Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Nghị luận phân tích đánh giá tác phẩm Chữ người tử tù

Nghị luận phân tích đánh giá tác phẩm Chữ người tử tù được VnDoc.com tổng hợp và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo để có thêm tài liệu phân tích Chữ người tử tù nhé. Mời các bạn cùng theo dõi chi tiết bài viết dưới đây.

1. Dàn ý nghị luận phân tích đánh giá tác phẩm Chữ người tử tù

1.Mở bài:

- Giới thiệu về tác giả và tác phẩm và nêu lí do lựa chọn tác phẩm để phân tích, đánh giá:

+ Tác giả Nguyễn Tuân (1910 - 1987) là người suốt đời đi tìm cái đẹp cái đẹp. Phong cách sáng tác của ông tài hoa và uyên bác.

+ "Chữ người tử tù" được in trong tập truyện "Vang bóng một thời", tác phẩm được đánh giá là "một văn phẩm đạt tới sự toàn diện, toàn mĩ".

+ Đây là một trong những tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Nguyễn Tuân thể hiện tấm lòng yêu nước thầm kín và khẳng định cái tài, cái tâm, cái đẹp và cái thiện không thể tách rời nhau.

2. Thân bài:

a. Tóm tắt nội dung chính của truyện:

- Huấn Cao là một người có tài viết chữ rất đẹp nhưng do ông chống lại triều đình nên đã bị kết án tử hình.

- Khi bị giam tại nhà giam, Huấn Cao đã gặp viên quản ngục - một người rất mê tài viết chữ của Huấn Cao và muốn xin chữ của ông Huấn Cao để treo trong nhà.

- Huấn Cao được viên quản ngục biệt đãi nhưng ông vẫn tỏ ra dửng dưng. Sau khi ông hiểu ra tấm lòng của viên quản ngục đã quyết định cho chữ và khuyên người như viên quản ngục nên về quê sống để giữ "thiên lương cho lành vững".

b. Phân tích, đánh giá về chủ đề của truyện:

- Chủ đề: Quan niệm về cái đẹp và cái thiện của nhà văn Nguyễn Tuân: Cái đẹp không thể chung sống lẫn lộn với cái xấu, cái ác.

- Chủ đề được thể hiện rõ qua cuộc gặp gỡ éo le giữa Huấn Cao và viên quản ngục.

c. Phân tích, đánh giá những nét đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm:

- Tình huống truyện độc đáo.

- Nghệ thuật miêu tả nhân vật ấn tượng.

- Sử dụng thành công thủ pháp đối lập, tương phản.

3. Kết bài: Tóm lược các nhận định trong phần thân bài, khẳng định giá trị của tác phẩm.

2. Nghị luận phân tích đánh giá tác phẩm Chữ người tử tù mẫu 1

Nguyễn Tuân (1910 - 1987) là người "suốt đời đi tìm cái đẹp", ông có phong cách sáng tác độc đáo tài hoa và uyên bác. "Chữ người tử tù" được biết đến là một trong những tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Nguyễn Tuân. "Chữ người tử tù" in trong tập truyện "Vang bóng một thời" được đánh giá là "một văn phẩm đạt tới sự toàn diện, toàn mĩ".

Truyện kể về cuộc gặp gỡ đầy éo le của Huấn Cao và viên quản ngục. Huấn Cao là một người có tài viết chữ rất đẹp nhưng do chống lại triều đình nên đã bị kết án tử hình. Tại nhà giam, Huấn Cao đã gặp viên quản ngục - một người thích "chơi chữ" và muốn xin chữ của ông để treo trong nhà. Huấn Cao được viên quản ngục biệt đãi nhưng vẫn dửng dưng. Tuy nhiên, sau khi hiểu ra tấm lòng của viên quản ngục, ông đã quyết định cho chữ và khuyên viên quản ngục nên về quê sống để giữ "thiên lương cho lành vững".

Chủ đề của tác phẩm "Chữ người tử tù" là quan niệm về cái đẹp và cái thiện. Với Nguyễn Tuân, "cái tài", "cái tâm" vốn không thể tách rời, cái đẹp không thể chung sống lẫn lộn với cái xấu, cái ác. Chủ đề được thể hiện qua cuộc gặp gỡ trong cảnh ngộ đặc biệt giữa Huấn Cao và viên quản ngục. Thời gian và không gian gặp gỡ của Huấn Cao và viên quản ngục rất đặc biệt, đó là vào những ngày cuối cùng trong cuộc đời Huấn Cao ở chốn ngục tù. Về quan hệ xã hội, họ là những kẻ đối nghịch với nhau, một người là tử tù - chống lại triều đình, một người là viên quản ngục - đại diện cho trật tự xã hội đương thời. Thế nhưng trên phương diện trên phương diện nghệ thuật, họ đều là những người say mê cái đẹp. Huấn Cao là nghệ sĩ tài hoa còn viên quản ngục là người coi trọng cái đẹp. Qua tình huống truyện, tác giả tác giả đã làm nổi bật bản chất của hai nhân vật là Huấn Cao và viên quan cai ngục. Huấn Cao là một người tài giỏi, tâm lương trong sáng nhưng lại bị cầm tù về nhân thân còn viên quan coi ngục là người say mê, yêu thích cái đẹp và coi trọng nhân tài nhưng lại chưa tìm cho mình một môi trường sống và làm việc thích hợp. Huấn Cao được miêu tả nổi bật ở vẻ đẹp tài năng với tài viết chữ và có lí tưởng sống cao đẹp. Tài năng của Huấn Cao được nhiều người biết tới "Tôi nghe ngờ ngợ. Huấn Cao! Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn La vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó không?". Mỗi nét bút không chỉ là sự kết tinh tinh hoa, tâm huyết mà còn là sự ký thác của những khát vọng mãnh liệt trong tâm hồn nên . Tài viết chữ đẹp của Huấn Cao ấy đã khiến cho những người đại diện cho trật tự xã hội phải ngưỡng mộ và phải xót xa khi Huấn Cao lĩnh án tử. Không chỉ có tài viết chữ đẹp, Huấn Cao là một người có lí tưởng sống cao cả, dám đứng lên chống lại xã hội đen tối, thối nát đương thời "Huấn Cao, ngoài cái tài viết chữ tốt, lại còn có tài bẻ khóa vượt ngục nữa đúng không?", "Huấn Cao lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thành gong cuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái. Then ngang chiếc gông bị giật mạnh, đập vào cổ năm người sau, làm họ nhăn mặt. Một trận mưa rệp đã làm nền đá xanh nhạt lấm tấm những điểm nâu đen". Viên quản ngục có ý nương nhẹ cho Huấn Cao thì ông "chằng chút nao lòng", nói những lời ngạo nghễ, bướng bỉnh mà không hề sợ bị đánh đập. Qua những chi tiết trên, chúng ta có thể thấy Huấn Cao là một người có khí phách kiên cường và bất khuất. Sở hữu một tài năng viết chữ vượt bậc nhưng Huấn Cao không vì quyền lực, vàng bạc mà ép mình viết chữ bao giờ. Sau khi ông nhận ra tấm lòng "biệt nhỡn liên tài" của viên quản ngục "Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ", Huấn Cao đã tự nguyện cho chữ.

Ngòi bút của nhà văn Nguyễn Tuân không chỉ hướng về Huấn Cao, viên quản ngục cũng được nhà văn khắc họa một cách rõ nét. Viên quản ngục là người coi trọng cái đẹp, cái tài. Tuy ông ở trong "đề lao", nơi mà con người sống bằng sự tàn nhẫn, lừa lọc nhưng viên quản ngục này vẫn là "một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ". Nghe danh Huấn Cao là người có tài viết chữ đẹp nên khi "nhận được phiến trát của Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường", ông đã biệt đãi Huấn Cao. Sau khi được Huấn Cao cho chữ và khuyên răn, viên quản ngục đã cảm động "vái người tử tù một cái". Điều này cho thấy mong ước được thoát khỏi chốn ngục tù của viên quản ngục.

Bên cạnh cách xây dựng tình huống truyện và nhân vật độc đáo, tác phẩm "Chữ người tử tù còn sử dụng thủ pháp đối lập, tương phản ở cảnh cho chữ - cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Nơi cho chữ là "Buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián", thời gian cho chữ là canh ba nửa đêm gợi cảm giác bí mật, thiêng liêng. Nhà văn đã đặt nhân vật vào trong một tình huống đối lập, tương phản gay gắt giữa ánh sáng và bóng tối. Đó là sự đối lập giữa bóng tối của ngục tù với ánh sáng của bó đuốc, tấm lụa và những con chữ. Người tử tù thì uy nghi, viên cai ngục lại khúm núm "Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng".

Tác phẩm "Chữ người tử tù" đã xây dựng thành công nhận vật Huấn Cao sự hội tụ của của cái tài và cái tâm. Với ngòi bút sắc sảo, nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo, tình huống truyện đặc sắc, tác phẩm đã đem đến cho người đọc những ấn tượng khó quên.

3. Nghị luận phân tích đánh giá tác phẩm Chữ người tử tù mẫu 2

Truyện "Chữ người tử tù" rút trong tập "Vang bóng một thời", một giai phẩm chưa đầy 2.500 chữ nhưng hàm chứa một dung lượng lớn. Chỉ có ba nhân vật và ba cảnh: Quản ngục và viên thơ lại đọc công văn nói về tử tù Huấn Cao; Huân Cao bị giải đến và sự biệt đãi của ngục quan đối với tử tù, cảnh Huấn Cao cho chữ trong nhà ngục. Cảnh nào cũng hội tụ cả ba nhân vật này.

Viên thơ lại là kẻ giúp việc giấy tờ cho ngục quan. Một con người sắc sảo và có tâm điền tốt. Mới đọc công văn và nghe ngục quan nói về Huấn Cao, y đã biểu lộ lòng khâm phục: "thế ra y văn võ đều có tài cả, chà chà". Sau đó lại bày tỏ lòng thương tiếc: "... phải chém những người như vậy, tôi nghĩ mà thấy thương tiếc". Sau nhiều lần thăm dò, thử thách, ngục quan đánh giá viên thư lại: "có lẽ lão bát này cũng là một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi. Một kẻ biết yêu mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn không phải là kẻ xấu hay là vô tình". Suốt nửa tháng tử tù ở trong buồng tối vẫn được viên thơ lại gầy gò "dâng rượu và đồ nhắm". Y đã trở thành kẻ tâm phúc của ngục quan. Sau khi nghe tâm sự của ngục quan "muốn xin chữ tử tù", viên thư lại sốt sắng nói: "Dạ bẩm, ngài cứ yên tâm, đã có tôi" rồi y chạy ngay đến trại giam đấm cửa thùm thùm gặp Huấn Cao. Nhờ y mà ngục quan xin được chữ tử tù. Trong cảnh cho chữ, viên thơ lại "run run bưng chậu mực". Đúng y là một người "biết yêu mến khí phách, biết tiếc, biết trọng người có tài". Nhân vật thơ lại chỉ là một nét phụ nhưng rất thần tình, góp phần làm rõ chủ đề tác phẩm.

Ngục quan là một khách tài tử chọn nhầm nghề. Giữa bọn người tàn nhẫn, lừa lọc thì ngục quan lại có "tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay" chẳng khác nào "một âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ". Lần đầu gặp Huấn Cao trong cảnh nhận tù, ngục quan có "lòng kiêng nể", "lại còn có biệt nhỡn đối riêng với Huấn Cao". Suốt nửa tháng trời, ngục quan bí mật sai viên thơ lại dâng rượu và đồ nhắm cho tử tù - Huấn Cao và các đồng chí của ông.

Lần thứ hai, y gặp Huấn Cao, nhẹ nhàng và khiêm tốn "muốn châm chước ít nhiều" đối với tử tù, nhưng đã bị ông Huấn miệt thị nặng lời, gần như xua đuổi, nhưng ngục quan vẫn ôn tồn, nhã nhặn "xỉn lĩnh ý" rồi lui ra.

Ngục quan là một nhà nho "biết đọc đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền", suối đời chỉ ao ước một điều là "có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do ông Huấn Cao viết". Ngục quan đang sống trong bi kịch: y tâm phục Huấn Cao là một người chọc trời quấy nước nhưng lại tự ti, "cái thứ mình chỉ là một kể tiểu lại giữ tù". Viên quản ngục khổ nhất là "có một ông Huấn Cao trong tay mình, mà không biết làm thế nào mà xin được chữ". Là quản ngục, nhưng lại không can đảm giáp mặt tử tù vì y cảm thấy Huấn Cao, "cách xa y nhiều quá". Tử tù thì ung dung, trái lại, ngục quan lại lo "mai mốt đây, ông Huấn Cao bị hành hình mà chưa xin được mấy chữ thì ân hận suốt đời mất". Bi kịch ấy cho thấy tính cách quản ngục là một con người biết phục khí tiết, biết quý trọng người tài và rất yêu cái đẹp. Y yêu chữ Huấn Cao, chứng tỏ y có một sở thích cao quý. Vì thế khi nghe viên thơ lại nói lên ước nguyện của ngục quan, Huấn Cao cảm động nói: "Ta cảm cái tấm lòng biệt nhân liên tài của các người. Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ". Như vậy, trong vị thế xã hội, ngục quan và tử tù là đối địch, còn trên lĩnh vực nghệ thuật, họ là tri âm. Huấn Cao trước lúc ra pháp trường đã tri ngộ một kẻ biệt nhỡn liên tài là ngục quan.

Trong cảnh cho chữ có một hình ảnh kì diệu: "ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ". Ánh sáng bó đuốc ấy chính là ánh sáng của thiên lương mà tử tù đang chiếu lên và lay tỉnh ngục quan. Chi tiết ngục quan "khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng" chi tiết ngục quan vái tử tù một vái, nước mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào nói: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh" là những chi tiết thú vị. Lúc sở thích nghệ thuật đã mãn nguyện cũng là lúc ánh sáng thiên lương soi tỏ, chiếu rọi tâm hồn. Một cái vái lạy đầy nhân cách, hiếm có.

Có thể, sau khi Huấn Cao bị giải vào Kinh thụ hình thì cũng là lúc ngục quan trả áo mũ "tìm về quê nhà mà ở" để giữ lấy thiên lương "cho lành vững" và thực hiện cái sở thích chơi chữ bấy nay? Nguyễn Tuân đã xây dựng ngục quan bằng nhiều nét vẽ có thần. Ngoại hình thì "đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu". Một con người ưa sống hằng nội tâm: cái đêm hôm trước đón nhận tử tù, ông sống trong trạng thái thanh thản, gương mặt ông ta "là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ". Trong một xã hội phong kiến suy tàn, chốn quan trường đầy rẫy kẻ bất lương vô đạo, nhân vật ngục quan đúng là một con người vang bóng. Nhân vật này đã thể hiện sâu sắc chủ đề tác phẩm.

Huấn Cao là một "tên giặc", một nhân vật bi tráng, cao đẹp, mang màu sắc lãng mạn.

Lúc đấu Huấn Cao được giới thiệu gián tiếp qua một tiếng đồn: "cái người mà vùng tỉnh ta vẫn khen...", "nhiều người nhắc nhỏm đến cái danh đó luôn...", "một tên tù có tiếng…" và "thầy có nghe người ta đồn...". Đó là một con người không phải tầm thường!

Ngục quan và viên thơ lại mới "văn kì thanh" mà đã tâm phục Huấn Cao. Họ trầm trồ: "người đứng đầu...", "người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp...", một tử tù lừng lẫy tiếng tăm "văn võ đều có tài cả.".

Lấy xa để nói gần, lấy bóng làm lộ hình, sử dụng lối tả gián tiếp... đó là bút pháp Nguyễn Tuân vận dụng sáng tạo để giới thiệu nhân vật Huấn Cao, tạo ra sự cuốn hút nghệ thuật kì diệu.

Là một nhà nho dám chọc trời quấy nước. Chí lớn không thành mà vẫn hiên ngang. Chết chém cũng chẳng sợ. Một tinh thần gang thép và bất khuất. Một cái "dỗ gông" trước cửa ngục. Một câu miệt thị ngục quan: "Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng tới quấy rầy ta". Không phải ai cũng có cái gan dám thách thức cường quyền bạo lực thế đâu!

Huấn Cao coi khinh vàng ngọc. Không vì vàng ngọc, vì quyền uy mà ông "ép mình viết bao giờ" Chữ thì quý thật! Nhất sinh ông mới viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường tặng ba người bạn thân. Không chỉ đẹp ở nét chữ, mà mỗi chữ, mỗi bức thư họa của Huấn Cao là một bức châm, thể hiện một lí tưởng tung hoành, một hoài bão, một đạo lí cao đẹp. Chữ của Huấn Cao cho thấy cái tài, cái tâm, cái tầm nhìn của kẻ sĩ chân chính mà ta ngưỡng mộ và kính phục.

Với Huấn Cao thì thiên lương là ngọn lửa, là "ánh sáng đỏ rực như ngọn đuốc kia. Nếu ngục quan tâm phục con người nghĩa khí, tài hoa thì Huấn Cao lại nể trọng con người biệt nhỡn liên tài. Suốt đời ông chỉ "cúi đầu vái lạy hoa mai" thế mà khi nghe tên thơ lại nói lên tâm sự của chủ mình muốn "xin chữ", Huấn Cao đã ân hận nói: "Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ". Cảnh "cho chữ" được miêu tả bằng bút pháp lãng mạn gợi lên một không khí thiêng liêng bi tráng. Phòng giam ẩm ướt bẩn thỉu, hôi hám. Lửa đuốc sáng rực. Tấm lụa trắng. Chậu mực thơm lắm. Ba cái đầu cúi xuống tấm lụa trắng. Huấn Cao hiện ra với vẻ uy nghi, hào hùng, cổ đeo gông, chân vướng xiềng, Huấn Cao vung bút viết. "những nét chữ vuông vắn rõ ràng" hiện lên rực rỡ trên phiến lụa óng. Tư thế đĩnh đạc ung dung. Mai kia ông đã bước lên đoạn đầu đài, nhưng đêm nay ông vẫn ung dung. Một cử chỉ "đỡ viên quản ngục đứng thẳng người dậy". Một lời khuyên: "Ta khuyên thầy quản nên thay đổi chỗ ở đi... thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, rỗi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi". Với Huấn Cao thì thiên lương là cái gốc của đạo lí, có giữ được thiên lương thì mới biết quý trọng tài năng và cái đẹp ở đời. Ở con người Huấn Cao, từ cử chỉ, hành động, đến ngôn ngữ, từ nét chữ đến phong thái - đều toát ra một vẻ đẹp vừa phi thường, vừa bình dị, vừa anh hùng, vừa nghệ sĩ, bên cạnh cái hùng có cái bi, tính vốn khoảnh mà lại trân trọng kẻ biệt nhỡn liên tài, coi thường vàng bạc quyền uy mà lại đề cao tình bằng hữu, đến chết vẫn nghĩa khí và giữ trọn thiên lương. Nguyễn Tuân đã dàn cảnh, tả người và kể chuyện, sử dụng những ẩn dụ so sánh, những tình tiết đan chéo, càng buộc vào nhau, tạo nên một không gian nghệ thuật cổ kính, bi tráng nâng nhân vật Huấn Cao lên một tầm vóc lịch sử. Văn học lãng mạn thời tiền chiến chỉ có một Huấn Cao đẹp hào hùng như vậy.

Đọc "Chữ người tử tù" ta càng thấm thía điều mà Vũ Ngọc Phan đã nói: "... văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thường thức". Nghệ thuật kể chuyện, cấu trúc tình tiết, lời thoại và độc thoại, khắc họa tính cách nhân vật,... hầu như không có một chi tiết nào thừa. Ba nhân vật cùng đồng thời xuất hiện. Cảnh cho chữ là cao trào, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Tất cả đều hướng về cái tài, cái đẹp, cái thiên lương. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt từ Hán Việt rất đắt (pháp trường, tử tù, tử hình, nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường , lạc khoản, thiên hạ, thiên lương, lương thiện, V.V...) tạo nên màu sắc lịch sử, cổ kính, bi tráng. Đúng Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ, rất lịch lãm uyên bác về lịch sử, về xã hội.

Hai câu văn: "Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ" và: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh" - đẹp như một bức châm trong các thư hoạ nghìn xưa lưu lại, cũng là bài học làm người sáng giá!

4. Nghị luận phân tích đánh giá tác phẩm Chữ người tử tù mẫu 3

Nhà thơ lừng danh người Mỹ Ralph Emerson từng có câu nói rất hay rằng: “Yêu cái đẹp là thường thức. Tạo ra cái đẹp là nghệ thuật. Nhưng biết trân trọng cái đẹp mới là người nghệ sĩ chân chính.” Có lẽ từ lâu nhà văn Nguyễn Tuân đã sớm thấm nhuần tư tưởng trên mà cả cuộc đời ông là một chặng đường say mê đi tìm cái đẹp thanh cao, cái đẹp của chuẩn mực tạo hoá. Tác phẩm Chữ người tử tù của ông đã khắc hoạ rất thành công chân dung vẻ toàn mỹ, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào thì nó vẫn luôn toả sáng và trường tồn với thời gian.

Nguyễn Tuân (1910 – 1987) xuất thân trong một gia đình Nho giáo, quê ông ở làng Mọc nay là phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Nguyễn Tuân là nhà văn lớn có đóng góp vô cùng quan trọng cho nền văn học Việt Nam hiện đại, cả đời ông say mê đi tìm cái đẹp trong cuộc sống để từ đó thổi hồn vào trong các tác phẩm của mình những làn gió mới, những vẻ đẹp nhân văn cao đẹp. Các tác phẩm chính của ông gồm có: Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1940), Sông Đà (1960),… Truyện ngắn Chữ người tử tù lúc đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng in năm 1939 tên tạp chí Tao Đàn, sau đó được in trong tập truyện Vang bóng một thời và đổi tên thành Chữ người tử tù. Hình tượng Huấn Cao – một con người tài hoa, lỗi lạc với ý chí hiên ngang, bất khuất, cho dù là chí lớn không thành nhưng ông cũng không bao giờ gục ngã, vẫn giữ cho mình tâm hồn thanh cao trước cảnh ngục tù tối tăm, u uất.

Thành công của một tác phẩm truyện ngắn là đến từ tình huống truyện đặc sắc, đó chính là chiếc chìa khóa thúc đẩy cốt truyện dâng lên cao trào như cách mà Nguyễn Minh Châu từng nói đó là: “Tình thế của câu chuyện, là khoảnh khắc mà trong đó sự sống hiện ra rất đậm đặc”. Chữ người tử tù cũng là một câu chuyện như thế, Nguyễn Tuân đã đặt nhân vật của mình vào nghịch cảnh trớ trêu, cuộc hội ngộ giữa hai thế lực đối lập. Một bên đại diện cho con người tài hoa khí phách, một bên là quyền lực tăm tối của xã hội phong kiến. Cuộc gặp gỡ diễn ra đầy kịch tính, lôi cuốn người đọc, cuối cùng vẻ đẹp thiên lương tao nhã đã thắng thế trước sự xã hội tàn bạo, xấu xa.

Chữ người tử tù xây dựng thành công tuyến nhân vật chính diện, họ là trung tâm đại diện cho cái đẹp thanh cao trong tâm hồn, dù ở trong hoàn cảnh nào, dù thực tại xã hội có dở bẩn ra sao cũng không thể nào làm vướng bẩn nhân cách thiên lương của họ. Trước tiên là hình tượng Huấn Cao – một vị anh hùng sa cơ, thất thế ông là người lãnh đạo nhân dân đứng lên đấu tranh đòi lại công bằng cho chính mình. Ấy thế mà trong con mắt của chế độ phong kiến ông lại bị gọi là kẻ “phản nghịch”, kẻ cầm đầu nguy hiểm cần phải tiêu diệt. Có ý kiến cho rằng Nguyễn Tuân sáng tạo hình tượng Huấn Cao dựa trên nguyên mẫu Cao Bá Quát – một người tài hoa, nghệ sĩ, tinh thần quả cảm và đặc biệt là có tài viết chữ đạt đến độ tuyệt mỹ. Huấn Cao là cách gọi kính trọng, là một người mang họ Cao giữ chức huấn đạo – chức quan trông coi việc học ở một huyện.

Nguyễn Tuân khắc hoạ vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao qua nhiều bình diện để thấy được cái vẻ đẹp thanh cao đạt đến chân – thiện – mỹ của một người tài hoa bậc nhất. Trước tiên, nhà văn miêu tả Huấn Cao là một người nghệ sĩ tài hoa, lừng danh khắp chốn. Ông xuất hiện gián tiếp trong câu chuyện của viên quản ngục và thầy thơ lại, là người mà “vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”, không những thế ông còn có tài “bẻ khoá và vượt ngục”. Huấn Cao hiện lên trong tác phẩm quả là một người “văn võ song toàn”, hội tụ tất cả những khí chất của một người anh hùng tài ba. Tác giả giới thiệu Huấn Cao với lối miêu tả gián tiếp là hoàn toàn có dụng ý khéo léo, chu toàn ông muốn để cho nhân vật của mình xuất hiện một cách tự nhiên mà không đường đột, từ đó cho người đọc thấy được hình tượng nhân vật phi thường tiếng thơm đã truyền đi khắp nhân gian, khi nhắc đến tên tuổi cả viên quản ngục hay thầy thơ lại đều đã từng nghe qua. Cái tài hoa, nghệ sĩ của ông Huấn cao còn được bộc lộ rõ nét nhất khi viên quản ngục bất chấp hiểm nguy, chỉ với hy vọng có được chữ của ông, chữ ông “đẹp lắm, vuông lắm” chỉ cần có một đôi câu đối của Huấn Cao treo trong nhà coi như là “y đã mãn nguyện” bội phần, dường như trên đời sẽ chẳng có gì có thể làm cho viên quản ngục hạnh phúc hơn thế nữa.

Huấn Cao còn là vị anh hùng với khí phách hiên ngang ngút trời, dù lâm vào cảnh tù đày đối diện với án tử nhưng ông chẳng một chút sợ hãi vẫn giữ cho mình nhân cách thanh cao, không nhún nhường trước cường quyền táo bạo. Trước lời giễu cợt của bọn lính cai ngục, Huấn Cao im lặng “lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng” một hành động dứt khoát như là lời cảnh báo chắc nịch của người tử tù với bọn nha sai hách dịch, cậy quyền. Trong ngục tù tăm tối ông thản nhiên, ung dung “nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình”, thật là hiếm có người tù nào sắp chết mà vẫn giữ thái độ điềm nhiên, bình thản được như Huấn Cao. Chẳng sợ cường quyền, khinh bạc chế độ xã hội tàn bạo dù biết trước sẽ phải đối đầu với một trận “lôi đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo” thế nhưng người anh hùng cũng chẳng thể dối lòng “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là ngươi đừng đặt chân vào đây” Câu nói thẳng thừng như gáo nước lạnh tạt thẳng vào bộ mặt phong kiến.

Nguyễn Tuân còn miêu tả người anh hùng kiên cường mang tấm lòng thiên lương cao cả. Huấn Cao từ thuở sinh thời không bao giờ ham phù hoa, danh lợi mà bán chữ. Đời ông cũng chỉ viết có “hai bộ tứ bình và một bức trung đường” cho những người bạn tri kỷ. Ông quan niệm cái đẹp thanh cao phải được trao cho đúng người mới phát huy được hết giá trị của nó. Huấn Cao đã bị cảm động trước sự đối đãi chân tình “biệt nhỡn liên tài” của chủ tớ Viên quản ngục. Tấm lòng nhân hậu không muốn phụ “một tấm lòng trong thiên hạ”.

Ngoài nhân vật trung tâm Huấn Cao, Nguyễn Tuân còn xây dựng thêm một tuyến nhân vật viên quản ngục, một người yêu thích cái đẹp, tâm hồn tài hoa nghệ sĩ nhưng lại bị lạc vào chốn nhơ bẩn, dung tục. Nhà văn xây dựng đồng thời hai nhân vật chính diện song song soi chiếu cho nhau tỏa sáng với vẻ đẹp tâm hồn tao nhã. Viên quản ngục dường như chọn nhầm nghề, ông là “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”. Như cách mà tác giả nói “Ông trời nhiều khi chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã”. Thật đáng trân trọng sống giữa một xã hội rối ren, loạn lạc mà vẫn giữ cho tâm hồn mình không vị vùi lấp trong bùn lầy, ông còn còn biết trân trọng cái đẹp, biết nể trọng người tài, là người dũng cảm bất chấp hiểm nguy.

Vào một đêm hoang vắng, tại trại giam tỉnh Sơn đã xảy ra “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Trong buồng giam tăm tối, chật hẹp, mùi ẩm mốc bốc lên, xung quanh là đầy nhưng mạng nhện giăng, mùi hôi thối của phân chuột, phân gián. Trong không khí khói tỏa, ngọn lửa đỏ rực của ngọn đuốc đang cháy hừng hực. “Một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh”, viên quản ngục “khúm núm”, thầy thơ lại “run run bưng chậu mực”, vị thế nhân vật dường như đổi dời người nắm quyền thế bỗng dưng khép nép, kính cẩn trước một tử tù. Cái đẹp không lẻ loi đơn độc, nó không tồn tại cùng cái xấu xa mà chiến thắng chúng, nhân đạo hoá những tâm hồn đang vướng bụi trần giúp họ thức tỉnh, tìm lại con người nhân nghĩa vốn có của mình.

Chữ người tử tù của tác giả Nguyễn Tuân là một thiên truyện đã đạt “gần tới sự toàn diện, toàn mỹ”. Tác phẩm thể hiện phong cách nghệ thuật tài tình của nhà văn, tạo dựng thành công tình huống truyện độc đáo, khắc họa tính cách nhân vật qua thủ pháp đối lập, tương phản gay gắt, ngôn ngữ trang trọng giàu hình ảnh sinh động. Qua truyện, tác giả đã khẳng định sự tồn tại vĩnh cửu của cái đẹp, thể hiện lòng yêu nước thầm kín của Nguyễn Tuân.

5. Nghị luận phân tích đánh giá tác phẩm Chữ người tử tù mẫu 4

Nhà văn lừng danh Mỹ, Ralph Emerson, từng phát biểu ấn tượng: "Thưởng thức cái đẹp là phong cách sống. Sáng tạo cái đẹp là nghệ thuật. Nhưng chỉ có người nghệ sĩ chân chính mới hiểu và trân trọng đúng giá trị của cái đẹp." Có vẻ như nhà văn Nguyễn Tuân đã sớm chìm đắm vào triết lý này, khi cuộc sống của ông trở thành một hành trình không ngừng tìm kiếm vẻ đẹp cao quý, đẹp theo chuẩn mực nghệ thuật. Trong tác phẩm "Chữ người tử tù," ông thành công khắc họa chân dung một tâm hồn toàn mỹ, luôn toả sáng và kiên cường trước thử thách của thời gian.

Nguyễn Tuân, sinh năm 1910, thuộc một gia đình Nho giáo, quê ở làng Mọc, nay là phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông ghi dấu ấn lớn trong văn học Việt Nam hiện đại, không ngừng khám phá cái đẹp trong cuộc sống để làm phong phú thêm cho những tác phẩm của mình. Các tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Tuân như "Một chuyến đi" (1938), "Vang bóng một thời" (1940), "Sông Đà" (1960),... đều thể hiện tầm quan trọng của cái đẹp trong sự nghiệp sáng tác của ông. Trong đó, truyện ngắn "Chữ người tử tù" nổi bật với việc khắc họa một vẻ đẹp toàn diện, tỏa sáng trong mọi tình huống.

Cốt truyện thành công thường đến từ tình huống đặc sắc, chính là "chìa khóa" thúc đẩy cốt truyện đạt đến cao trào, như tác giả Nguyễn Minh Châu đã chỉ ra: "Tình thế của câu chuyện, là khoảnh khắc mà trong đó sự sống hiện ra rất đậm đặc." "Chữ người tử tù" cũng không ngoại lệ, Nguyễn Tuân thông qua việc đặt nhân vật chính vào tình huống trớ trêu, đối mặt với sự đối kịch giữa hai thế lực. Cuộc gặp gỡ giữa nhân vật tài năng Huấn Cao và quyền lực tối tăm của xã hội phong kiến đã tạo nên một trận đấu kịch tính, cuốn hút người đọc. Và cái đẹp thiên lương, tao nhã cuối cùng đã chiến thắng trước sự tàn bạo, xấu xa của xã hội.

"Chữ người tử tù" không chỉ tập trung vào nhân vật chính Huấn Cao, mà còn xây dựng một nhân vật viên quản ngục, người yêu thích cái đẹp, tâm hồn nghệ sĩ, nhưng lại bị mất mát trong thế giới bẩn thỉu, đầy tệ nạn. Hai nhân vật này song song, tương phản với nhau, tỏa sáng bằng vẻ đẹp tâm hồn tao nhã. Nguyễn Tuân tài tình khi vẽ lên viên quản ngục, người giữ chức trách quản lý tù nhưng lại mang trong mình tâm hồn nhạy cảm của một nghệ sĩ. Ông miêu tả một hình ảnh đẹp giữa xã hội rối bời, làm cho người đọc cảm nhận được sự quý phái trong việc giữ gìn vẻ đẹp giữa bùn lầy. Điều này làm nổi bật cái đẹp vĩnh cửu, làm thức tỉnh tâm hồn con người, giúp họ tìm lại giá trị nhân nghĩa của mình.

Cuối cùng, "Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân là một tác phẩm thiên truyện đạt đến "gần tới sự toàn diện, toàn mỹ." Tác giả đã thể hiện phong cách nghệ thuật tinh tế, khéo léo xây dựng tình huống truyện, khắc họa tính cách nhân vật qua sự tương phản, ngôn ngữ trang trọng và hình ảnh sinh động. Qua câu chuyện này, Nguyễn Tuân khẳng định rằng cái đẹp tồn tại vĩnh cửu, thể hiện lòng yêu nước sâu sắc của mình.

6. Nghị luận phân tích đánh giá tác phẩm Chữ người tử tù mẫu 5

Nguyễn Tuân (1910 - 1987) là một người có cuộc sống "dành suốt để tìm kiếm vẻ đẹp", với phong cách sáng tạo độc đáo, tài năng tác phẩm và sự uyên bác trong việc sáng tác văn học. Trong số các tác phẩm xuất sắc của ông, "Chữ người tử tù" nổi tiếng và được coi là một kiệt tác đạt đến sự toàn diện và toàn mĩ trong tập truyện "Vang bóng một thời".

Câu chuyện xoay quanh cuộc gặp gỡ éo le giữa Huấn Cao, một tù nhân tài năng bị kết án tử hình, và viên quản ngục. Huấn Cao, với tài viết chữ tuyệt vời, đối mặt với viên quản ngục, một người yêu thích "chơi chữ" và muốn có chữ của ông để treo trong nhà. Mặc dù Huấn Cao được đối xử đặc biệt, nhưng ông vẫn giữ vững tâm hồn. Sau khi hiểu ra tấm lòng của viên quản ngục, Huấn Cao quyết định cho chữ và khuyên viên quản ngục về quê sống để giữ "thiên lương cho lành vững".

Chủ đề của "Chữ người tử tù" xoay quanh quan niệm về vẻ đẹp và thiện. Đối với Nguyễn Tuân, "cái tài" và "cái tâm" không thể tách rời, và vẻ đẹp không thể tồn tại cùng với xấu xí, ác độc. Tác phẩm thể hiện điều này qua cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao và viên quản ngục, hai cá nhân đối nghịch xã hội, nhưng đều đam mê với cái đẹp.

Bằng cách xây dựng nhân vật và tình huống độc đáo, "Chữ người tử tù" không chỉ tập trung vào Huấn Cao mà còn khắc họa đầy đủ những đặc điểm của viên quản ngục. Viên quản ngục, trong môi trường khắc nghiệt của ngục tù, vẫn là "một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ". Viên quản ngục biết đến Huấn Cao qua danh tiếng về viết chữ đẹp, và khi nhận được phiến trát từ Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường, ông đã biệt đãi Huấn Cao. Sau khi được chữ và lời khuyên từ Huấn Cao, viên quản ngục cảm động và thể hiện mong ước thoát khỏi ngục tù.

Ngoài ra, tác phẩm sử dụng thủ pháp đối lập, tương phản để tạo ra một không khí đặc sắc. Cảnh cho chữ, nơi Huấn Cao viết chữ, được miêu tả như một không gian tối tăm, chật hẹp và u ám, tạo nên một cảm giác bí mật và thiêng liêng vào canh ba nửa đêm. Điều này tạo ra sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa ngục tù và những con chữ, đồng thời thể hiện tình trạng đối lập giữa Huấn Cao và viên quản ngục.

Tác phẩm "Chữ người tử tù" không chỉ thành công trong việc hình dung nhân vật Huấn Cao mà còn khám phá sự hội tụ giữa tài năng và tâm hồn. Với nét bút sắc sảo, sự độc đáo trong xây dựng nhân vật và tình huống, tác phẩm mang lại những ấn tượng sâu sắc và khó quên cho người đọc. Hy vọng bài viết này đã giúp bạn hiểu rõ hơn về chủ đề và nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Tuân trong "Chữ người tử tù".

7. Nghị luận phân tích đánh giá tác phẩm Chữ người tử tù mẫu 6

Truyện "Chữ người tử tù" đươc rút từ tập "Vang bóng một thời" không chỉ là một tác phẩm ngắn với khoảng 2.500 chữ mà còn là một tác phẩm độc đáo, đầy ý nghĩa với sự phong phú và sâu sắc. Tác phẩm tập trung vào ba nhân vật chính: Huấn Cao - người tử tù, viên thơ lại và quản ngục, tạo nên một bức tranh tinh tế về sự tương tác giữa họ.

Viên thơ lại, người giúp việc giấy tờ cho quản ngục, không chỉ là một nhân vật phụ đơn thuần, mà là một con người sắc sảo và tâm hồn tốt. Viên thơ lại đã biểu lộ sự khâm phục khi đọc về Huấn Cao, nhưng đồng thời cũng tỏ ra lòng thương tiếc cho số phận của người tử tù. Nhân vật này được miêu tả là một người biết yêu mến khí phách, biết tiếc, và trọng người có tài. Sự hội tụ của ba nhân vật chính đã tạo nên một tầm quan trọng trong câu chuyện.

Ngục quan, mặc dù đang ở trong vị trí của quản ngục, lại có tâm hồn như một nhà nho biết đọc sách thánh hiền. Sự nhạy bén của ngục quan trong việc đánh giá Huấn Cao và viên thơ lại đã làm nổi bật tính cách đặc biệt của ông, không giống những người xung quanh mà đầy lòng biết yêu thương và trọng trách nghệ thuật.

Huấn Cao, như một "tên giặc" được giới thiệu thông qua lời đồn và tiếng tăm, không chỉ mang đến hình ảnh của một nhân vật bi tráng, cao đẹp mà còn là nguồn cảm hứng cho những người xung quanh. Tác phẩm không chỉ dừng lại ở việc mô tả sự mạnh mẽ của Huấn Cao mà còn vạch ra những chi tiết tinh tế về tâm hồn và tài năng văn chương của ông.

Bằng cách sử dụng những chi tiết như ánh sáng đỏ rực của đuốc, hình ảnh của ba đầu người chăm chú trên tấm lụa, và cảnh cho chữ đầy lãng mạn, tác giả đã tạo ra một không gian nghệ thuật đặc sắc, nâng cao giá trị của tác phẩm. Điều này thể hiện rõ nghệ thuật kể chuyện tinh tế và sáng tạo của Nguyễn Tuân, khiến người đọc không chỉ cảm nhận được sự hào hứng trong câu chuyện mà còn được đắm chìm trong không khí bi tráng và lịch sử của tác phẩm.

8. Nghị luận phân tích đánh giá tác phẩm Chữ người tử tù mẫu 7

Nhà văn lừng danh người Mỹ, Ralph Emerson, từng chia sẻ một câu nói ấn tượng: "Yêu cái đẹp là thường thức, tạo ra cái đẹp là nghệ thuật, nhưng biết trân trọng cái đẹp mới là đặc quánh của người nghệ sĩ thực sự." Tưởng như câu thoại này đã hoàn toàn nắm bắt tinh thần của người ta đối với cái đẹp, nhưng trong văn hóa Việt Nam, nhà văn Nguyễn Tuân lại được cho là đã "thấm nhuần tư tưởng" này từ rất sớm. Cuộc đời ông trở thành một hành trình không ngừng theo đuổi cái đẹp thanh cao, chuẩn mực tạo hoá. Công trình nổi tiếng của ông, "Chữ người tử tù," vừa là bức tranh chi tiết về vẻ đẹp tuyệt vời, vừa là tuyên ngôn về sự kiên cường và cao quý trong cuộc sống.

Nguyễn Tuân, người xuất thân từ một gia đình Nho giáo tại làng Mọc (phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội), đã là một nhà văn vĩ đại, góp phần quan trọng cho văn học Việt Nam hiện đại. Cuộc đời ông là một chuyến hành trình say mê, tìm kiếm cái đẹp để truyền cảm hứng và tâm huyết vào những tác phẩm của mình, như "Một chuyến đi" (1938), "Vang bóng một thời" (1940), "Sông Đà" (1960), và nổi bật là "Chữ người tử tù." Trong tác phẩm này, Nguyễn Tuân đã vẽ nên hình ảnh đẹp tuyệt vời của nhân vật Huấn Cao, một con người tài năng, kiên cường, và tràn đầy lòng nhân văn giữa những thách thức đen tối.

Chìm đắm trong tình huống truyện độc đáo, "Chữ người tử tù" là một câu chuyện kịch tính, lôi cuốn đến từ sự đối lập giữa những yếu tố đối lập như tài năng và quyền lực, cái đẹp và xấu xa. Nguyễn Tuân đã thực hiện điều này thông qua việc đặt nhân vật chính, Huấn Cao, vào bối cảnh trớ trêu, nơi mà sự gặp gỡ giữa tài năng và sự thù địch của xã hội phong kiến diễn ra. Sự kiện này được mô tả một cách kịch tính, hấp dẫn, khiến người đọc không thể rời mắt. Cuối cùng, vẻ đẹp tinh tế và thanh lịch đã chiến thắng trước sự tàn bạo và đen tối của xã hội.

Ngoài Huấn Cao, Nguyễn Tuân còn tạo dựng một nhân vật khác, viên quản ngục, là người yêu thích cái đẹp nhưng lại bị mắc kẹt trong thế giới đen tối và bẩn thỉu. Viên quản ngục và Huấn Cao, hai nhân vật chính, đồng loạt tỏa sáng bằng vẻ đẹp tâm hồn tinh tế của họ. Tuy viện quản ngục đã "chọn nhầm nghề," nhưng ông vẫn giữ được tâm hồn trong trẻo giữa loài người lạc lõng và bụi bặm. Trong môi trường tăm tối và đầy rẫy những đau khổ, vẻ đẹp không chỉ tồn tại mà còn trở nên quý giá hơn bao giờ hết, giúp những tâm hồn mất mát tìm lại định hình và giác ngộ những giá trị nhân văn. "Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân là một tác phẩm nghệ thuật toàn diện, thể hiện lòng yêu nước sâu sắc và đậm chất nhân đạo của tác giả.

Chia sẻ, đánh giá bài viết
1
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Văn mẫu lớp 10

    Xem thêm