sản và các nguồn nguyên nhiên liệu, chủ yếu phải nhập từ các vùng khác…
Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng đối với sự phát triển công nghiệp theo chiều sâu ở Đông Nam Bộ:
- Tăng nguồn vốn đầu tư vào các ngành sản xuất là thế mạnh của vùng, từ đó được đầu tư cơ sở vật chất kĩ thuật, cơ sở hạ tầng hiện đại nhất.
- Đổi mới trang thiết bị và công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh, đồng thời hạn chế ô nhiễm môi trường,...
- Mở rộng sản xuất, giải quyết việc làm cho người dân.
- Thúc đẩy các ngành sản xuất khác phát triển.
Những nhân tố giúp Đông Nam Bộ tiếp tục giữ vị trí dẫn đầu trong phân công lao động giữa các vùng trong nước:
- Là vùng có nền kinh tế phát triển năng động nhất cả nước, thu hút lao động dồi dào, đặc biệt là lao động trẻ.
- Có thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế, văn hóa của cả nước, tập trung nhiều trường đại học, cao đẳng…nên nguồn lao động phần lớn có trình độ chuyên môn cao, từ công nhân lành nghề đến các bác sĩ, nhà khoa học, kinh doanh…
- Là vùng thu hút đầu tư về khoa học kĩ thuật ở trong nước và quốc tế, được ứng dụng nhiều thành tựu khoa học tiên tiến nhất.
- Có cơ sở hạ tầng phát triển tốt, đặc biệt về giao thông vận tải và thông tin liên lạc.
- Đời sống người dân khá cao, các ngành dịch vụ phát triển mạnh mẽ.
Tài nguyên nước của các hệ thống sông Xê Xan, Xrê Pôk, Đổng Nai... đang được sử dụng ngày càng có hiệu quả hơn. Hàng loạt Công trình, thuỷ điện lớn đã và đang được xây dựng.
Công trình thuỷ điện Y-a-ly (720MW) trên sông Xê Xan được khánh thành vào tháng 4 năm 2002. Bốn nhà máy thuỷ điện khác được xây dựng ngay những năm sau đó là Xê Xan 3, Xê Xan 3A, Xê Xan 4 (ở phía hạ lưu của thuỷ điện Yaly) và Plây Krông (thượng lưu của Y-a-ly).
Trên dòng sông Xrê Pôk, 6 bậc thang thuỷ điện đã được quy hoạch, vói tổng công suất lắp máy trên 600MW, trong đó lớn nhất là thuỷ điện Buôn Kuôp (280MW) khởi công tháng 12 năm 2003; thuỷ điện Buôn Tua Srah (85MW), khởi công vào cuối năm 2004; thuỷ điện Xrê Pôk 3 (137MW), thuỷ điện Xrê Pôk 4 (33MW), thuỷ điện Đức Xuyên (58MW). Thuỷ điện Đrây Hơ-linh đã được mở rộng lên 28MW.
Trên hệ thống sông Đồng Nai, trước đây có công trình thuỷ điện Đa Nhim (160MW). Hiện nay, các công trình Đại Ninh (300MW), Đổng Nai 3 (180MW), Đồng Nai 4 (340MW) đang được xây dựng.
Các công trình thuỷ điện tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp của vùng phát triển, trong đó có khai thác và chế biến bột nhôm từ nguồn bôxit (cần rất nhiều điện). Đồng thời„ các hổ thuỷ điện đem lại nguồn nước tưới quan trọng trong mùa khô và có thể khai thác cho mục đích du lịch, nuôi trồng thuỷ sản.
Khai thác tài nguyên rừng ở Tây Nguyên, cần hết sức chú trọng khai thác đi đôi với tu bổ và báo vệ vốn rừng vì các lí do sau:
* Vai trò quan trọng của tài nguyên rừng ở Tây Nguyên:
- Tây Nguyên là “kho vàng xanh” của cả nước: chiếm tới 36% diện tích đất có rừng và 52% sản lượng gỗ có thể khai thác của cả nước. Trong rừng có nhiều gỗ quý (cẩm lai, gụ mật, nghiến, trắc, sến), nhiều chim, thú quý (voi, bò tót, gấu...).
- Có giá trị lớn đối với môi trường - sinh thái:
+ Tây Nguyên là vùng thượng nguồn phía Tây của các con sông chảy về vùng duyên hải Nam Trung Bộ nước ta. Việc bảo vệ rừng khu vực đầu nguồn có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc điều tiết nguồn nước vào mùa mưa, hạn chế lũ lụt, sạt lở đất ảnh hưởng đến vùng cũng như các tỉnh duyên hải miền Trung ở phía Đông.
+ Tây Nguyên có khí hậu phân hóa mùa khô sâu sắc và kéo dài, rừng góp phần điều hòa khí hậu, giữ nguồn nước ngầm, hạn chế thiếu nước vào mùa khô.
* Tài nguyên rừng của vùng đang bị suy giảm:
+ Sản lượng gỗ khai thác hằng năm không ngừng giảm, từ 600 - 700 nghìn m3 vào cuối thập kỉ 80, nay chỉ còn khoảng 200 - 300 nghìn m3/năm.
+ Nguyên nhân: cháy rừng; nạn phá rừng gia tăng.
+ Hậu quả: làm giảm sút nhanh lớp phủ rừng và giảm sút trữ lượng các loại gỗ quý, đe dọa môi trường sống của các loài chim, thú quý, làm hạ mực nước ngầm về mùa khô.
=> Trong khai thác tài nguyên rừng ở Tây Nguyên, cần hết sức chú trọng khai thác đi đôi với tu bổ và báo vệ vốn rừng.