Phân tích Nỗi sầu oán của người cung nữ trích Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều
Phân tích đoạn trích Nỗi sầu oán của người cung nữ
Nỗi oán sầu của người cung nữ được tác giả thể hiện như thế nào qua đoạn trích Cung oán ngâm? VnDoc.com gửi tới bạn đọc bài viết văn mẫu: Phân tích Nỗi sầu oán của người cung nữ trích Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều dưới đây được VnDoc sưu tầm và giới thiệu nhằm giúp các em học sinh và phụ huynh tham khảo các bài Ngữ văn 10 nhằm củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo chi tiết và tải về tại đây.
I. Dàn ý chi tiết phân tích đoạn trích Nỗi sầu oán của người cung nữ
1. Mở bài:
- Trong chế độ phong kiến ngày xưa, các bậc vua chúa phương Đống thường tự đặt ra cho minh cái quyển được đa thô; ngoài hoàng hậu, cung phi ra cỏn có: Ba tràm mĩ nữ, sáu mươi cung tần...
- Vì vậy, rất nhiều phụ nữ trẻ đẹp phải âm thầm chịu đựng tình cảnh bị bỏ rơi, bị lãng quên trong cung cấm. Số phận bất hạnh của họ đã khiến cho văn nhân thi sĩ cảm thương mà viết ra một số tác phẩm, trong đõ Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều là tiêu biểu nhất.
- Đoạn trích Nỗi sầu oán của người cung nữ (từ câu 209 đến câu 244) diễn tả tâm trạng đau khổ của người cung nữ bị thất sủng ; phải sống cô đơn giữa bốn bức tường lạnh giá. Nàng xót xa cho tuổi thanh xuân trôi qua hoài phí và uất ức than thở về những bất công mà mình phải chịu đựng. Đấy là tiếng nói tố cáo sầu sác tội ác của vua chúa phong kiến thời ấy.
2. Thân bài:
Kết cấu đoạn trích gồm hai đoạn nhỏ:
Đoạn 1: Bốn khổ thơ đầu: cảnh cung cấm xa hoa tráng lệ đối lập với tinh cảnh lẻ loi, buồn tủi của cung nữ bị bỏ rơi, bị lãng quên.
- Đoạn 2: Năm khổ thơ còn lại: cảnh sống đày đọa kéo dài của người cung nữ với nỗi thất vọng nặng nể trong cảnh ngày đêm ngóng trông, chờ đợi nhà vua.
* Nội dung đoạn trích:
+ Cảnh cung cấm xa hoa, đạp đẽ đổi lập với tinh cảnh lẻ loi, buồn tủi đáng thương.
- Tác giả chọn thời điểm là ban đồm để nhân vật dễ dàng bộc lộ tâm trạng. Bị nhà vua bỏ rơi trong cung quế, người cung nữ suốt năm canh đứng tủi ngồi sáu, khắc khoải chờ mong và tuyệt vọng:
Trong cung quế âm thẩm chiếc bóng,
Đêm năm canh trông ngóng lán lán.
- Trong tinh cảnh đó, người cung nữ ý thức rất rõ vé thân phận bất hạnh của mình. Nàng đã bị giết chết khổng phải bằng gươm đao mà bằng chinh cuộc sống buồn bã và tuyệt vọng, bởi cảnh chiếu chăn lẻ loi, lạnh lẽo... Qua lời than trách của nàng, hình ảnh nhà vua hiện lên đúng lả một kẻ bạc tinh: Khoảnh làm chi bấy chúa xuân, Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi... Người cung nữ bổi hổi, nuối tiếc khi nhớ lại những ngày đầu được vua sủng ái. Còn giờ đây, nàng đã thực sự bị quên lãng.
- Sự tương phản giữa khung cảnh xa hoa tráng lệ nơi cung vàng điện ngọc với cuộc sống bất hạnh của các cung nữ càng làm cho hình ảnh của họ trở nên nhỏ bé đến tội nghiệp:
Lầu đãi nguyệt / đứng ngồi dạ vũ,
Gác thừa lương thúc / ngủ thu phong.
Phòng tiêu / lạnh ngắt như đồng,
Gương loan / bẻ nửa, dải đổng / xẻ đôi...
- Những tiện nghi đầy đủ, đẹp trở nên trớ trêu. vô nghĩa khi ngươi cung nữ thêm sầu thêm tủi.
- Những câu thơ tiếp theo miêu tả cuộc đày ải. kéo dài trọng cung cấm. Người cung nữ mong mòi sự có mặt của nhà vua đến mức gần như tuyệt vọng: Chiều ủ dột giấc mai khuya sớm... Lầu Tẩn, chiểu nhạt vẻ thu, Gối loan tuyết đóng, chăn củ giá đông...
+ Cảnh sóng buồn tủi kéo dài và nỗi thất vọng nặng nể.
- Nỗi sáu có lúc lên tới điểm đỉnh, biến tâm trạng người cung nữ thành u uất, nặng nề, bức bối gần phu ngạt thở: Lạnh lùng thay giấc cô-miên, Mùi hương tịch mịch bóng đòn ăm u...
Nỗi cô đơn khiến giấc ngủ của nàng trở nên lạnh lẽo, đáng thương. Hương đót lên cho tiêu phòng ấm áp, thơm tho nhưng lại gợi cảm giác vắng, lặng, tịch mịch như một nấm mổ chôn vùi tuổi thanh xuân...
- Đôm đêm, người cung nữ chỉ biết âm thầm sống với cái bóng của mình: Một mình đứng tủi ngồi sáu, Hết than với bóng lại rầu với hoa... Cả đoạn thơ khắc hoạ nổi bật hình dáng và tâm trạng cô độc, buồn tủi đến đớn đau, khắc khoải tức tối của người cung nữ trổ đạp mà bị coi như đã chết.
- Trong nỗi buồn dai dẳng ấy chứa đựng cả sự uất ức, trách hờn, đay nghiến:
Buồn mọi nỗi lòng đà khắc khoải,
Ngán trảm chiều bước lại ngẩn ngơ.
Hoa này bướm nỡ thờ ơ,
Dể gầy bông thắm để xơ nhụy vàng...
Hai câu thơ: Giết nhau chẳng cái lưu cầu, Giết nhau bằng cái u sấu, độc chưa! giống như tiếng nghiến ràng căm giận, lên án chế độ đa thô và tục tuyển cung tần mĩ nữ của vua chúa thời phong kiến, bởi nó chà đạp, tước đoạt quyển sống tự do, quyển được hưởng hạnh phúc của người phụ nữ.
- Sức sống dồi dào và khát vọng hạnh phúc càng mãnh liệt bao nhiêu thì nỗi oán hận càng chất ngất bấy nhiêu trong lòng người cung nữ. Tưởng chừng như tất cả sắp bùng nổ thành hành động phản kháng dữ dội:
Tay nguyệt lảo chẳng xe thì chớ,
Xe thổ này có dở dang không?
Dang tay muốn dứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra
- Chất trữ tinh trong đoạn trích được tạo ra từ hai cảm xúc trái ngược: cảm xúc buồn chán nặng nể đo bi giam hãm lâu ngày trong cảnh tù túng, ngạt thở với cảm xúc khát khao cháy bỏng hạnh phúc đời thường. Người cung nữ như đang cố vùng vẫy để thoát khỏi bi kịch của số phận nhưng nó như sợi dây oan nghiệt cứ thắt chặt lấy nồng.
3. Kết bài:
Bằng ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật tài tinh, sắc sảo, kết hợp vơi khả năng sử dụng từ ngữ chuẩn xác, phong phú, tác giả đã thể hiện thành công tâm trạng phức tạp của người cung nữ.
Sự đổng cảm chân thành của nhà thơ đã tạo nôn giọng điệu réo rắt, đầy sáu khổ oán hờn trong đoạn trích nói riêng và cả tác phẩm nói chung.
- Nỗi sầu oán của người cung nữ đã cất lên tiếng nói tố cáo chế độ đa thô và tục tuyển cung tẩn mĩ nữ tàn bạo của vua chúa; đổng thời cũng phản ánh tấm lòng nhản đạo của tác giả trước những-số phận bất hạnh. Đoạn trích là tiếng nói thiết tha dòi quyền sống, quyển được hưởng hạnh phúc của phụ nữ trong chế độ phang kiến xưa kia.
II. Phân tích Nỗi sầu oán của người cung nữ
Phân tích đoạn trích Nỗi sầu oán của người cung nữ mẫu 1
Tục tuyển cung nữ là thực trạng tội ác của vua chúa phong kiến kéo dài hàng nghìn năm. Ngày xưa, các bậc vua chúa tự đặt ra quyền được có: Ba trăm mỹ nữ, sáu mươi cung tần phục vụ. Hàng trăm thiếu nữ trẻ đẹp được tuyển vào cung. Người trúng tuyển phải ở “tiêu phòng” cho đến già, đoạn tuyệt với gia đình, làng xóm, không được liên lạc với mọi sinh hoạt của xã hội bên ngoài.
Số phận bất hạnh của những người cung nữ đã làm động lòng nhiều nhà văn, nhà thơ nhất là dưới thời vua Lê, chúa Trịnh. Có một số tác phẩm viết về họ nhưng không tác phẩm nào có được tiếng nói tố cáo sâu sắc như Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều.
Cung oán ngâm là khúc ca ai oán, uất hận của người cung nữ tài sắc lúc đầu được vua yêu chuộng, nhưng chẳng bao lâu đã bị bỏ rơi giữa tuổi thanh xuân. Nỗi hờn tủi cứ theo ngày tháng mà dâng lên tràn ngập tâm hồn, giày vò, day dứt nàng khôn nguôi, ở trong cung cấm, nàng xót thương cho thân phận mình và oán trách nhà vua phụ bạc. Qua khúc ngâm, tác giả phản ánh tâm trạng đau khổ của người cung nữ phải sống trong cảnh đợi chờ đến tuyệt vọng; đồng thời thể hiện quan niệm của mình trước cuộc đời bạc bẽo, phù du.
Đoạn trích gồm 36 câu (từ câu 209 đến câu 244), diễn tả tâm trạng đau khổ của người cung nữ bị thất sủng. Nàng sống cô đơn giữa bốn bức tường lạnh giá, xót xa cho tuổi xuân trôi qua hoài phí và uất ức than thở về những bất công dành cho thân phận mình.
Có thể chia đoạn trích làm hai đoạn nhỏ:
Đoạn 1. Bốn khổ thơ đầu: cảnh cung cấm xa hoa tráng lệ và cuộc sống lẻ loi, buồn tủi của người cung nữ bị thất sủng.
Đoạn 2. Năm khổ thơ tiếp theo: Cảnh sống đày đọa kéo dài với nỗi thất vọng nặng nề mà cung nữ phải gánh chịu.
Mở đầu đoạn trích, hình ảnh cô đơn của người cung nữ hiện lên rất rõ nét: Trong cung quế âm thầm chiếc bóng Đêm năm canh trông ngóng lần lần.
Sự đối lập giữa khung cảnh xa hoa, tráng lệ với cuộc sống tối tăm u uất nơi cung cấm làm nổi bật bóng dáng nhỏ bé đến tội nghiệp. Nhà thơ đã chọn thời gian ban đêm để nhân vật trữ tình dễ dàng bộc lộ tâm sự của mình. Bị nhà vua bỏ rơi trong tòa nhà lộng lẫy, mênh mông, người cung nữ suốt năm canh đứng tủi ngồi sầu, khắc khoải trông ngóng lần lần và chờ mong vô vọng.
Trong tình cảnh ấy, nàng ý thức rất rõ về thân phận mình và nhận biết rất rõ kẻ đã gây ra tai họa khủng khiếp cho đời mình. Nàng là người đã bị giết chết không phải bằng gươm sắc mà bằng cách Kéo dài cuộc sống buồn bã không lối thoát trong cảnh chăn gối lẻ loi, lạnh lẽo.
Qua lời thở than oán trách của người cung nữ, hình ảnh nhà vua hiện lên đúng với bộ mặt của kẻ bạc tình:
Khoảnh làm chi bấy chúa xuân!
Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi.
Khoảnh có nghĩa là chơi khăm, chơi ác. Nỗi cô đơn giày vò, giằng xé tâm hồn người cung nữ, khiến nàng phải cất lên lời oán trách gay gắt. Nàng nhớ lại những ngày được vua sủng ái, còn giờ đây, nàng như bị nhấn chìm trong sự hờ hững, lãng quên.
Ở những khổ thơ tiếp theo, tác giả miêu tả khung cảnh xa hoa tráng lệ nơi cung cấm, đối lập với nỗi cô đơn lẻ loi của người cung nữ:
Lầu đãi nguyệt / đứng ngồi dạ vũ,
Gác thừa lương / thức ngủ thu phong.
Phòng tiêu / lạnh ngắt như đông,
Gương loan / bẻ nửa, dải đồng / xé đôi.
Nơi nàng sống thật đẹp đẽ và đầy đủ tiện nghi, nhưng tất cả đều trở nên vô nghĩa, trớ trêu, chí gợi thêm nỗi sầu, nỗi thảm trong lòng nàng mà thôi.
Tiếp theo là những câu thơ miêu tả nỗi thất vọng nặng nề của người cung nữ, là lời thở than và đúng hơn là tiếng kêu đứt ruột. Dù buồn bã hay oán trách, không một cảm xúc nào của nàng ở mức độ trung bình, vừa phải mà tất cả đều gay gắt, mãnh liệt:
Chiều ủ dột giấc mai khuya sớm,
Vẻ bâng khuâng hồn bướm vẩn vơ.
Thâm khuê vắng ngắt như tờ,
Cửa châu gió lọt, rèm ngà sương gieo.
Ngấn phượng liễn chòm rêu lỗ chỗ,
Dấu dương xa đám cỏ quanh co.
Lầu Tần, chiều nhạt vẻ thu,
Gối loan tuyết đóng, chăn cù giá đông.
Năm khổ thơ tiếp theo miêu tả cuộc đày ải kéo dài với những thất vọng nặng nề trong cảnh ngày ngóng đêm trông, đau đáu chờ đợi nhà vua của người cung nữ. Nỗi sầu có lúc lên đến đỉnh điểm, biến thành tâm trạng u uất, bức bối tưởng như nghẹt thở:
Lạnh lùng thay giấc cô miên,
Mùi hương tịch mịch, bóng đèn thâm u.
Giấc ngủ cô đơn lạnh lùng đáng thương biết mấy! Nén hương đốt lên để cho không khí trong tiêu phòng ấm áp, thơm tho nhưng chỉ đem lại cho người cung nữ cảm giác vắng lặng, tịch mịch đáng sợ. Bóng đèn thắp lên cốt để ánh sáng xua đỡ bóng đêm nhưng chí gây cho nàng cảm giác âm u, tăm tối. Cảm giác tịch mịch, thâm u không phải được tạo ra bởi mùi hương hay bóng đèn, mà chính là từ nỗi buồn chán, tuyệt vọng của người cung nữ.
Đêm nào nàng cũng chỉ sống với cái bóng của mình:
Tranh biếm ngắm trong đồ tố nữ,
Mặt buồn trông trên cửa nghiêm lâu.
Một mình đứng tủi ngồi sầu,
Đã than với nguyệt lại rầu với hoa!
Đoạn thơ cứ nhắc đi nhắc lại cái hình dáng cô độc, buồn tủi đáng thương của người cung nữ. Nỗi đau đớn, khắc khoải khiến nàng mệt mỏi, rã rời cả thân xác lẫn tâm hồn.
Trong nỗi buồn dai dẳng ấy chứa đựng sự quằn quại, tức tối:
Buồn mọi nỗi lòng đã khắc khoải,
Ngán trăm chiều, bước lại ngẩn ngơ.
Hoa này bướm nỡ thờ ơ,
Để gầy bông thắm, để xơ nhụy vàng.
Lời oán trách không nhẹ nhàng như của người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm:
Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ?
Mà đay nghiến, uất ức, hằn học:
Giết nhau chẳng cái Lưu cầu,
Giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa!
Cay đắng trước sự thật phũ phàng, người cung nữ đã phải buông lời chì chiết: Giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa!Câu thơ vừa như một tiếng nghiến răng căm giận, vừa là lời tố cáo đanh thép sự tàn ác của chế độ đa thê, chế độ cung tần mỹ nữ tàn bạo thời phong kiến bởi nó đã cướp đi quyền sống tự do, cướp đi hạnh phúc của bao nhiêu cô gái trẻ đẹp. Chúng không giết những người cung nữ bằng dao, bằng kiếm mà bằng cách để cho nỗi cô đơn hủy hoại tâm hồn và cuộc sống của họ. Người xưa dùng câu giết người không dao để chỉ những hành động giết người tinh vi nhất, tàn bạo nhất.
Chính những thú ăn chơi trác táng cùng thói vô tình đến tàn nhẫn của vua chúa phong kiến đã đẩy hàng ngàn người cung nữ tội nghiệp vào bi kịch “dở sống, dở chết” đó.
Người phụ nữ trong xã hội xưa thường ít khi trực tiếp thể hiện tâm sự, nhưng nỗi đau xót và sự tủi hờn cao độ đã khiến người cung nữ phải thốt ra tâm sự sâu kín nhất, kể cả ý muốn bứt phá để thoát khỏi cảnh sống giam hãm, đọa đày. Đang tuổi thanh xuân tràn đầy sức sống mà phải chờ đợi mỏi mòn trong tuyệt vọng nên người cung nữ uất ức cất lời than thở, oán trách. Từ lòng xót thương thực sự, tác giả đã đồng cảm và sẻ chia tâm sự đau đớn ấy. Sức sống dồi dào, khát khao hạnh phúc càng mãnh liệt bao nhiêu thì nỗi giận hờn và uất hận càng ngút cao bấy nhiêu trong lòng người cung nữ:
Tay nguyệt lão chẳng xe thì chớ!
Xe thế này có dở dang không?
Dang tay muốn đứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra!
Chất trữ tình trong đoạn trích được tạo nên từ hai cảm xúc trái ngược nhau. Một là cảm xúc buồn chán nặng nề do bị sống lâu ngày trong cảnh tù túng, ngạt thở; hai là cảm xúc khao khát hạnh phúc đời thường không nguôi thôi thúc, ám ảnh. Nỗi chán nản đến mức tuyệt vọng và nỗi khao khát cháy bỏng cộng hưởng tạo thành những làn sóng trữ tình dào dạt.
Người cung nữ dường như đang cố vẫy vùng để thoát khỏi nỗi cô đơn, nhưng nàng càng cố gắng thì càng tuyệt vọng. Sợi dây oan nghiệt đã thắt chặt lấy thân phận của người cung nữ như một thứ định mệnh khó bề thoát nổi.
Bằng ngòi bút miêu tả tâm lí sắc sảo, điêu luyện kết hợp với cách lựa chọn từ ngữ giàu khả năng gợi tả, gợi cảm, tác giả đã thể hiện thành công tâm trạng phức tạp của người cung nữ. Sự đồng cảm chân thành của nhà thơ đã tạo nên giọng điệu réo rắt, sầu khổ oán hờn của đoạn trích nói riêng và cả tác phẩm Cung oán ngâm nói chung.
Nỗi sầu oán của người cung nữ đã cất lên tiếng nói tố cáo chế độ đa thê, chế độ cung tần mỹ nữ tàn bạo của các vua chúa thời phong kiến. Đồng thời, đoạn trích cũng thể hiện tấm lòng nhân đạo cao cả của tác giả, người đã thấu hiểu và đồng cảm sâu sắc với số phận oan nghiệt của những cô gái đầy khát vọng sống nhưng không may bị biến thành trò mua vui cho vua chúa và bất cứ lúc nào cũng có nguy cơ bị vứt bỏ, bị lãng quên trong cung cấm thâm u. Đoạn trích là tiếng nói tha thiết đòi quyền sống, đòi quyền được hạnh phúc của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến ngày xưa.
Phân tích đoạn trích Nỗi sầu oán của người cung nữ mẫu 2
Tự bào giờ đến bây giờ, thơ ca vẫn luôn có sức đồng cảm mãnh liệt, là niềm an ủi cho con người trong mọi hoàn cảnh. Từ ca dao - dân ca của dân gian tiếng lòng của người bình dân như lúa lâu ngày chịu hạn nay gặp mưa rào, văn học trung đại phát triển phong phú và toàn diện để đáp ứng nhu cầu giãi bày của con người. Trong đó có sự xuất hiện của thể loại ngâm với thơ song thất lục bát. Một trong những khúc ngâm được biết đến nhiều nhất chính là “Cung oán ngâm” của Ngyễn Gia Thiều. Đoạn trích “Nỗi sầu oán của người cung nữ” là một trong những trích đoạn tiêu biểu.
Tác phẩm “Cung oán ngâm” ra đời vào cuối thế kỉ XIX, khi xã hội Việt Nam đang đi vào suy thoái với lối sống hưởng thụ, ăn chơi xa đọa của vua chúa và sự lầm than của sinh linh trong nhân gian. Những số phận bất hạnh không chỉ có người nông dân mà còn có những cung nữ. Chế độ cung nữ là sản phẩm tội ác của vua chúa hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến. Vua chúa tự đặt ra quyền tuyển hàng trăm, hàng ngàn thiếu nữ vào cung. Tuổi xuân của người con gái, hạnh phúc của cả một đời người khi vào cung bỗng hóa phù du, mong manh, khó nắm bắt. Cất lên từ thể thơ song thất lục bát, Nguyễn Gia Thiều đã nói hộ nỗi niềm của bao người phụ nữ bất hạnh ấy.
Đầu tiên là những câu thơ về tình cảnh lẻ loi, buồn tủi của người cung nữ được vẽ đối lập với cuộc sống xa hoa, tráng lệ nơi cung cấm.
“Trong cung quế âm thầm chiếc bóng,
Đêm năm canh trông ngóng lần lần.
Khoảnh làm chi bấy chúa xuân,
Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi.
Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ vũ,
Gác thừa lương thức ngủ thu phong.
Phòng tiêu lạnh ngắt như đồng,
Gương loan bẻ nửa, dải đồng xé đôi.”
Không gian sống của họ là “cung quế” cách biệt với thế giới bên ngoài, thời gian: đêm khuya. Đây là khoảng thời gian để nhân vật xuất hiện, nhắc người cung nữ nhớ về những gì đã có, cả những ám ảnh về niềm hi vọng, đợi chờ rồi sự thất vọng trong tình cảnh đơn chiếc. Hình ảnh người phụ nữ hiện lên với “âm thầm chiếc bóng”- cô đơn lặng lẽ, với “trông ngóng lần lần” chờ đợi một cái gì xa xôi, biết là xa vời nhưng vẫn không thôi ngóng đợi. Câu thơ đã cụ thể hóa sự ngóng đợi hết đêm này đến đêm khác, không dứt. Để rồi, một lúc nàng cũng phải cất lời oán trách “Khoảnh làm chi bấy chúa xuân”. Lời thơ đọc lên có âm điệu đay nghiến, hơn hết là xót xa của nhân vật trữ tình trong tình cảnh thê thảm của mình. Cuộc sống của họ được tận hưởng những vật chất sang trọng, sa hoa: “đãi nguyệt, gác thừa lương, gương loan,…”. Đặt các từ Hán Việt sang trọng trên với những từ nôm na: “đứng ngồi, thức ngủ, bẻ nửa, xé đôi” như làm nổi bật sự đối lập giữa cuộc sống lộng lẫy, đủ đầy với sự lạnh lẽo, tồi tàn, buốt giá trong tâm hồn con người. Người cung nữ vò võ một mình chỉ biết làm bạn với gió trăng.
Và những dòng sau là tâm trạng của người chinh phụ. Nỗi niềm hiện lên trực tiếp qua những từ “ủ dột, bâng khuâng, buồn bã, ủ ê” và gián tiếp qua những điển cố “hồn bướm, giấc mai”. Đó là trạng thái vơ vẩn, ngẩn ngơ, mơ màng vì những tàn phá của nỗi đau tinh thần. Đặc biệt là phép tiểu đối: “ngấn phượng liễu”- ‘dấu dương xa” gợi về quá khứ đầm ấm, hạnh phúc mà người cung nữ từng được yêu chiều, sủng ái- nay chỉ còn trong mộng tưởng, vừa nhớ mà vừa đau; “Chòm rêu lỗ chỗ - đám cỏ quanh co”: Dấu hiệu của hạnh phúc đã bị rêu phong phủ lối- thực tại phũ phàng mà người cung nữ đã bị bỏ quên. Hình ảnh ước lệ xen với tượng trưng: “gối loan tuyết đóng, chăn cù giá đông”: gối hạnh phúc có cảnh tuyết đóng, chăn đắp cho ấm mà vẫn giá băng. Bởi cái lạnh dấy lên từ tận đáy lòng, cô đơn dù chăn ấm nệm êm thì vẫn không thể hạnh phúc. Tâm trạng con người diễn biến theo chiều bi kịch, càng lúc càng nặng nề. Giọng văn réo rắt phù hợp với nỗi oán hờn.
Dòng tâm trạng của người cung nữ tiếp tục trong nỗi buồn tủi, nỗi oán trông chờ đợi. Cũng là lời than oán nhưng khác với người chinh phụ, giọng của người cung nữ mới thật gay gắt và quyết liệt. Mỗi khổ thơ diễn tả những nỗi buồn tủi khác nhau:
“Ngày sáu khắc tin mong nhạn vắng,
Đêm năm canh tiếng lắng chuông rền.
Lạnh lùng thay giấc cô miên,
Mùi hương tịch mịch, bóng đèn thâm u.”
“Ngày sáu khắc, đêm năm canh” như muốn nhấn mạnh lại mực độ chờ đợi, khắc khoải. Mong tin nhắn mà vắng, ngóng tiếng xa mà chỉ có tiếng chuông chùa - nghịch cảnh nhức nhối tâm can, khắc sâu thêm nỗi cô đơn, rợn ngợp. Đèn đốt lên cho sáng mà lại càng cô đơn, hương thắp lên cho ấm mà càng âm u. Cái u ám, lạnh lẽo trong lòng lan ra cả cảnh vật. Rồi những từ ngữ tiếp: “biếng, tủi, sầu,...” biểu hiện tâm trạng chán chường, buồn tủi, nhấn mạnh thực tế phũ phàng: trăng trong, tranh đẹp - tất cả đều vô nghĩa trong chờ đợi vô vọng. Buồn, khắc khoải, ngẩn ngơ là hành trình phát triển của tâm trạng theo chiều tiêu cực, băn khoăn, thao thức đến mất hết ý chí, tinh thần. Bên cạnh lời than trách còn có nỗi lo âu: “Hoa này bướm nỡ thờ ơ/Để gầy bông thắm để xơ nhụy vàng”- lo một ngày nhan sắc tàn phai, hi vọng trở lại với hạnh phúc không còn nữa. Ba khổ thơ khắc họa đầy tinh tế sự thất vọng nặng nề, cô đơn sầu tủi và sầu oán gay gắt trong cảnh chờ đợi. Nỗi oán giận từ tâm trí phát ra phản ứng quyết liệt:
“Đêm năm canh lần nương vách quế,
Cái buồn này ai dễ giết nhau.
Giết nhau chẳng cái lưu cầu,
Giết nhau bằng cái u sầu độc chưa !
Tay nguyệt lão chẳng xe thì chớ,
Xe thế này có dở dang không ?
Đang tay muốn dứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra !”
Thời gian nghệ thuật lặp lại: “Đêm năm canh...” cảm giác giằng giặc không thể kết thúc. Điệp ngữ “giết nhau” gây ấn tượng mạnh về sự tàn bạo, độc ác. Người ta giết nhau bằng dao kiếm tưởng như đã là tận cùng của nỗi đau nhưng vẫn chỉ là thuần túy về thể xác. Giết nhau bằng nỗi u sầu, tự đày đọa trong cảnh chăn đơn gối chiếc khiến người ta chết dần chết mòn - đó mới là sự tàn phá kinh hoàng, là nỗi đau không thể hàn gắn. Câu thơ như lời trách móc nhẹ nhàng mà hằn học, khiến lời thơ đọc lên mà nhức nhối tâm can. “Độc chưa” là lời than hay là câu hỏi? Câu hỏi tu từ “Xe thế này có dở dang không?” như lời trách, bực mình, phẫn nộ - tâm lí của người bị đẩy vào đường cùng ngõ hẹp.
Như vậy, nếu người chinh phụ trong “Chinh phụ ngâm” lẻ loi vì nhớ chồng, có nỗi thất vọng nhưng chưa bị đẩy đến bi thảm bởi vẫn nuôi niềm hi vọng chồng trở về, vẫn tin tưởng vào hạnh phúc lứa đôi thì ở đây, người cung nữ bị vua ruồng bỏ, ngày đêm đứng tủi ngồi sầu, muốn bứt phá mà không thể được còn đáng thương hơn nhiều. Người cung nữ từ mất niềm tin đến sầu oán mạnh mẽ, quyết liệt. Nếu người chinh phụ còn mơ hồ về kẻ thì gây bất hạnh cho gia đình mình thì người cung nữ đã ý thức rất rõ về người đó, nhưng vẫn không thể làm gì được. Qua đó, có thể thấy sự đồng cảm, bênh vực của Nguyễn Gia Thiều với khát vọng tự do vừa đáng thương, vừa đáng trân trọng; từ đó gián tiếp tố cáo xã hội phong kiến vô nhân đạo đã tước đi quyền được sống, được hạnh phúc của con người. Cái tâm của người nghệ sĩ đi liền với cái tài: tài năng tả tâm trạng nhân vật bậc thầy. Mỗi khổ thơ là một tâm trạng, mỗi tâm trạng là một từ ngữ biểu cảm, so sánh, ước lệ khác nhau. Những câu thơ mà “thiên bách, bách luyện, ngữ ngữ kinh nhân”.
Những câu thơ có giá trị là những câu thơ sống mãi trong lòng người dù dòng thơ đã kết thúc, là để lại cho người đọc những ám ảnh, những day dứt khôn nguôi. “Cung oán ngâm” của Nguyễn Gia Thiều đã làm được điều đó.
Phân tích đoạn trích Nỗi sầu oán của người cung nữ mẫu 3
Trong văn học Việt Nam thế kỉ XVIII nửa đầu thế kĩ XIX, nhân vật phụ nữ có một vị trí đặc biệt, với nhiều vấn đề về tình cảnh và số phận của họ. Đã có một người chinh phụ với tình cảnh lẻ loi và niềm khao khát hanh phúc trong Chinh phụ ngâm, một Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du với số phận bi kịch suốt 15 năm lưu lạc, rồi còn nhiều nữa những Ngọc Hoa, Cúc Hoa trong truyện Nôm… Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều góp thêm một tiếng nói manh mẽ tố cáo chế độ phong kiến đày ải, giam hãm những người phụ nữ mỏi mòn trong thân phận cung nữ.
Chế độ cung nữ của các vua chúa phong kiến là một hiện tượng hết sức độc ác, vô lí đã tồn tại hàng ngàn năm dưới các triều đại phong kiến. Hiện tượng ấy cũng đã trở thành đề tài của nhiều tác phẩm văn chương trong thời trung đại, nhưng phải đến Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều thì tình cảnh bị bỏ rơi, giam hãm của những cung nữ và niềm oán hận của họ mới được thể hiện một cách hết sức mạnh mẽ, vừa đau đớn, vừa chua xót. Đoạn thơ trích Nỗi sầu oán của người cung nữ (từ câu 209 đến câu 244 Cung oán ngâm) thể hiện tập trung tình cảnh cô quạnh, bị bỏ rơi và niềm bi phẫn của người cung nữ.
Đoạn thơ mở ra bằng hình ảnh người cung nữ một mình lẻ loi, cô đơn giữa cảnh lộng lẫy vàng son nơi cung cấm. Giữa không gian của những cung quế, lầu đãi nguyệt, gác thừa lương đầy vẻ xa hoa, tráng lệ lại chỉ thấy bóng dáng lẻ loi, âm thầm buồn bã của người cung nữ.
Trong cung quế âm thầm chiếc bóng,
Đêm năm canh trông ngóng lần lần.
Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ vũ,
Gác thừa lương thức ngủ thu phong
Nếu những danh từ Hán - Việt ở đầu các câu thơ trên gợi ra vẻ sang trọng, đài các ở nơi cung cấm, thì động từ – thường là từ thuần Việt, nôm na, lại vẽ ra bóng dáng lẻ loi và tâm trạng khắc khoải, mòn mỏi trong sự đợi chờ vô vọng của người cung nữ. Những cặp động từ “trông ngóng, đứng ngồi, thức ngủ” đã diễn tả không chỉ những hành động lặp đi lặp lại mà còn biểu hiện tính tê tâm trạng khắc khoải, bồn chồn của người cung nữ.
Ở những câu thơ tiếp theo, không gian thu hẹp lại trong căn phòng nơi cung cấm. Không gian ấy vẫn còn vẻ xa hoa với những phòng tiêu, gương loan, cửa châu, rèm ngà, nhưng vẫn không che lấp được sự trống trải, cô quạnh của người cung nữ. Tất cả vẫn chỉ là sự lạnh lẽo: “Phòng tiêu lạnh ngắt như đồng”, “Cửa châu gió lọt, rèm ngà sương gieo”. “Gối loan tuyết đóng, chăn cù giá, đông”. Không gian đã vậy, còn thời gian của sự đợi chờ vô vọng lại càng dằng dặc, lê thê:
Ngày sáu khắc, tin mong nhạn vắng
Đêm năm canh, tiếng lắng chuông rền.
Trong những đêm dài lạnh lẽo với những giấc cô miên chập chờn, người cung nữ cố gượng đốt hương để mong có hơi ấm và mùi hương thơm xua bớt đi sự lạnh lẽo, nhưng mùi hương chỉ làm tăng thêm sự tịch mịch (mùi hương tịch mịch)-, thắp ngọn đèn lên thì chỉ làm rõ không gian thâm u của căn phòng (bóng đèn thâm u). Trở lên trên là doạn thơ 20 câu vẽ ra hình ảnh cô quạnh của người cung nữ trong không gian tráng lệ nhưng cô tịch, lạnh lẽo nơi cung cấm. 16 câu thơ tiếp theo của đoạn trích đi sâu hơn diễn tả tâm trạng của người cung nữ đối với nỗi sầu tủi, oán hận ngày càng thấm thìa, gay gắt.
Mọi tư thế, động tác của nhân vật trữ tình người cung nữ điều thể hiện sự buồn chán, trễ nải: Tranh biếng ngắm, mặt buồn trông, đứng tủi, ngồi sầu. Muôn giải bày lòng mình cũng chỉ biết “đã than với nguyệt lại rầu với hoa”. Nỗi buồn rầu, chán ngán kéo dài hết ngày nọ sang ngày kia, tưởng đã đến cực điểm:
“Buồn mọi nỗi lòng đà khắc khoải
Ngán trăm chiều, bước lại ngẩn ngơ”.
Đến đây, từ nỗi sầu thương, tâm trạng người cung nữ chuyển sang nỗi oán hận. Mới đầu chỉ là lời oán trách về sự thờ ơ của vua, để nhan sắc của mình phôi pha, hoài phí với thời gian:
Hoa này bướm nỡ thờ ơ,
Để gầy bông thắm, để xơ nhụy vàng!
Ở đoạn trên, cung nữ đã một lần oán trách:
“Khoảnh làm chi bấy chúa xuân
Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi”.
Không dừng lại ở đó, sự oán trách đã thành oán hận, thành lời lên án gay gắt với nhà vua:
Giết nhau chẳng cái lưu cầu,
Giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa!
Trong những bài thơ về đề tài cung nữ cũng thường có những lời oán thán về việc họ bị bỏ rơi, chẳng được vua chúa đoái hoài. Nhiều trường hợp đó chỉ là cách nói ẩn dụ của một công thần bị thất sủng mượn người cung nữ để nói lên lời than trách với vị quân vương. Đến Cung oán ngâm, có lẽ đây là lần đầu tiên trong văn chương thời trung đại có một người lên án trực tiếp và gay gắt thứ tội ác này của vua chúa. Giam hãm bao nhiêu cung nữ trong hậu cung, để những người phụ nữ đẹp ấy phải chết dần chết mòn trong nỗi u sầu, cô độc. Đó chẳng phải là một tội ác sát nhân hay sao? Hơn nữa, cái cách giết người ở đây mới thật thâm hiểm và ác độc, không cần dùng đến gươm sắc, chỉ bằng “cái u sầu”, mà phải là những người trong cuộc - những nạn nhân của chế độ cung nữ như ở đây mới thật sự thấm thìa: “Giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa”. Lời thơ đến câu này không còn giọng thở than sầu thảm như ở đoạn trên mà chuyển thành giọng oán hận gay gắt. Lên án sự ác độc của vua chúa, người cung nữ còn oán trách cả ông trời, mà cụ thể là việc xe duyên của Nguyệt Lão:
Tay Nguyệt Lão chẳng xe thì chớ!
Xe thế này có dở dang không?
Truy tìm nguồn cội của tấn bi kịch đời mình, người cung nữ chỉ biết oán trách sô’ phận trớ trêu trong tay tạo hóa, điều ấy cũng là lẽ thường trong quan niệm nhân sinh của thời xưa – con người khi không thể tự chủ cuộc đời mình và không thể cắt nghĩa nổi những nguyên cớ dẫn đến sô” phận của mình, thì thường chỉ biết oán trách. Người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm cũng từng cất lên lời oán trách trời xanh: “Xanh kia thăm thẳm tầng trên/ Vì ai gây dựng cho nên nỗi này”. Lời của người chinh phụ vẫn trong chừng mực của một lời than thở, trách cứ nhẹ nhàng. Đến người cung nữ thì lời oán trách đã mạnh mẽ hơn nhiều. Còn trong Truyện Kiều, trước tình cảnh Thúy kiều mấy lần bị đẩy vào vòng ô nhục, đã cố giãy giụa mà vẫn không sao thoát được, thì Nguyễn Du phải thốt lên tiếng chửi đầy tức giận:
Chém cha cái số ba đào
Cởi ra rồi lại buộc vào như chơi
Nghĩ đời mà ngán cho đời,
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen.
Người cung nữ của Nguyễn Gia Thiều không dừng lại ở sự oán trách số phận của mình, mà sự giận dữ đã chuyển thành ý muôn hành động tung phá để thoát khỏi tình cảnh bị giam hãm mãi mãi trong cô đơn, u buồn ở chốn nội cung:
Đang tay muốn bứt tơ hồng
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra!
Cố nhiên, từ ý nghĩ đến hành động còn là một khoảng cách không phải dễ gì vượt được. Người cung nữ vẫn còn mong mỏi đến một ngày nào đó lại được đấng quân vương đoái hoài tới và nhờ thế mà chấm dứt được cảnh sông cô quạnh, u buồn của mình. Nhân vật cung nữ của Nguyễn Gia Thiều chứa đựng nhiều mâu thuẫn, phức tạp, phản ánh phần nào những mâu thuẫn trong tư tưởng của chính tác giả.
Đoạn Nỗi sầu oán của người cung nữ là đoạn thơ khá tiêu biểu cho giá trị tư tưởng và nghệ thuật của Cung oán ngâm. Đoạn thơ đã diễn tả sâu sắc và đầy sức ám ảnh về tình cảnh mỏi mòn, u sầu của người cung nữ, qua đó cho thấy bộ mặt tráo trở và sự độc ác của vua chúa. Không gian nơi nội cung, ngoài thì lộng lẫy, xa hoa, nhưng thực chất chỉ là một không gian tù hãm, thâm u, chỉ là nơi giam cầm những cung nữ trong kiếp đọa đày. Nỗi u sầu và sự oán hận của người cung nữ đã được biểu hiện với tất cả sự thấm thìa, mạnh mẽ, gay gắt và bằng sự cảm thông sâu sắc của tác giả. Đó chính là giá trị nhân đạo của đoạn thơ này cũng như của cả khúc ngâm. Với Cung oán ngâm, thêm một lần nữa trong văn học Việt Nam thế kỉ XVIII, những khát vọng tự nhiên chính đáng của con người, đặc biệt là người phụ nữ, đã được nói lên một cách thành thực và mạnh mẽ.
Đoạn thơ cũng cho thấy thành công xuất sắc của Nguyễn Gia Thiều trong nghệ thuật sáng tạo ngôn ngữ và sử dụng thể thơ song thất lục bát. Lớp từ ngữ Hán - Việt và lớp từ Nôm thuần Việt đã được tác giả phối hợp một cách tài tình, đầy sáng tạo, vừa tạo nên vẻ sang trọng, đài các của nơi cung cấm, lại vừa biểu hiện được trực tiếp, gợi cảm những tâm trạng, cảm xúc đến độ gay gắt mạnh mẽ của nhân vật trữ tình người cung nữ. Nhiều động từ và tính từ, chủ yếu là thuần Việt được đặt ở trọng tâm các câu thơ, tạo ấn tượng rất mạnh mẽ đến sự tiếp nhận của người đọc:
Ghơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi.
Phòng tiêu lạnh ngắt như đồng,
Gương loan bẻ nửa, dải đồng xé đôi.
Hoa này bướm nỡ thờ ơ,
Để gầy bông thắm, để xơ nhụy vàng!
Thể thơ song thất lục bát đã xuất hiện từ hàng thế kỉ trước, nhưng đến Cung oán ngâm mới thật sự đạt đến sự hoàn chỉnh chặt chẽ trong cấu trúc của từng khổ thơ, trong cách gieo vần ở chữ thứ 5 của câu thất và đối về thanh điệu của cặp câu 7 chữ. Thể song thất lục bát qua Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm đã cho thấy nó rất thích hợp với những khúc ngâm bởi khả năng thể hiện những tâm trạng lớn, trải ra trong một thời gian dài mà mỗi khổ thơ là một con sóng, hết đợt sóng này đến đợt sóng khác tiếp nối để tạo nên một tác phẩm trữ tình trường niên.
Các bài liên quan đến tác phẩm: