Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Cảm nhận của anh chị về tâm trạng của Thúy Kiều qua đoạn trích: Chiếc vành với bức tờ mây…. Rưới xin giọt nước cho người thác oan

Cảm nhận của anh chị về tâm trạng của Thúy Kiều qua đoạn trích: Chiếc vành với bức tờ mây…. Rưới xin giọt nước cho người thác oan

14 câu thơ giữa của bài trao duyên đã cho ta thấy được tâm trạng của Thúy Kiều là khổ đau. Văn mẫu lớp 10: Cảm nhận của anh chị về tâm trạng của Thúy Kiều qua đoạn trích: Chiếc vành với bức tờ mây…. Rưới xin giọt nước cho người thác oan được VnDoc.com tổng hợp và sưu tầm gồm các bài văn mẫu lớp 10 hay dành cho các bạn học sinh tham khảo, đồng thời hiểu thêm về tâm trạng của Thúy Kiều. Sau đây là tài liệu mời các bạn tham khảo.

Để tiện trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm về giảng dạy và học tập các môn học lớp 10, VnDoc mời các thầy cô giáo, các bậc phụ huynh và các bạn học sinh truy cập nhóm riêng dành cho lớp 10 sau: Nhóm Tài liệu học tập lớp 10. Rất mong nhận được sự ủng hộ của các thầy cô và các bạn.

Dàn ý Cảm nhận của anh chị về tâm trạng của Thúy Kiều

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Nguyễn Du, tác phẩm Truyện Kiều, đoạn thơ Trao duyên và 16 câu thơ giữa (Chiếc vành với bức tờ mây…Rưới xin giọt nước cho người thác oan.)

Lưu ý: học sinh tự lựa chọn cách dẫn mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào năng lực của bản thân.

2. Thân bài

“Chiếc vành với bức tờ mây,
……………………………..
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên”

Sau khi Vân đồng ý nhận mối duyên của mình, Kiều mang trao lại em những kỉ vật của mình với chàng Kim. Kiểu sẽ thực sự ghi nhớ ơn nghĩa nếu Vân và Kim Trọng nên duyên vợ chồng.

Thật đau đớn và xót xa khi người mình yêu nên duyên cùng chính em gái mình, ấy thế mà, với Kiều, đấy lại là một ơn nghĩa mà Vân làm cho cô khiến cô ghi nhớ mãi.

“Mai sau dù có bao giờ
………………………….
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”

Tuy rằng, Kiều sẽ phải ra đi, nhưng dù còn sống hay khi không còn trên đời nữa, cô vẫn luôn hướng về nhà, về nơi có cha mẹ, có các em và có chàng Kim.

Người con gái ấy đã nghĩ đến trường hợp xấu nhất khi cô chỉ còn là “linh hồn mang nặng lời thề” trở về nhà, cô dặn Vân hãy rảy xin cho cô chén nước để linh hồn cô được siêu thoát.

Đến đây, nỗi xót xa của nàng Kiều dường như bị đẩy lên một cao trào mới. Những suy tư ngổn ngang đè nặng lên vai một cô gái vốn có cuộc sống thanh bình.

Duyên gãy, phải đi xa gia đình, bán thân thành một người rẻ mạt làm Kiều không tránh nỗi chua xót.

3. Kết bài

Khái quát lại nội dung, nghệ thuật của 16 câu thơ; đồng thời khái quát lại giá trị của đoạn thơ và cả tác phẩm.

phân tích nhân vật thúy kiều

Văn mẫu Cảm nhận của anh chị về tâm trạng của Thúy Kiều

Cảm nhận của anh chị về tâm trạng của Thúy Kiều - Mẫu 1

“Truyện Kiều” là tác phẩm có “Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” bởi mọi cung bậc cảm xúc, mọi biến thiên của đời sống con người đều được thể hiện một cách sinh động dưới ngòi bút Nguyễn Du. Đoạn trích "Trao duyên" đã thể hiện sự dằn vặt, nỗi lòng đau đớn của nàng Kiều trong giây phút trao kỷ vật cho Thúy Vân.

Có thể nói ở phần thơ đầu con người lý trí đã dồn nén con người tình cảm trong Thuý Kiều để thuyết phục Thuý. Cơn sóng lòng lúc trước đang trào dâng có lẽ giờ đã lắng xuống. Tâm trạng Thuý Kiều cũng đã nhẹ nhõm, thanh thản phần nào. Kiều làm nốt cái phần việc cuối cùng và khó khăn nhất là trao kỷ vật cho Vân:

“Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ vật này của chung.”

“Tờ mây”, “chiếc vành” là vật dùng để thề ước, là sự chứng thực cho mối tình đôi lứa Kim Trọng - Thúy Kiều. Đó đều là những vật hữu hình, nhưng nó lại là tiếng nói bền bỉ, lặng thầm của những khái niệm vô hình - giây phút gặp gỡ và thề nguyền giữa Kim và Kiều. Cái bối rối trong sự phân chia của Thúy Kiều giữa “vật này” với “duyên này”. Kỷ vật có thể là chung, nhưng tình yêu của con người thì mấy ai sẻ chia? Hoài Thanh đã từng viết: “Của chung là của ai? Bao nhiêu đau đớn trong hai tiếng đơn sơ!”. Rõ ràng, Kiều là người khẩn khoản, van nài em nhận lời trao duyên của mình, vậy mà giờ Kiều lại thấy mình như là kẻ bị mất, coi mình như là người mệnh bạc. Câu thơ như tiếng khóc nghẹn ngào của Kiều!

Những kỷ vật đã làm sống lại tình yêu mãnh liệt trong lòng Thuý Kiều, Nguyễn Du cuối cùng vẫn để Kiều trở lại là người con gái yếu đuối bị dòng xoáy tâm lí cuốn vào nỗi đau đớn nhất:

“Dù em nên vợ nên chồng,

Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên

Mất người còn chút của tin,

Phim đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

Kiều day dứt và tiếc nuối đến mức nhắc đi nhắc lại về tương lai nên duyên vợ chồng giữa Kim Trọng và Vân. Như vậy, nghĩa cho Kim Trọng đã trả, Vân đã có hạnh phúc cho mình, nàng cũng đã báo hiếu cho cha mẹ. Nhưng nàng vẫn không thanh thản vì hạnh phúc cuộc đời nàng giờ đã thuộc về người khác. Cây đàn hồ ngày nào đàn cho Kim Trọng và mảnh trầm hương ngày nào từng chứng kiến lời thề cũng để lại cho em như là “của tin”. Kiều chỉ có thể trao duyên còn tình nàng vẫn không thể trao, nàng không muốn chấp nhận thực tại ấy, nàng đau đớn đến nỗi nghĩ tới cái chết. Chữ “ngày xưa” vang lên đầy chua xót, tình yêu ấy đẹp đến nỗi ngỡ như hôm qua vẫn là ngày chúng ta cùng ước nguyện hẹn thề.

Sự mất mát ập đến trong lòng Kiều, một bên là hạnh phúc nên vợ nên chồng của em, một bên là bất hạnh của nàng, một bên là “mất mát” người yêu với một bên là “còn chút của tin”, một bên là tương lai mờ mịt như cõi chết với một bên hiện tại khổ đau tan vỡ:

“Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”

Kiều đã tuyệt vọng tột cùng, chẳng còn hy vọng nào cho tình yêu và số phận của mình. Đoạn thơ như một lời chiêu hồn buồn thẳm, một ý thơ khác hẳn với lúc bắt đầu trao duyên. Tác giả Nguyễn Du đã sử dụng một loạt từ ngữ, hình ảnh, điển tích với tần suất dày đặc: “đốt hương”, “ngọn cỏ”, “lá cây”, “hiu hiu gió”, “hồn nặng lời thề”, “nát thân bồ liễu”, “dạ đài”, “cách mặt khuất lời”, “người thác oan”. Bức tranh số phận của Kiều như hiện rõ trước mắt người đọc, có lẽ nàng đã tự ý thức được về bi kịch tình yêu tan vỡ và bi kịch thân phận trôi nổi của mình. Nàng cảm thấy mình thật đáng thương và tội nghiệp, cớ sao mình lại phải hứng chịu nỗi đau như vậy. Cuộc sống cõi âm, đầy tâm linh hiện lên đầy u ám và tràn đầy oan khuất trong những vần thơ. Lời thề, lời hẹn ước mặc dù đã được trao cho em thay mình trả nhưng không có nghĩa là cô đã hoàn toàn trút bỏ, lãng quên. Thậm chí kể cả khi đã chết thì vẫn một lòng một dạ “mang nặng lời thề”.

Dự cảm được tương lai đầy bất hạnh của mình, Thúy Kiều tha thiết dặn em:

“Dạ đài cách mặt khuất lời

Rưới xin giọt nước cho người thác oan”

“Dạ đài” là cõi âm tăm tối. Kiều tự cho rằng mình sẽ thuộc về chốn âm ty địa ngục. Nhưng dù có “cách mặt khuất lời” tức là sẽ không thể thấy hay nghe được tiếng nói của nhau do âm dương cách biệt, thì Vân hãy cứ rưới chén nước “thác oan” cho Kiều. Từ “thác oan” cho thấy sự ấm ức, oan uổng lắm của Kiều nên sau khi chết oan hồn bi kịch ấy không thể siêu thoát. Thế mới thật sự là giằng xé, thật sự là bi kịch của một người con gái mười tám đôi mươi!

Chỉ với mười bốn câu thơ, Nguyễn Du khắc họa đầy bi kịch và đau đớn về thân phận người phụ nữ hồng nhan bạc mệnh trong xã hội phong kiến. Đó không chỉ là tiếng khóc của Kiều mà đó chính là “tiếng khóc vĩ đại” của Nguyễn Du, như Xuân Diệu đã từng nói: “Truyện Kiều là một tiếng khóc vĩ đại… Nguyễn Du đã nhìn thấy, đã cảm xúc, đã tổng kết hàng vạn vạn đau khổ của người đời dưới chế độ phong kiến suy đồi”.

Cảm nhận của anh chị về tâm trạng của Thúy Kiều - Mẫu 2

Trước lời nói có lý, có tình thiết tha của Thúy Kiều, Thúy Vân chỉ còn biết im lặng lắng nghe và như thế có nghĩa là nàng chấp nhận. Đến đây Thúy Kiều mới nhẹ lòng và nàng lấy kỉ vật tình yêu giữa mình với Kim Trọng ra trao cho em gái:

Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.

Nếu như ở đoạn trên, Kiều kể mối tình cho em nghe bằng giọng điệu cố lấy vẻ bình tĩnh thì đến lúc này, trao lại kỉ vật cho em, nàng cảm thấy đã mất hết nên không thể kìm nén được tình cảm của mình nữa, trái tim đa cảm bắt đầu lên tiếng. Nàng nói: Chiếc vành với bức tờ mây vẫn bằng tiết tấu của mấy câu thơ trên, nhưng đến câu: Duyên này thì giữ vật này của chung nghe như đã có tiếng nấc nghẹn ngào ở trong đó. Duyên này là duyên giữa Thúy Vân với Kim Trọng, phần nàng đã hết. Duyên chị đã trao lại cho em, nhưng kỉ vật này xin em hãy coi có một phần của chị, nó là của chung. Rõ ràng lí trí buộc nàng phải dứt tình với chàng Kim nhưng tình cảm của nàng thì không thể.

Mối tình đầu thơm, tho, ngọt ngào nhường ấy, bỗng chốc bảo quên, quên làm sao được? Gửi lại trong chút kỉ vật này vậy. Giữa lúc tột đỉnh đau thương, Kiều vẫn cố tìm lấy một chút an ủi. Sau đó, Kiều để mặc cho tình cảm tuôn tràn. Nàng nói với em bằng tiếng nói khác của lòng mình. Ngôn ngữ nàng không còn cái mạch lạc, khúc chiết của lý trí nữa mà thuần là của tình cảm, của cả ảo giác. Càng nói càng xót xa cho duyên phận bất hạnh của mình. Nàng nói rõ mình mệnh bạc, tình mình mất đi và bao nhiêu nỗi niềm ngày xưa nay chỉ còn có phím đàn với mảnh hương nguyền:

Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.

Động đến tương lai chắc chắn mù mịt, nàng đâu còn giữ được sự yên ổn trong lòng phút giây trước đó. Như người lội nước hụt chân rớt xuống vực sâu, Kiều chới với không biết bám víu vào đâu. Kiều tưởng tượng đến lúc Vân và chàng Kim nên vợ nên chồng, đến cõi hư không mà nàng chỉ là một mảnh hồn oan vật vờ theo ngọn gió hiu hiu trên ngọn cỏ lá cây nhưng vẫn vướng chặt với tiếng tơ trên phím đàn và mùi hương của mảnh trầm ngày xưa và vẫn còn mang nặng lời thề, lời nguyền nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai cho người. Nàng đinh ninh mình sẽ là một hồn oan trong cõi chết và dặn em rưới cho giọt nước làm phép tẩy oan.

Có mâu thuẫn không? Trên kia Thúy Kiều đã chẳng nói là nếu được Vân giúp cho thì dù thịt nát xương mòn nàng vẫn ngậm cười chín suối là gì? Nghĩa là trả được món nợ tình, nàng sẽ hết giày vò vì đã lo cho người yêu chu tất. Thế mà chỉ trong giây lát tưởng tượng nàng đã trở lại với bao nỗi xót xa còn nặng nề hơn trước. Chút yên lòng đã bay đâu mất!

Đúng là có mâu thuẫn nhưng không phải trước sau hoàn toàn chỉ có một vấn đề. Trước, nàng đau khổ vì người; nay lo cho người đã xong, nàng mới nghĩ đến mình và thấy mình mệnh bạc, thấy mình sẽ mất tất cả. Nàng không chỉ chới với trong tương lai mịt mù, oan nghiệt. Nàng không còn ở trạng thái tỉnh táo bình thường mà như nửa tỉnh nửa mê, nửa phần là người sống, nửa phần là hồn ma. Và tuy vẫn đối thoại với Vân nhưng lời nàng phảng phất như lời từ cõi bên kia vọng về.

Đoạn thơ cùng chợt đổi giọng. Hình ảnh âm điệu như chập chờn bay hết nét thật, có cái gì đó thật hư ảo; thời điểm không xác định (mai sau, bao giờ), không khí linh thiêng (đốt lò hương, so tơ phím của người xưa để lại) hình ảnh phất phơ, ma mị (ngọn cỏ lá cây, hiu hiu gió...) Tất cả đều nói lên rằng Kiều tiếp tục khổ đau và càng khổ đau gấp bội.

Cảm nhận của anh chị về tâm trạng của Thúy Kiều - Mẫu 3

Có thể nói Nguyễn Du là bậc thầy trong nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật. Tài năng ấy của ông được thể hiện xuyên suốt trong tác phẩm "Truyện Kiều", tiêu biểu nhất là ở đoạn trích "Trao duyên". Đoạn trích này đã thể hiện những tâm trạng, cung bậc cảm xúc của Thúy Kiều khi cậy nhờ Thúy Vân "chắp mối tơ thừa" với Kim Trọng. Và nó thể hiện rõ nét hơn ở 14 câu giữa của bài Trao khi Kiều trao kỉ vật và dặn dò Thúy Vân.

Như ta thấy, tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng đang ở giai đoạn đẹp nhất thì bỗng phải chia lìa vì Kiều bán mình cứu cha và em. Hai người đã có một cuộc thề nguyền đầy thiêng liêng và lãng mạn nhưng trong hoàn cảnh gia đình gặp gia biến, phận làm con Kiều lựa chọn chữ hiếu để báo đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ.

Và nàng trao lại mối tình duyên cho Thúy Vân mà trong lòng ngổn ngang những tâm trạng, cảm xúc. Trao lại thứ gì đó thuộc về vật chất thì còn dễ hình dung, đong đếm nhưng Thúy Kiều lại trao duyên, có mấy ai định hình được thứ tình cảm này?

Những kỉ vật của tình yêu như chiếc vòng đeo tay và tờ giấy ghi lời thề nguyền của hai người Thúy Kiều đều đem trao lại để Thúy Vân giữ:

"Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ vật này của chung"

“Chiếc vành - Tờ mây” là vật thề ước, là sự chứng thực cho mối tình đôi lứa Kim Trọng- Thúy Kiều. Có hai vật đó Kiều mới có thể đường hoàng bên chàng Kim đến “đầu bạc răng long”. Nhưng mất nó đồng nghĩa Kiều với Kim không còn là gì cũng như tình yêu sẽ đổ vỡ không thể hàn gắn. Bởi vậy nên mỗi kỉ vật trao đi như từng mảnh tình yêu cuối cùng rời khỏi tay Kiều. Giọng điệu nghe ra bình thường như vẫn có tiếng nấc nghẹn ngào sau từng câu câu chữ. Trao đi “duyên này…vật này” cho Vân nhưng lại kết bằng hai chữ “của chung”.

Tình yêu với Kiều là sự sống, là hơi thở nên đâu nói bỏ là dứt được. Nguyễn Du cuối cùng vẫn để kiều trở lại là người con gái yếu đuối nằm trong dòng xoáy tâm lí thường tình, khi mất đi thứ gì càng quan trọng với mình thì càng ý thức mạnh mẽ về giá trị thực của nó. Cho nên “của chung” mới vang lên trong Kiều với bao nhiêu giằng xé, mâu thuẫn. Dường như lý trí nàng đã quyết định dứt bỏ nhưng trái tim thì không thể tuân theo. Giống như kỉ vật đã trao nhưng vẫn níu kéo tình yêu, kỉ niệm cho riêng mình.

Nhưng cuộc đời bể dâu với những “sóng gió bất kì” đã khiến Kiều rơi vào bi kịch của sự tuyệt vọng do chính mình tạo ra khi nhìn vào phía trước vẫn hoàn hảo như vậy, chỉ thiếu bóng mình.

"Dù em nên vợ nên chồng,

Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên

Mất người còn chút của tin,

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa"

Kiều day dứt láy đi láy lại về tương lai nên duyên vợ chồng giữa Kim Trọng và Vân. Như vậy, nghĩa cho Kim Trọng đã trả, Vân đã có hạnh phúc cho mình, nàng cũng đã báo hiếu cho cha mẹ. Nhưng nàng vẫn không thanh thản vì hạnh phúc cuộc đời nàng là chàng Kim đã thuộc về người khác. Tương lai đã không có chỗ cho Kiều. Nàng cô độc, bơ vơ bên lề hạnh phúc. Nàng sẽ chẳng còn lại gì, thân “bạc mệnh” này chỉ mong chờ vào “chút của tin” cùng quá khứ xưa để được tưởng nhớ không bị lãng quên. Hiện tại vẫn còn đây “chút của tin”, nhưng đó chỉ còn là của “ngày xưa”, là vật gợi lại kí ức trong quá khứ của Kiều, còn mai sau sẽ là của Vân. Chữ “ngày xưa” xa xôi vang lên chua xót gọi về mối tình đẹp mới như ngày hôm qua giữa Kim Kiều. Lúc này, dường như nhớ về kỉ niệm tình yêu ấm áp “phím đàn với mảnh hương nguyền” kia lại càng khiến Kiều đau đớn hơn.

Dấn thân sâu vào nỗi tuyệt vọng, Kiều cảm thấy tương lai sống hay chết cũng không mấy khác biệt:

"Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

Trông ra ngọn cỏ lá cây,

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai

Dạ đài cách mặt khuất lời

Rưới xin giọt nước cho người thác oan"

Cho dù Thúy Kiều có "thịt nát xương mòn" thì cũng mong rằng Thúy Vân và Kim Trọng không quên mình. Nàng còn chỉ cho Thúy Vân biết dấu hiệu để nhận ra khi mình trở về: "Thấy hiu hiu gió thì hay chị về". Một con người nặng tình nặng nghĩa như Thúy Kiều không thể lãng quên lời thề của mình với chàng Kim nhanh như vậy được. Ngay cả khi là một linh hồn chốn cửu tuyền thì nàng vẫn "mang nặng lời thề". Đó là lời thề thủy chung son sắt trọn đời bên nhau cùng Kim Trọng. Lời thề thủy chung ấy nàng sẽ khắc cốt ghi tâm cả cuộc đời không quên. Thế giới cõi âm và thế giới ở trần gian "cách mặt khuất lời" nên Thúy Kiều chỉ xin Thúy Vân "rưới xin giọt nước" cho linh hồn oan khuất của mình. Thúy Kiều đang còn sống mà tâm trí thì nghĩ về cái chết - cái chết oan khuất của một con người mệnh bạc.

Qua đây ta thấy hậu quả mà xã hội xưa đã đày đọa con người ta đến đường cùng, cướp đi quyền yêu và hạnh phúc, khiến cho một cô gái “xuân xanh” như Kiều lại bế tắc nghĩ đến cái chết. Nàng vùng vẫy vọng tuyệt vọng, muốn biết tại sao mình lại phải hy sinh thân mình, trao duyên, chịu đựng giằng xé vì một lỗi lầm không phải của ai cả. Sự không cam lòng ấy lại chẳng thể chia sẻ với ai, không ai thấu hiểu nên càng bế tắc.

Cả cuộc đời, Kiều vẫn luôn sống trong sự trăn trở với những câu hỏi xem mình làm vậy có đúng hay không. Và ngòi bút nhân đạo Nguyễn Du đã nhìn thấy sự khốn khổ đó của con người trong xã hội cũ và để sự tự ý thức về cuộc đời, số phận, phẩm chất lần đầu tiên được bộc lộ rõ ràng, quyết liệt như thế. Nhà thơ đã lên tiếng che chở cho nhu cầu hạnh phúc cơ bản, vốn có của con người.

Cảm nhận của anh chị về tâm trạng của Thúy Kiều - Mẫu 4

Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, ông đã từng sống gian khổ ở nhiều vùng quê khác nhau nên đã chứng kiến những bất công ngang trái của cuộc đời đặc biệt là người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Sau khi đi sứ Trung Quốc, Nguyễn Du đã sáng tạo nên kiệt tác ''Truyện Kiều''. Đoạn trích "Trao Duyên" trong Truyện kiều là một đoạn trích thể hiện bi kịch tan vỡ, dang dở tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng. Nếu như ở những câu đầu Thúy Kiều nhờ cậy em gái Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng thì ở 14 câu tiếp, Thúy Kiều đầy xót xa đau đớn mà trao kỉ vật cho Thúy Vân và nhờ cậy em truyện mai sau.

Khi tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng đang diễn ra tươi đẹp và đằm thắm thì thình lình tai biến lại dồn đến. Sau khi thu xếp mọi việc bán mình để cứu cha và em, ngày mai nàng sẽ phải theo Mã Giám Sinh rời khỏi nhà. Đêm ấy, Kiều không đành lòng với tình cảnh dang dở cùng Kim Trọng nên cuối cùng, sau khi tìm cách thuyết phục và trao duyên cho em, khi thấy Vân đã cảm thông, Thúy Kiều đem từng kỉ vật trao tình yêu giữa mình và Kim Trọng ra trao cho em gái:

''Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ vật này của chung

Dù em nên vợ nên chồng

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên

Mất người còn chút của tin

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa''

Thúy Kiều từ từ trao lại những kỉ vật tình yêu "chiếc vành", ''bức tờ mây'' rồi đến ''phím đàn'', ''mảnh hương nguyền'' cho Thúy Vân. Kiều đưa cùng một lúc nhưng là đưa từng món một. Mỗi món đều gắn với một kỉ niệm, mang một ý nghĩa của mối tình nồng nàn. Tưởng như Thúy Kiều vừa trao vừa ngập ngừng ngắm nghía lại từng kỉ vật, nhớ lại từng kỉ niệm với nỗi lòng nuối tiếc khôn nguôi cho mối tình tươi thắm ngày nào. Với Vân, có thế đó là những vật vô tri, nhưng với Kiều mỗi kỷ vật là cả một trời ký ức, là nhân chứng cho một tình yêu hạnh phúc, là lời thề nguyền gắn bó trăm năm... gắn liền với những ngày đẹp nhất đời Kiều. Khi đã gửi gắm tất cả lại cho Thúy Vân, nàng căn dặn em ''Duyên này thì giữ vật này của chung''.

''Duyên này'' là duyên giữa Thúy Vân và Kim Trọng, chứ phần của Kiều kể như đã hết. Chị đã trao duyên lại cho em nhưng những kỉ vật này thì xin em hãy coi là ''của chung'' bởi còn có một phần là của chị. Lúc Kiều kể về mối tình của mình cho Vân nghe, giọng điệu của nàng vẫn bình tĩnh, nhưng đến lúc trao kỉ vật, nàng cảm thấy mình đã mất hết nên không thể kìm nén được cảm xúc đang dậy sóng trong lòng. Nàng tiếc nuối, đau đớn khi có người thứ ba chia sẻ. Trái tim bắt đầu lên tiếng. Cảnh ngộ bắt Kiều phải ''lỗi thề'' nhưng trong đáy lòng nàng đâu dễ để có thể nguôi đi được lời thề xưa và đoạn tuyệt tình cũ được. Đầy xót xa sầu tủi, trong đau đớn tận cùng, Thúy Kiều phải chăng vẫn giữ lấy một chút an ủi nhỏ nhoi.

Những tưởng rằng trao xong ''duyên'' là lòng nhẹ bẫng không còn vướng bận, con đường phía trước sẽ không còn gì níu kéo nhưng ai ngờ trong tâm hồn Kiều lại chứa đựng bao nhiêu sự giằng xé, cố níu kéo, đau đớn. Rõ ràng, lí trí bắt buộc Kiều phải dứt tình với chàng Kim nhưng tình cảm của nàng lại không thể tuân theo một cách dễ dàng. Nỗi đau như đọng lại ở câu thơ "dù em nên vợ nên chồng" - Kiều tự thấy mình đáng thương, mình là người mệnh bạc để người khác phải xót xa thương hại. ''Mất người còn chút của tin'' Kiều chỉ có thể trao duyên còn tình nàng vẫn không thể trao, nàng không thanh thản, nàng đau đớn đến nỗi nghĩ tới cái chết. Nàng dùng dằng, gửi gắm tất cả lại cho Thúy Vân rồi tâm trạng mâu thuẫn thật sự trong lòng nàng mới bùng lên mạnh mẽ nửa muốn trao, nửa muốn giữ. Nàng đã mất bao công sức để thuyết phục em nhưng chính lúc em chấp nhận cũng là lúc Kiều bắt đầu chơi vơi cố níu tình yêu lại với mình. Sau đó Kiều để mặc cho tình cảm tuôn tràn.

Nhưng có điều đặc biệt nằm ở chữ ''giữ'' và ''của chung''. ''Giữ'' không có nghĩa là trao hẳn mà chỉ là đưa cho em ''giữ'' hộ. Còn chữ ''của chung'' lại thể hiện tâm lí là Kiều không đành lòng trao tất cả lại cho em. Những chữ đó chứng tỏ tình yêu của nàng và Kim Trọng thật nồng nàn, sâu sắc. Tuy nhiên, Kiều vẫn trao duyên cho em, khẳng định Thúy Kiều đã đặt hạnh phúc của người mình yêu lên trên hết. Đoạn thơ là một tiếng nấc chứa đầy tâm trạng của nàng khi ấy, khiến người đọc cảm thấy đau lòng. Đó cũng là tài năng miêu tả tâm lí độc đáo của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du

Quá đắng cay cho số phận của mình, thấy rõ là mình mệnh bạc, tất cả đã thành quá khứ, Thúy Kiều nghĩ đến một mai sau mù mịt, đau thương khi mình đã chết. Hơn lúc nào hết, ý nghĩ cứ hiện ra và rõ nét dần

''Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai''

Đoạn thơ như một lời chiêu hồn buồn thẳm, một hơi thơ khác hẳn với lúc bắt đầu Trao duyên. Đây vẫn là những lời tâm sự của Thúy Kiều với Kim Trọng mà sao lời lẽ bất chợt trở nên xa lắng, mù mịt, phảng phất ma mị như từ cõi bên kia vọng về đến thế. Hàng loạt từ nói về cái chết: âm điệu chập chờn, hư ảo, thời điểm không xác định ''mai sau'', ''bao giờ'', không khí linh thiêng ''đốt lò hương'', ''so tơ phím'', hình ảnh phất phơ, ma mị ''ngọn cỏ lá cây'', ''hiu hiu gió'',... bắt đầu từ đây Kiều mới thực sự cảm nhận được cái bi kịch của đời mình, bi kịch của sự mất mát, bi kịch của nỗi cô đơn. Nàng cảm thấy mình thật đáng thương. Tâm thức đang chìm dần trong nỗi đau khôn nguôi.

Nàng tưởng tượng đến cảnh sum họp của Trọng - Vân, còn mình chỉ là linh hồn ''xương trắng quê người'' vật vờ cô độc, bất hạnh nhưng vẫn ''mang nặng lời thề'', vẫn khát khao mong muốn được theo làn gió nhẹ ''hiu hiu'' trên ''ngọn cỏ lá cây'' để trở về cõi thế gặp lại người thương yêu. Duyên tình của Kiều đã hết, kỉ vật tình yêu cũng đã trao cho em, nhưng hồn của nàng vẫn chưa dứt nổi chàng Kim, còn mang nặng lời thề trăm năm gắn bó. Thế mới biết nàng có tình yêu thủy chung, mãnh liệt đến mức nào. Nàng trở nên cô đơn, tuyệt vọng, dự cảm được tương lai đầy bất hạnh của chính mình. Nghĩ đến đấy, Thúy Kiều tha thiết dặn em:

''Dạ đài cách mặt khuất lời

Rưới xin giọt nước cho người thác oan''

Nay lo cho người đã xong, nàng mới nghĩ đến mình và thấy mình mệnh bạc. ''Dạ Đài" là nơi âm phủ tăm tối, trong cảnh ngộ ''cách mặt khuất lời'' linh hồn Thúy Kiều vẫn khao khát nhận được sự cảm thông, tưởng nhớ của những người yêu thương nên chỉ xin Trọng một ''chén nước'' để làm phép tẩy oan. Điều đó chứng tỏ Thúy Kiều vẫn khao khát được trở về cõi thế để chứng minh cho ty bất diệt của mình. Hồn của nàng còn ‘mang nặng lời thề’ nên dù có chết đi cũng chẳng thể siêu thoát. Nàng đau đớn, sợ hãi trước tương lai mù mịt...Thế mới thật sự là giằng xé, thật sự là bi kịch.

Dưới ngòi bút tài hoa sắc sảo của Nguyễn Du, Thúy Kiều hiện lên rất rõ là một cô gái nhạy cảm, vị tha và giàu lòng yêu thương. Qua nghệ thuật miêu tả nội tâm tài tình thông qua lời đối thoại và độc thoại, nỗi đau và tâm hồn của Kiều càng được thể hiện tinh tế, khắc họa sinh động, sâu sắc và đầy xúc cảm tâm trạng của Thúy Kiều khi tình yêu tan vỡ, nỗi đau đớn của người con gái bất hạnh này

Đoạn trích là những dòng thơ thể hiện bi kịch tình yêu bậc nhất trong Truyện Kiều. Qua đó, bộc lộ phẩm chất cao quý của Thúy Kiều trong tình yêu. Trước sự tan vỡ của tình yêu, nàng làm tất cả những gì có thể làm được để người mình yêu được hạnh phúc nhưng người đau khổ nhất vẫn là nàng. Nhờ thế mà đoạn trích đã thể hiện được tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du: nỗi cảm thông sâu sắc đối ới những đau khổ và khát vọng hạnh phúc, tình yêu của con người.

Cảm nhận của anh chị về tâm trạng của Thúy Kiều - Mẫu 5

Nguyễn Du được mệnh danh là đại thi hào của dân tộc, ông đã từng sống gian khổ ở nhiều vùng quê khác nhau nên đã chứng kiến những bất công của cuộc đời và có tấm lòng thương cảm đặc biệt với những người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Sau khi đi sứ sang Trung Quốc, Nguyễn Du đã sáng tạo kiệt tác ''Truyện Kiều''. Đoạn trích "Trao Duyên" trong Truyện kiều là một đoạn trích thể hiện cảnh tan vỡ, dang dở tình duyên của Thúy Kiều và Kim Trọng.

Biến cố xảy đến bất ngờ khi đoạn tình cảm giữa Kim và Kiều đang độ nồng thắm. Lại thêm không có Kim Trọng ở cùng, Kiều đã rơi vào hoàn cảnh bế tắc. Sau khi thu xếp việc bán mình để cứu cha và em xong xuôi, ngày mai nàng sẽ phải theo Mã Giám Sinh rời đi. Sau khi đã lo liệu cho gia đình thì nằng mới nghĩ đến đoạn tình cảm của mình và Kim Trọng nên cuối cùng, nàng đã tìm cách thuyết phục và trao duyên cho em. Thúy Vân vì cảm thông, đã nhận lấy những kỷ vật giữa chị và chàng Kim:

''Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ vật này của chung

Dù em nên vợ nên chồng

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên

Mất người còn chút của tin

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa''

Thúy Kiều từ từ trao lại những kỷ vật tình yêu với Kim Trọng là "chiếc vành", ''bức tờ mây'' rồi đến ''phím đàn'', ''mảnh hương nguyền'' cho Thúy Vân. Kiều đưa từng món một. Mỗi vật đều gắn với một kỷ niệm, mang một ý nghĩa của mối tình giữa hai người. Với Vân, có thế đó chỉ là những vật vô tri, nhưng với Kiều mỗi kỷ vật là cả một vùng trời ký ức, là lời thề nguyền gắn bó trăm năm... gắn liền với những ngày đẹp nhất đời Kiều. Khi đã đưa tất cả lại cho Thúy Vân, nàng còn dặn với ''Duyên này thì giữ vật này của chung''.

''Duyên này'' là duyên giữa người em Thúy Vân và Kim Trọng, chứ phần của Kiều coi như đã hết. Những kỷ vật này thì em hãy coi là ''của chung'' bởi còn là một phần là của chị. Nàng tiếc nuối, đau đớn khi phải chia sẻ cho người khác. Cảnh ngộ trớ trêu bắt Kiều phải ''lỗi lời thề'' nhưng trong đáy lòng nàng đâu dễ dàng nguôi đi được lời thề xưa và đoạn tuyệt tình cũ.

Cứ tưởng rằng ''duyên'' đã trao là lòng nhẹ bẫng không còn vướng bận, nhưng ai ngờ trong tâm hồn Kiều lại chứa đựng bao nhiêu sự giằng xé, cố níu kéo trong đau đớn. Lý trí bắt buộc Kiều phải dứt tình với Kim Trọng nhưng tình cảm của nàng lại không thể tuân theo một cách dễ dàng. Nỗi đau như càng dâng lên ở câu thơ "dù em nên vợ nên chồng" - Kiều tự thấy đáng thương bản thân, cảm thấy mình là người mệnh bạc để người khác phải xót xa thương hại.

''Mất người còn chút của tin'' nàng chỉ có thể trao duyên còn tâm tình nàng vẫn không thể trao, nàng đau đớn đến nỗi nghĩ tới cái chết. Nàng vừa dùng dằng, vừa gửi gắm tất cả lại cho Thúy Vân rồi tâm trạng mâu thuẫn thật sự trong lòng nàng mới bùng lên mạnh mẽ nửa muốn trao, nửa muốn giữ. Mất bao công sức để thuyết phục Thúy Vân nhưng chính lúc em mình chấp nhận cũng là lúc Kiều bắt đầu chơi vơi cố níu tình yêu lại với mình. Sau đó Kiều để mặc cho cảm xúc trong lòng tuôn tràn.

Điều đặc biệt nằm ở chữ ''giữ'' và ''của chung''. ''Giữ'' không phải là trao hẳn mà chỉ là đưa cho em ''giữ'' hộ. Còn chữ ''của chung'' lại thể hiện tâm lý của Kiều không đành lòng trao tất cả lại cho Thúy Vân. Điều đó chứng tỏ tình yêu của nàng và Kim Trọng thật nồng nàn, sâu sắc. Tuy nhiên, Kiều vẫn trao duyên cho em, khẳng định nàng đã đặt hạnh phúc của người yêu lên trên hết. Đoạn thơ là một tiếng nghẹn ngào chứa đầy tâm trạng của nàng khi ấy, làm người đọc cảm thấy đau lòng.

Quá đắng cay cho số phận của mình, thấy rõ là mình mệnh bạc, tất cả chỉ còn là quá khứ, Thúy Kiều nghĩ đến một tương lai mù mịt, đau thương khi mình đã chết. Hơn lúc nào hết, ý nghĩ đó cứ hiện ra và rõ nét dần.

''Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai''

Đoạn thơ như một lời chiêu hồn buồn thăm thẳm, một hơi thở khác hẳn với lúc bắt đầu Trao duyên. Đây vẫn là những lời tâm sự của nàng với chàng Kim mà sao lời lẽ lại trở nên xa lắng, mù mịt, phảng phất ma mị như từ cõi bên kia vọng về đến thế. Hàng loạt từ nói về cõi chết: cùng với âm điệu chập chờn, hư ảo, thời điểm không xác định ''mai sau'', ''bao giờ'', không khí linh thiêng ''đốt lò hương'', ''so tơ phím'', hình ảnh phất phơ, ma mị ''ngọn cỏ lá cây'', ''hiu hiu gió'',... Kiều bắt đầu cảm nhận rõ hơn về những bi kịch mà mình sắp trải qua. Nàng cảm thấy bản thân thật đáng thương.

Nàng tưởng tượng đến cảnh tượng hạnh phúc của Trọng - Vân, còn mình chỉ là linh hồn ''xương trắng quê người'', bất hạnh nhưng vẫn ''mang nặng lời thề'', vẫn mong muốn được theo làn gió nhẹ ''hiu hiu'' trên ''ngọn cỏ lá cây'' để trở về cõi trần gặp lại người thương yêu. Duyên tình của Kiều đã hết, kỷ vật tình yêu cũng đã trao cho Vân, nhưng hồn của nàng vẫn chưa dứt nổi Kim Trọng. Thế mới biết nàng thủy chung đến mức nào. Nàng cô đơn, tuyệt vọng và dự cảm được tương lai đầy bất hạnh của chính mình. Nghĩ đến đấy, Thúy Kiều tha thiết:

''Dạ đài cách mặt khuất lời

Rưới xin giọt nước cho người thác oan''

Lo cho người khác đã xong xuôi, nàng mới tự nhìn lại mình mà tủi thân. ''Dạ Đài" là nơi âm phủ, trong cảnh ngộ ''cách mặt khuất lời'' hồn Thúy Kiều vẫn khao khát nhận được sự cảm thông, nên chỉ xin Trọng một ''chén nước'' để tẩy oan. Chứng tỏ Thúy Kiều vẫn khao khát được trở về cõi trần thế để chứng minh cho ty bất diệt của mình. Nàng đau khổ, sợ hãi trước tương lai mù mịt...Thế mới thật sự là giằng xé tâm can.

Dưới ngòi bút tài hoa tuyệt thế của Nguyễn Du, Thúy Kiều hiện lên rất rõ là một cô gái vị tha và giàu lòng yêu thương nhưng vô cùng nhạy cảm. Qua nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật và thông qua lời đối thoại và độc thoại, nỗi đau và tâm hồn của Kiều càng được thể hiện tinh tế, sinh động, sâu sắc và đầy tâm trạng của Thúy Kiều.

Đoạn trích là những bức tranh về bi kịch tình yêu bậc nhất trong Truyện Kiều. Qua đó, bộc lộ phẩm chất cao đẹp của Thúy Kiều trong tình yêu. Trước sự tan vỡ của tình yêu, nàng làm tất cả những gì có thể làm được để người mình yêu được hạnh phúc và chịu hết đau đớn về phần mình. Đoạn trích đã thể hiện được tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du: nỗi cảm thông sâu sắc đối với bất hạnh của con người trong xã hội xưa.

Cảm nhận của anh chị về tâm trạng của Thúy Kiều - Mẫu 6

Nguyễn Du (1765 -1820) được coi là một đại thi hào của nền văn học dân tộc Việt Nam. Nguyễ Du tên chữ là Tố Như, hiệu Thanh Hiên, sinh ra và lớn lên tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Tỉnh Hà Tĩnh. Ông là con một gia đình phong kiến quý tộc nhưng sống giữa một thời kì lịch sử đầy biến động. Trải qua hơn chục năm sống gian khổ ở nhiều vùng quê khác nhau, ông có cơ hội chứng kiến tất thảy những bất công ngang trái của cuộc đời nhất là người phụ nữ “tài hoa bạc mệnh” trong xã hội cũ. Căm phẫn trước chế độ, thương thay cho thân phận người phụ nữ, tin yêu vào phẩm chất con người… Nguyễn Du đã truyền tải những điều đó trong cùng một tác phẩm “Truyện Kiều”.

Đoạn trích “Trao duyên” trích từ tác phẩm “Truyện Kiều” nói tới việc Thúy Kiều nhờ cậy em gái là Thúy Vân giúp mình tiếp nối mối duyên nồng với Kim Trọng để thay nàng đền đáp tình yêu nặng của nàng.

Mười bốn câu thơ sau đây tái hiện đầy đủ bi kịch tan vỡ của tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng cùng nỗi đau tột cùng về số phận bi thương của đời Kiều. Qua đó, người đọc thấy được tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du và niềm ca ngợi khát vọng hạnh phúc của con người:

“Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ vật này của chung

Dù em nên vợ nên chồng

Xót thương mệnh bạc ắt lòng chẳng quên

Mất người còn chút của tin

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa

Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai

Dạ đài cách mặt khuất lời

Rưới xin giọt nước cho người thác oan”

Sau khi cậy nhờ Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng, Kiều trao lại cho em kỉ vật tình yêu:

“Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ vật này của chung”

“Chiếc vành” và “tờ mây” là hai kỉ vật minh chứng tình yêu và cũng là lời thề ước giữa Kim Trọng và Thúy Kiều. Kỉ vật của một mối tình đẹp mà Kiều không nỡ rời xa nay đành lòng gửi gắm tất cả lại cho Thúy Vân.

Đồ vật có thể cho, tặng nhưng tình cảm đâu phải là thứ nói cho là cho, nhất là tình yêu. Cái “chung” trong tình yêu ở đây nó phá vỡ tính quy luật của tình yêu đôi lứa. Tình yêu chỉ thực sự thiêng liêng, vĩnh cửu khi nó là của riêng Thúy Kiều với Kim Trọng. Tình yêu vốn không cho phép có người thứ ba. Một khi có người thứ ba, sự thiêng liêng sẽ bắt đầu đổ vỡ. Nguyễn Du có lẽ đang oán, oán cái chế độ xã hội tàn bạo, cổ hủ, nhiễu nhương khiến cho tình yêu thiêng liêng phải tan vỡ.

Từ đây những kỉ vật Kiều trao lại cho Vân sẽ chỉ còn là vật làm tin để Vân nhớ đến Kiều. Kiều nhắc nhở Vân những lúc em hạnh phúc bên người yêu thì đừng bao giờ quên chị:

"Dù em nên vợ nên chồng

Xót thương mệnh bạc ắt lòng chẳng quên

Mất người còn chút của tin

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa"

Nỗi đau như đọng lại trong lời thơ “Dù em nên vợ nên chồng”. Nhìn người mình yêu nên vợ nên chồng với người khác đau xót biết nhường nào. Hơn nữa, tuy nguyện vọng của Kiều thành hiện thực, nhưng nàng vẫn đặt ra những giả thuyết tương lai như có điều gì đó vẫn chưa ổn, chưa yên. Kiều tự coi mình là kẻ “mệnh bạc” để người khác phải xót xa, thương hại.

Bốn câu thơ tiếp theo là dự cảm về cái chết mà Kiều đã chuẩn bị sẵn tinh thần để đón nhận:

“Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”

Phải nghiệt ngã đến thế nào mà một người mới tuổi xuân xanh cứ ám ảnh hoài về cái chết. Kiều đã mất hết niềm yêu sống trong hiện tại. Kiều chỉ nghĩ tới tương lai và trông chờ vào lòng thương của kẻ khác. Khi Vân hạnh phúc hãy nhớ tới linh hồn của Kiều mà đốt nén hương, chơi bản nhạc tặng Kiều. Nếu có ngọn gió vật vờ nơi lá cây, ngọn cỏ hãy nhớ tới Kiều.

“Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”

Với Kiều, duyên tình có lẽ đã hết, kỉ vật tình yêu cũng đã trao tay, nhưng tâm hồn của nàng vẫn sẽ mãi ghi nhớ lời thề với chàng Kim. Kiều ví mình như thân của liễu, như cành trúc cành mai tuy mỏng manh nhưng thanh cao. Kiều không quản “nát thân”, “đền nghì” vẫn sẽ ghi tạc ơn tình đậm sâu của Kim Trọng.

Kiều dặn dò Vân:

“Dạ đài cách mặt khuất lời

Rưới xin giọt nước cho người thác oan”

“Dạ đài” là nơi âm phủ tăm tối. Kiều tự cho rằng mình sẽ thuộc về chốn âm ti địa ngục. Nhưng dù có “cách mặt khuất lời” tức là sẽ không thể thấy hay nghe được tiếng nói của nhau, thì Vân hãy cứ rảy chén nước “thác oan” cho Kiều. Từ “thác oan” cho thấy Kiều vẫn có gì đó như là ấm ức, oan uổng lắm nên sau khi chết hồn oan không tan, không được siêu thoát. Đó cũng là nỗi ấm ức của chính tác giả khi muốn lên tiếng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho người phụ nữ xưa.

Đoạn trích “Trao duyên” là tình yêu và cũng là số phận bi kịch của Kiều. Nguyễn Du đã thành công trong việc miêu tả nội tâm của nhân vật. Tuy tác phẩm đã ra đời cách nay mấy trăm năm nhưng câu chuyện về thân phận và vẻ đẹp người phụ nữ vẫn là nỗi nhức nhối trong xã hội cả trước và nay.

-------------------------------

Trên đây VnDoc đã chia sẻ tới các bạn bài Cảm nhận của anh chị về tâm trạng của Thúy Kiều qua đoạn trích: Chiếc vành với bức tờ mây…. Rưới xin giọt nước cho người thác oan. Hy vọng với bài văn mẫu trên đây các bạn học sinh sẽ hiểu hơn về tính cách cũng như tâm trạng của nàng Kiều giữa bên tình và bên nghĩa. Chúc các bạn học tốt và các bạn cũng đừng quên tham khảo thêm những bài Văn mẫu hay tại VnDoc.com nhé

Trên đây VnDoc tổng hợp các dạng bài văn mẫu Cảm nhận của anh chị về tâm trạng của Thúy Kiều qua đoạn trích: Chiếc vành với bức tờ mây…. Rưới xin giọt nước cho người thác oan cho các bạn tham khảo ý tưởng khi viết bài. Chắc hẳn qua bài viết bạn đọc đã nắm được những ý chính cũng như trau dồi được nội dung kiến thức của bài học rồi đúng không ạ? Hi vọng qua bài viết bạn đọc có thêm nhiều tài liệu để học tập tốt hơn nhé. Ngoài ra các bạn có thể xem thêm chuyên mục Soạn văn 10 mà VnDoc đã chuẩn bị để học tốt hơn môn Ngữ văn lớp 10 và biết cách soạn bài lớp 10 trong sách Văn tập 1 và tập 2. Mời các em học sinh, các thầy cô cùng các bậc phụ huynh tham khảo.

Đánh giá bài viết
44 45.009
Sắp xếp theo

    Văn mẫu lớp 10

    Xem thêm