Thuyết minh hai đoạn đầu bài Bình Ngô Đại Cáo
Văn mẫu lớp 10: Thuyết minh hai đoạn đầu bài Bình Ngô Đại Cáo vừa được VnDoc.com tổng hợp và sưu tầm gồm các bài văn mẫu lớp 10 hay dành cho các bạn học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết môn Ngữ văn 10 sắp tới đây của mình. Mời các bạn học sinh cùng tham khảo chi tiết và tải về bài viết tại đây nhé.
Thuyết minh bài Bình Ngô Đại Cáo
- 1. Dàn ý Thuyết minh hai đoạn đầu bài Bình Ngô Đại Cáo - Bài mẫu 1
- 2. Dàn ý Thuyết minh hai đoạn đầu bài Bình Ngô Đại Cáo - Bài mẫu 2
- 3. Văn mẫu Thuyết minh hai đoạn đầu bài Bình Ngô Đại Cáo mẫu 1
- 4. Thuyết minh hai đoạn đầu bài Bình Ngô Đại Cáo mẫu 2
- 5. Thuyết minh hai đoạn đầu bài Bình Ngô Đại Cáo mẫu 3
- 6. Thuyết minh hai đoạn đầu bài Bình Ngô Đại Cáo mẫu 4
1. Dàn ý Thuyết minh hai đoạn đầu bài Bình Ngô Đại Cáo - Bài mẫu 1
1. Mở bài
Giới thiệu vấn đề cần thuyết minh: hai đoạn đầu bài Bình Ngô Đại Cáo.
Lưu ý: Học sinh tự lựa chọn cách viết mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào năng lực của bản thân mình.
2. Thân bài
a. Tác giả Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi (1380 – 19 tháng 9 năm 1442), hiệu là Ức Trai, là một nhà chính trị, nhà văn lớn.
Nguyễn Trãi là một nhà văn hoá lớn, có đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt Nam. Ông nằm trong danh sách 14 anh hùng dân tộc Việt Nam.
Nguyễn Trãi để lại cho đời nhiều tác phẩm thi ca, chính luận đặc sắc với tư tưởng chủ đạo trong các thi phẩm, bài chính luận là tư tưởng nhân nghĩa, mệnh trời, tư tưởng nhân dân, sống theo tư tưởng đạo Nho nhưng không gò bó, câu nệ tiểu tiết mà vô cùng khoáng đạt, rộng rãi.
Nghệ thuật thơ của Nguyễn Trãi có ngôn từ giản dị, gần gũi, hình ảnh thơ giàu tính ước lệ.
b. Hai đoạn đầu bài Bình Ngô Đại Cáo
Bình Ngô Đại Cáo có ý nghĩa trọng đại của một bản tuyên ngôn độc lập được công bố tháng Chạp năm Đinh Mùi, bài cáo mang đặc trưng cơ bản của thể cáo nói chung, đồng thời có những sáng tạo riêng của Nguyễn Trãi.
Bài cáo này được viết theo lối văn biền ngẫu, có vận dụng thể tứ lục, hình tượng nghệ thuật sinh động, gợi cảm.
Hai đoạn thơ bao gồm 43 câu với độ ngắn dài khác nhau. Đoạn đầu tác giả tập trung đưa ra các quan điểm, luận đề về chính nghĩa, về lẽ phải của cuộc sống. Đoạn thứ hai, Nguyễn Trãi vạch rõ tội ác của kẻ thù đã gây ra với nước ta.
Đoạn 1: Ghi nhận một chân lý độc lập đầy tinh thần nhân nghĩa. Độc lập ấy có được không phải do thiên định mà do nhân định. Chính nhân dân bao đời là người đã gây dựng nền độc lập. Bao xương máu đã đổ xuống, bao sự đồng cam cộng khổ, bao nhiêu mồ hôi, nước mắt của nhân dân cả nghìn năm. Vì thế đó là điều "bất khả xâm phạm".
Đoạn 2: tác giả vạch ra những tội ác của quân giặc: Chúng đem "nướng", "vùi" nhân dân ta trên ngọn lửa và "dưới hầm tai vạ". Chúng cai trị nhân dân ta bằng các loại thuế vô lý, các kế sách lừa lọc nham hiểm và cả sự tra tấn dã man, hung bạo…
Hai đoạn thơ đã khái quát trước mắt bạn đọc những gian khổ mà nhân dân ta phải chịu đựng, những tội ác hung tàn của quân giặc đồng thời là lời tuyên bố, khẳng định đanh thép của tác giả về chủ quyền, tự do, độc lập của đất nước.
3. Kết bài
Khái quát lại vấn đề thuyết minh: hai đoạn đầu bài Bình Ngô Đại Cáo.
2. Dàn ý Thuyết minh hai đoạn đầu bài Bình Ngô Đại Cáo - Bài mẫu 2
1. Mở bài
- Dẫn dắt vấn đề: Khái quát về tác giả, tác phẩm, giá trị nội dung, nghệ thuật của bài Bình Ngô đại cáo.
2. Thân bài
- Nêu luận đề chính nghĩa: Cốt lõi nhân nghĩa chính là yên dân và trừ bạo. Nhân nghĩa không bó hẹp trong khuôn khổ tư tưởng Nho giáo mà rộng hơn là làm thế nào để đem lại cuộc sống yên bình cho nhân dân. Bên cạnh đó khẳng định nước ta tuy là một nước nhỏ nhưng vẫn có thể tự hào về:
+ Nền văn hiến lâu đời.
+ Cương vực lãnh thổ.
+ Phong tục tập quán.
+ Lịch sử và chế độ riêng.
- Bản cáo trạng vạch rõ tội ác kẻ thù: Giặc Minh xảo quyệt thừa nước đục thả câu. Không những thế còn tàn sát, hành hạ, tước đoạt mạng sống con người một cách dã man (dẫn chứng).
- Tổng kết quá trình kháng chiến:
+ Xây dựng hình tượng người anh hùng áo vải bình thường nhưng có lòng yêu nước thương dân và căm thù giặc sâu sắc, có lí tưởng cao cả (so sánh với Trần Quốc Tuấn để thấy được lòng căm thù giặc và niềm tin sắt đá).
+ Khắc họa những chiến công oanh liệt hào hùng (dẫn chứng).
- Tuyên bố hòa bình mở ra kỉ nguyên mới.
* Nghệ thuật: - Sử dụng từ ngữ hiển nhiên, vốn có.
- Biện pháp đối lập, lấy cái vô hạn của trúc Nam Sơn để nói đến cái vô hạn trong tội ác giặc Minh, lấy cái vô cùng của nước Đông Hải để nói lên sự dơ bẩn vô cùng.
- Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật.
- Liệt kê, so sánh, đối lập để tạo thành bản anh hùng ca về những chiến công oanh liệt.
3. Kết bài:
Tóm tắt lại nội dung, nghệ thuật tiêu biểu.
3. Văn mẫu Thuyết minh hai đoạn đầu bài Bình Ngô Đại Cáo mẫu 1
Nhắc đến những nhà văn chính luận lỗi lạc của văn học trung đại chúng ta không thể nào không nhắc đến Nguyễn Trãi. Ông không chỉ là một nhà thơ trữ tình sâu sắc mà còn là một nhà văn chính luận kiệt xuất với các tác phẩm: "Quân trung từ mệnh tập", các chiếu biểu viết dưới thời nhà Lê và tiêu biểu nhất là tác phẩm "Bình Ngô đại cáo". Các áng văn chính luận này đã thể hiện được lòng yêu nước, thương dân của tác giả.
Ngay câu đầu bài cáo đã bộc lộ tư tưởng nhân nghĩa ấy:
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
"Nhân nghĩa" là tấm lòng thương yêu người, là những hành động vì lợi ích của nhân dân, cộng đồng. Bên cạnh đó, "nhân nghĩa" cũng là sự tôn trọng lẽ phải, bênh vực lẽ phải. Chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo nên đối với Nguyễn Trãi, "nhân nghĩa" là "yên dân", "trừ bạo", cuộc sống và sự no ấm của nhân dân phải được đặt lên hàng đầu. Giữa con người phải có tình yêu thương lẫn nhau, cùng chiến đấu để bảo vệ đất nước, thoát khỏi đời sống khổ cực, lầm than. Để được như vậy thì phải diệt trừ những kẻ bạo tàn, những thế lực xâm lược hung hãn, đó chính là giặc Minh đang xâm chiếm đất nước ta lúc bấy giờ. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chính là lòng yêu nước, thương dân và tinh thần chống giặc ngoại xâm quyết liệt. Đây không chỉ là mối quan hệ nằm trong phạm vi giữa con người với con người mà mở rộng ra là mối quan hệ giữa dân tộc với dân tộc.
Để khẳng định chủ quyền của đất nước, tác giả đã đưa ra những dẫn chứng xác đáng và vô cùng thuyết phục:
"Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có".
Nền văn hiến đã có từ lâu đời và được hình thành từ khi đất nước ta tồn tại theo hàng nghìn năm lịch sử đã tạo nên một diện mạo riêng của dân tộc. Cùng với đó là sự phân chia về lãnh thổ, núi sông và các phong tập tập quán đặc trưng của hai miền Nam, Bắc đã thể hiện đất nước ta là một đất nước có chủ quyền, có các anh hùng hào kiệt luôn cống hiến, chiến đấu hết mình để bảo vệ non sông. Không chỉ vậy, Nguyễn Trãi còn đặt các triều đại của nước ta ngang hàng với các triều đại của Trung Quốc như Hán, Đường, Tống, Nguyên. Nếu các triều đại phương Bắc phát triển hưng thịnh thì các triều đại Việt Nam cũng phát triển hùng mạnh không kém. Điều đó đã thể hiện lòng tự tôn, tự hào dân tộc sâu sắc của tác giả.
Ông đã nhắc lại nhiều chiến thắng lừng lẫy của nước Đại Việt như một lời khẳng định sự thất bại thảm hại của kẻ thù:
"Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi".
Những tướng của nhà Tống, nhà Nguyên đều bị các tướng giỏi của ta đánh cho thất bại. Chúng vì "tham công", "thích lớn" nên phải chịu hậu quả nặng nề. Các sự kiện ấy còn được nhân dân ta lưu lại trong sử sách để muôn đời ghi nhớ. Các phép đối, so sánh ngang hàng các triều đại phong kiến của nước ta với các triều đại phương Bắc cùng phép liệt kê và giọng điệu hào hùng, trang nghiêm ở đoạn thứ nhất của bài cáo đã thể hiện nổi bật tư tưởng nhân nghĩa của tác giả.
Ông đã vạch trần, tố cáo những tội ác mà quân Minh xâm lược thực hiện với nhân dân ta:
"Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh".
Quân Minh đã lợi dụng "chính sự phiền hà" của nhà Hồ để chớp lấy thời cơ xâm chiếm nước ta. Bước chân xâm lược của chúng giày xéo lên đất nước ta khiến nhân dân vô cùng oán hận, căm thù. Cũng lợi dụng điều đó mà bọn gian tà chỉ biết nghĩ đến lợi ích của cá nhân đã tiếp tay cho kẻ thù xâm lược để mang lại những vinh hoa, lợi lộc cho bản thân mà không chiến đấu vì nhân dân, tổ quốc.
Giặc Minh đã gây ra những tội ác không thể dung tha:
"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi".
Nhân dân ta phải chịu cảnh khổ cực, lầm than dưới gót chân xâm lược của chúng. Chúng đem "nướng", "vùi" nhân dân ta trên ngọn lửa và "dưới hầm tai vạ". Chúng cai trị nhân dân ta bằng các loại thuế vô lý, các kế sách lừa lọc nham hiểm và cả sự tra tấn dã man, hung bạo. Những người dân vô tội phải chịu sự áp bức, bóc lột nặng nề của giặc Minh.
Không chỉ vậy, chúng còn hủy hoại cả môi trường sống, môi trường tự nhiên của dân tộc ta:
"Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khi nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt".
Chịu sự đô hộ của quân Minh cũng đồng nghĩa với việc nhân dân ta phải đối mặt với sự cai trị tàn bạo và những hành động hung hãn của chúng. Chúng vô nhân tính đến mức bắt ép dân đen "xuống biển dòng lưng mò ngọc", "vào núi đãi cát tìm vàng", bắt nhân dân ta đến những nơi nguy hiểm luôn rình rập, đe dọa đến tính mạng để tìm kiếm những vật có giá trị cho quân cuồng Minh. Nhân dân ta bị biến thành nô lệ cho kẻ thù và cũng là miếng mồi ngon cho các loài động vật cá mập, thuồng luồng hung dữ. Chúng xâm chiếm nước ta để vơ vét hết sản vật quý hiếm như chim trả dùng để làm áo và đệm, hươu đen dùng để làm vị thuốc bổ. Có thể nói, tham vọng xâm lược nước ta của giặc Minh vô cùng lớn.
Không chỉ đẩy dân ta vào nguy hiểm, chết chóc mà chúng còn "tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ". Do quân Minh "máu mỡ bấy no nê chưa chán", xây nhà đắp đất liên miên nên nhân dân ta rơi vào cảnh ngộ đầy bi thương, khốn khổ:
"Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi".
Những tội ác của quân Minh không sao kể hết bởi lẽ:
"Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được"
Ngay cả trúc Nam Sơn, nước Đông Hải cũng không thể ghi hết tội ác và rửa sạch mùi dơ bẩn của quân xâm lược. Những hành động tàn ác, dã man của chúng khiến trời đất cũng không thể dung tha huống chi là con người. Câu hỏi tu từ cuối đoạn thứ hai đã nhấn mạnh thêm một lần nữa tội ác của kẻ thù. Chúng ta không thể nào tha thứ cho những kẻ đã tàn sát đồng bào, tàn hại cả cây cỏ thiên nhiên của đất nước mình.
Hình ảnh đối lập giữa những người dân đen vô tội bị bóc lột tàn bạo và kẻ thù vô nhân tính cùng giọng điệu cảm thương, đanh thép, lí luận sắc bén đã thể hiện tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Hai đoạn đầu của bài cáo là bản cáo trạng hùng hồn tố cáo những hành động dã man của quân Minh. Đó là minh chứng tiêu biểu nhất cho sự khổ cực, áp bức, sự cướp bóc, bóc lột trắng trợn mà nhân dân ta phải gánh chịu trong suốt thời gian chúng "Gây binh kết oán trải hai mươi năm".
4. Thuyết minh hai đoạn đầu bài Bình Ngô Đại Cáo mẫu 2
Văn học trung đại là một trong những thời kỳ văn học lớn nhất nước ta. Nhắc đến văn học thời kỳ ấy, không thể không nhắc tới "Bình Ngô Đại Cáo" của nhà văn chính luận kiệt xuất Nguyễn Trãi. Bài cáo đã ghi dấu trong lòng dân tộc rất nhiều giá trị sâu sắc về tình yêu nước và chủ quyền dân tộc. Đặc biệt là hai đoạn mở đầu bài cáo.
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
...
Ai bảo thần nhân chịu được?"
"Bình Ngô Đại Cáo" là tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Trãi, được viết vào năm 1428. Mục đích để bố cáo với thiên hạ về nền độc lập tự cường và chủ quyền dân tộc. Hai đoạn đầu thuộc phần mở đầu của bài cáo. Đoạn đầu nêu lên tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp, lòng tự tôn dân tộc sâu sắc (Từ "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân"..."Chứng cớ còn ghi"). Đoạn 2 vạch trần và lên án tội ác của giặc Minh xâm lược ("Nhân họ Hồ chính sự phiền hà"..."Ai bảo thần nhân chịu được")
Về nội dung, trước tiên tác giả khẳng định tư tưởng nhân nghĩa sáng ngời đồng thời cũng là mục đích của cuộc khởi nghĩa:
"Từng nghe
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"
"Nhân nghĩa" là mối quan hệ được xây dựng trên cơ sở tình yêu thương và đạo đức giữa người với người. Nhân nghĩa là những hành động đúng với luân thường đạo lý, tôn trọng lẽ phải, vì lợi ích cộng đồng. Trưởng thành trong thời đại chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo nên Nguyễn Trãi cho rằng "nhân nghĩa" là "yên dân" - làm cho nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc và "trừ bạo". Đặt trong hoàn cảnh của đất nước bấy giờ "nhân nghĩa" chính là diệt trừ giặc Minh xâm lược. Nhân nghĩa ở đây đã được nâng lên thành mối quan hệ giữa dân tộc với dân tộc. Từ đó, Nguyễn Trãi xác lập luận đề chính nghĩa cho cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta.
Ông đanh thép khẳng định chủ quyền dân tộc bằng những dẫn chứng vô cùng xác thực:
"Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có"
Chủ quyền dân tộc được khẳng định trên nhiều phương diện khác nhau, bao gồm văn hiến, địa phận, phong tục, nhà nước, nhân tài. Tất cả đều đã trải dài theo lịch sử hình thành và phát triển của nước ta, mang dấu ấn riêng thuộc về dân tộc ta. Tác giả liệt kê lần lượt các triều đại của nước Đại Việt, đặt song song với các triều đại Trung Hoa, khẳng định vị thế ngang hàng của hai dân tộc. Trung Hoa có "Hán, Đường, Tống, Nguyên", Đại Việt cũng có "Triệu, Đinh, Lý, Trần". Các triều đại phương Bắc hưng thịnh, các triều đại nước ta cũng vô cùng hùng mạnh.
Không những thế, Nguyễn Trãi còn xưng đế, thể hiện lòng tự tôn dân tộc vô cùng mãnh liệt, khẳng định sự bình đẳng của Đại Việt và Trung Hoa. Hai dân tộc, mạnh yếu từng thời kỳ khác nhau. Nhưng hào kiệt thì thời nào cũng có. Họ là nhân tài, là những người anh hùng đã đi vào lịch sử, sống và cống hiến hết mình để bảo vệ, xây dựng non sông.
Dân tộc ta không thua kém bất cứ ai, lịch sử vẫn còn lưu những thất bại nhục nhã thảm hại của kẻ thù khi xâm lược nước ta:
"Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi"
Tác giả liệt kê một loạt những tên tướng giặc bại trận trong lịch sử: Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã. Bởi "tham công" tiến hành những cuộc chiến phi nghĩa, chúng đã phải nhận lấy thất bại ê chề.
Những địa danh lịch sử đi liền với những chiến công vĩ đại của dân tộc vẫn còn lưu danh muôn đời trong sử sách. Đó là sông bạch Đằng với chiến thắng 3 vạn quân Nam Hán, chấm dứt xóa 1 ngàn năm đô hộ nước ta của ngoại xâm phương Bắc. Là cửa Hàm Tử ghi dấu chiến công oanh liệt của quân dân nhà Trần. Tất cả không thể chối cãi.
Thế nhưng, vì tham vọng bành trướng lãnh thổ, giặc Minh vẫn bất chấp đem quân xâm lược nước ta, hung tàn, ác độc:
"Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh"
Đất nước rối ren, giặc Minh lợi dụng, "thừa cơ" "phù Trần diệt Hồ", tràn vào bờ cõi nước ta. m mưu, thủ đoạn của chúng khiến nhân dân vô cùng oán hận. Nguyễn Trãi không chỉ vạch trần bộ mặt xâm lược của kẻ thù mà còn lên án những kẻ gian thần bán nước cầu vinh. Vì lợi ích cá nhân mà tiếp tay cho kẻ thù.
Trên lãnh thổ dân tộc, Giặc Minh đã gây ra những tội ác trời đất khó dung:
"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khi nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi"
Chúng hung ác, tàn bạo, nhân dân ta rơi vào cảnh lầm than muôn vàn đau khổ. Chúng tàn sát người dân vô tội, tra tấn, hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần. Chúng không chỉ ngang nhiên cướp đi sinh mệnh mà còn ác độc phá hủy biết bao cơ nghiệp, phá tan cuộc sống của biết bao người. Chúng đặt ra đủ loại thuế vô lý, áp bức, bóc lột nhân dân ta tàn bạo.
Không dừng lại ở đó, giặc Minh còn đem lòng tham không đáy khai thác cạn kiệt tài nguyên, hủy hoại nặng nề môi trường sống của dân tộc ta. Chúng vô nhân tính, xem nhẹ mạng sống con người. Vì vàng bạc châu báu, chúng ép dân đen "xuống biển dòng lưng mò ngọc", "vào núi đãi cát tìm vàng". Những người dân lương thiện bị chúng biến thành nô lệ, bọc lốt tận cùng sức lao động và sinh mạng. Trước tội ác dã man của quân giặc, Nguyễn Trãi phẫn nộ và xót thương nhân dân vô tội. Trời đất cũng không thể dung tha.
Thế nhưng, làm sao kể hết những tội ác chúng đã gây ra trong suốt thời gian giày xéo đất nước ta:
"Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được"
Trúc Nam Sơn nhiều bao nhiêu cũng không ghi hết tội ác của chúng. Nước Đông Hải mênh mông bao nhiêu cũng không gột rửa hết máu tanh mà chúng gây ra. Tội ác của giặc Minh khiến trời đất ngùn ngụt phẫn nộ. Những tổn thương chúng gây ra, nhân dân ta, dân tộc ta sẽ không bao giờ tha thứ.
Bên cạnh việc xây dựng nội dung sâu sắc, hai đoạn đầu bài cáo cũng rất thành công về nghệ thuật. Tác giả đã sử dụng những lí lẽ sắc bén, lập luận chặt chẽ. Kết hợp cùng thủ pháp phóng đại, những dẫn chứng xác thực và câu hỏi tu từ cuối đoạn khéo léo. Giọng điệu linh hoạt, khi đanh thép hùng hồn, khi đồng cảm xót thương. Qua đó, Nguyễn Trãi đã nêu ra tiền đề nhân nghĩa của cuộc kháng chiến, khẳng định chủ quyền dân tộc. Đồng thời vạch trần âm mưu, lên án tội ác của giặc Minh, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc.
Hai đoạn mở đầu đã góp phần không nhỏ làm lên áng thiên cổ hùng văn "Bình Ngô Đại Cáo", khẳng định tài năng và tấm lòng của Nguyễn Trãi. Mỗi tác phẩm văn học đều soi bóng thời đại mà nó ra đời. "Bình Ngô Đại Cáo" từ đó đã tái hiện cho rất nhiều thế hệ mai sau lịch sử hào hùng bi tráng của dân tộc.
5. Thuyết minh hai đoạn đầu bài Bình Ngô Đại Cáo mẫu 3
Nguyễn Trãi một tác giả văn học với nhiều tác phẩm nổi tiếng, nhà quân sự kiệt xuất trong lịch sử dân tộc. Đóng góp của ông là rất lớn cho nước nhà. Trên phương diện tác giả văn học ông có tác phẩm Bình ngô đại cáo đề cao nhân nghĩa và lòng yêu nước thương dân.
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Mở đầu Bình ngô đại cáo là tư tưởng nhân nghĩa với mục đích vì nhân dân, “trừ bạo” với mục đích vì nhân dân mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân và từ đó nước nhà mới thịnh trị.
Tiếp theo bài cáo của tác giả đề cao những đời vua nước ta từ nhà Triệu, Đinh, Lý, Trần xưng vương xưng bá tại phía Nam song hành cùng với Hán, Đường, Tống, Nguyên phía Bắc tất cả núi non bờ cõi đã chia,phong tục cũng khác đó chính là sự khẳng định chủ quyền lịch sử, dân tộc. Tác giả đặt các đời vua của nước Nam ngang hàng với các đời vua phương Bắc như là sự tự hào cho các giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc.
Những kẻ xâm phạm độc lập chủ quyền của một quốc gia chắc chắn sẽ gánh chịu thất bại thảm hại.
“Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cứ còn ghi”.
Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã đều là những tướng lĩnh nổi tiếng ở các thời kì khác nhau trong lịch sử Trung Hoa đều mang quân sang xâm lược nước Đại Việt nhỏ bé và chuốc lấy thất bại ghi danh ngàn đời. Đó chính là minh chứng cho một quốc gia có chủ quyền và sẵn sàng đánh bại mọi kẻ thù to lớn.
Một quốc gia “nhân nghĩa” dùng sức mạnh của lòng dân để đánh thắng những kẻ thù đông đảo, mạnh mẽ và “phi nhân nghĩa”. Tác giả Nguyễn Trãi đã nêu lên nhiều dẫn chứng cụ thể, xác đáng sử dụng lời lẽ hào hùng thể hiện niềm tự hào to lớn về đất nước, dân tộc từ ngàn đời.
Trong bài cáo toát lên giọng điệu hùng tráng, oai nghiêm khi nói về độc lập chủ quyền của quốc gia. Thể hiện lòng yêu nước sâu sắc của tác giả, trải qua hàng ngàn năm lòng yêu nước là thứ tồn tại theo thời gian trong mỗi con người nước Việt.
Nếu như đoạn 1 đề cao sự nhân nghĩa và khẳng định chủ quyền dân tộc thì đoạn 2 của tác phẩm Bình ngô đại cáo chủ yếu tố cáo những tội ác của giặc Minh trong thời gian chúng đô hộ nước ta.
Tác giả đề cập đến thời gian nhà Hồ suy yếu, giặc Minh lợi dụng danh nghĩa “phù Trần diệt Hồ” gây chia rẽ trong nước, gây bạo loạn và mục đích cướp đất nước ta.
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây hoạ
Bọn gian ta còn bán nước cầu vinh”
Giặc ngoại xâm thật thâm độc, chính sách cai trị tàn bạo, vô nhân tính chẳng khác nào hành động diệt chủng như giết hại nhân dân “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn- Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ”, ra sức thu thuế khóa mục đích chiếm càng nhiều tài sản càng tốt, sử dụng con người khai thác tài nguyên đến nguy hiểm tính mạng “ép xuống biển mò ngọc” đối mặt với mối nguy từ các cá mập, thuồng luồng, “vào núi đãi cát tìm vàng” nơi chốn rừng thiêng nước độc và rất nhiều người đã bỏ mạng.
Không chỉ với con người mà chúng còn “Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ” phá hoại môi trường nặng nề.
Tất cả đều khiến rất nhiều gia đình ly tán chia lìa, xã hội tan thương, nhân dân rơi vào tình cảnh túng quẫn cùng cực.
Nguyễn Trãi trong đoạn 2 Bình ngô đại cáo đã tố cáo tội ác man rợ của giặc Minh nhiều đến nỗi “trúc Nam Sơn không ghi hết tội” “nước Đông hải không rửa sạch mùi”, qua đó tỏ thái độ căm phẫn, uất ức bọn xâm lược đó cũng chính là nỗi đau nhân dân tầng lớp nghèo khổ trong xã hội. Chứng kiến những điều tàn bạo, phi đạo lý đó lẽ nào trời đất dung thứ cho chúng?
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được?
Đoạn 2 Bình ngô đại cáo chính là lời tố cáo mạnh mẽ sự tàn bạo, độc ác mà giặc Minh đang giày xéo trên đất nước. Khi có sự áp bức chắc chắn sẽ có đấu tranh, khởi nghĩa và có thể khẳng định chính nghĩa chắc chắn sẽ giành thắng lợi sau cùng.
6. Thuyết minh hai đoạn đầu bài Bình Ngô Đại Cáo mẫu 4
Đại cáo bình Ngô là một bản anh hùng ca về sức mạnh của truyền thống yêu nước, tinh thần độc lập tự cường, tư tưởng đại nghĩa, ý chí của quân và dân ta trong trong cuộc chiến đấu thắng lợi vang dội trước giặc ngoại xâm, đem lại cuộc sống hoà bình, hạnh phúc cho toàn dân tộc ở thế kỉ XV. Hai đoạn đầu của tác phẩm là hai đoạn trích đặc sắc.
Mở đầu bài cáo, tác giả nêu lên một tư tưởng lớn làm nguyên lí cho toàn bài. Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo. Đó là tư tưởng nhân nghĩa, nhưng không phải nhân nghĩa chung chung, mà gắn với mục đích “yên dân”, “trừ bạo”, mang nội dung yêu nước, thương dân. Nó đã được chứng minh bằng sự tồn tại của nước Đại Việt ta như một chân lí lịch sử:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Có đủ tất cả các yếu tố của một quốc gia độc lập tự chủ : quốc hiệu (tên nước), văn hiến, lãnh thổ, phong tục, con người và đặc biệt là “nền độc lập” đã được xây dựng từ bao đời. Những lời văn mạnh mẽ, dứt khoát, có ý khẳng định chắc chắn, Nguyễn Trãi đã khẳng định một cách hùng hồn chủ quyền dân tộc. Nguyễn Trãi nêu bật lịch sử các triều đại bằng phép liệt kê, song hành, đã khẳng định lịch sử dài lâu của đất nước, đồng thời khẳng định tư thế độc lập ngang hàng của Đại Việt với các triều đại phong kiến phương Bắc.
Nó còn như khẳng định về hậu quả thất bại tất yếu của kẻ thù khi chúng xâm phạm đến độc lập chủ quyền của dân tộc ta:
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Nguyễn Trãi đã cho ta thấy những chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giữ gìn tự do của Tổ quốc. Cách nêu dẫn chứng rõ ràng cụ thể bằng những lời lẽ chắc chắn, hào hùng, thể hiện niềm tự hào dân tộc.
Nói về nước Đại Việt ta, cảm hứng của tác giả tràn đầy niềm tự hào dân tộc. Câu văn biền ngẫu sóng đôi, cân xứng tạo nên giọng điệu trang nghiêm, khẳng định khi nói về quốc gia độc lập, tự chủ: và đặc biệt nghệ thuật so sánh lại càng tôn cao và khẳng định thêm điều đó: Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại Triệu, Đinh, Lí, Trần của Việt Nam ngang hàng với các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên của Trung Quốc. Không có một niềm tự hào dân tộc mãnh liệt thì cũng khống thể có một sự so sánh như vậy.
Đoạn 2 là một bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác của quân xâm lược nhà Minh. Nguyễn Trãi đã lột trần âm mưu thâm độc của chúng: lợi dụng nhà Hồ chính sự đổ nát, giặc minh đã thừa cơ vào cướp nước ta:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
…….
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Tác giả khẳng định đó là tội ác “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời” và kể ra những hành động tội ác man rợ của chúng. Nào là tàn sát, giết hại nhân dân kể cả các em nhỏ cũng không tha: Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn- Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ”. Rồi chúng lại bóc lột dân ta bằng thuế khoá nặng nề, ra sức vơ vét tài nguyên đất nước, đẩy người dân đến chỗ đường cùng, thậm chí tính mạng không được đảm bảo:
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Còn dã man, tàn bạo đến mức:
- Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
- Nặng nề những nỗi phu phen,
Tan tác cả nghề canh cửi.
Hậu quả bọn chúng để lại thật là tàn khốc: gia đình tan nát, vợ mất chồng, con cái thì nheo nhóc, muôn loài bị phá huỷ, tiêu diệt, sản xuất thì trì trệ, nhân dân khổ cực. Để nêu rõ tội ác của quân xâm lược, tác giả đã dụng phương pháp liệt kê có chọn lọc, sử dụng những câu văn giàu hình tượng, giọng văn thay đổi linh hoạt, phù hợp với cảm xúc. Lúc thì tỏ ra căm phẫn, tức giận đến thấu xương cái lũ xâm lược tàn bạo, lúc thì lại thể hiện sự xót xa, đau đớn cho nhân dân ta.
Ở phần đầu bản cáo trạng là một hình ảnh đầy ấn tượng: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn - Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”, để rồi kết thúc bằng một hình ảnh có giá trị tổng kết cao: “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội- Dơ bẩn thay, nước Đông hải không rửa sạch mùi”. Và cuối cùng là lời phán quyết nghiêm khắc, đanh thép của nhân dân ta về tội ác của chúng:
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần nhân chịu được?
Hình ảnh đối lập giữa những người dân đen vô tội bị bóc lột tàn bạo và kẻ thù vô nhân tính cùng giọng điệu cảm thương, đanh thép, lí luận sắc bén đã thể hiện tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Hai đoạn đầu của bài cáo là bản cáo trạng hùng hồn tố cáo những hành động dã man của quân Minh. Đó là minh chứng tiêu biểu nhất cho sự khổ cực, áp bức, sự cướp bóc, bóc lột trắng trợn mà nhân dân ta phải gánh chịu trong suốt thời gian chúng "Gây binh kết oán trải hai mươi năm".
-----------------------
Thuyết minh hai đoạn đầu bài Bình Ngô Đại Cáo được VnDoc chia sẻ nhằm giúp các bạn học sinh có thêm nhiều tài liệu tham khảo. Bài viết được tổng hợp gồm có 2 mẫu dàn ý và bài văn mẫu. Bài viết cho thấy được Bình Ngô Đại Cáo là áng văn thiên cổ nó thể hiện được lòng yêu nước, thương dân của tác giả. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chính là lòng yêu nước, thương dân và tinh thần chống giặc ngoại xâm quyết liệt. Đây không chỉ là mối quan hệ nằm trong phạm vi giữa con người với con người mà mở rộng ra là mối quan hệ giữa dân tộc với dân tộc. Nền văn hiến đã có từ lâu đời và được hình thành từ khi đất nước ta tồn tại theo hàng nghìn năm lịch sử đã tạo nên một diện mạo riêng của dân tộc. Cùng với đó là sự phân chia về lãnh thổ, núi sông và các phong tập tập quán đặc trưng của hai miền Nam, Bắc đã thể hiện đất nước ta là một đất nước có chủ quyền. Ông đã nhắc lại nhiều chiến thắng lừng lẫy của nước Đại Việt như một lời khẳng định sự thất bại thảm hại của kẻ thù. Ông đã vạch trần, tố cáo những tội ác mà quân Minh xâm lược thực hiện với nhân dân ta. Nhân dân ta phải chịu cảnh khổ cực, lầm than dưới gót chân xâm lược của chúng. Không chỉ vậy, chúng còn hủy hoại cả môi trường sống, môi trường tự nhiên của dân tộc ta. Chịu sự đô hộ của quân Minh cũng đồng nghĩa với việc nhân dân ta phải đối mặt với sự cai trị tàn bạo và những hành động hung hãn của chúng. Hai đoạn đầu của bài cáo là bản cáo trạng hùng hồn tố cáo những hành động dã man của quân Minh. Đó là minh chứng tiêu biểu nhất cho sự khổ cực, áp bức, sự cướp bóc, bóc lột trắng trợn mà nhân dân ta phải gánh chịu. Hy vọng với tài liệu này các bạn học sinh sẽ có thêm nhiều ý tưởng cho bài văn thuyết minh của mình đồng thời hiểu thêm về tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo
Trên đây VnDoc tổng hợp các dạng bài văn mẫu Thuyết minh hai đoạn đầu bài Bình Ngô Đại Cáo cho các bạn tham khảo ý tưởng khi viết bài. Chắc hẳn qua bài viết bạn đọc đã nắm được những ý chính của bài học rồi đúng không ạ? Ngoài ra các bạn có thể xem thêm chuyên mục Soạn văn 10 mà VnDoc đã chuẩn bị để học tốt hơn môn Ngữ văn lớp 10 và biết cách soạn bài lớp 10 trong sách Văn tập 1 và tập 2. Mời các em học sinh, các thầy cô cùng các bậc phụ huynh tham khảo.
Mời các bạn cùng tham khảo thêm bài liên quan đến tác phẩm: