Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Viết đoạn văn giới thiệu bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi

Viết đoạn văn giới thiệu bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi được VnDoc.com sưu tầm và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo. Mời các bạn cùng theo dõi chi tiết bài viết dưới đây nhé.

1. Dàn ý Đoạn văn giới thiệu bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi

1. Mở đoạn: giới thiệu một tác phẩm được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi.

2. Thân đoạn:

- Trình bày thông tin như: thể loại, nguồn gốc.

- Nêu chủ đề, nội dung chính của bài thơ đó.

- Chỉ ra những đặc sắc trong hình thức nghệ thuật.

3. Kết đoạn: nêu cảm nhận của bản thân.

2. Đoạn văn giới thiệu bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi mẫu 1

- Bài thơ Ba tiêu

Tự bén hơi xuân tốt lại thêm,

Đầy buồng lạ, màu thâu đêm.

Tình thư một bức phong còn kín,

Gió nơi đâu, gượng mở xem

(Ba tiêu – Cây chuối của Nguyễn Trãi)

Bài thơ Ba tiêu - Cây chuối của danh nhân Nguyễn Trãi là một bài thơ viết bằng chữ Nôm tuy ngắn gọn, giản dị nhưng không kém phần độc đáo. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, nằm trong tập thơ Quốc âm thi tập nổi tiếng của Nguyễn Trãi. Chỉ vỏn vẹn bốn câu thơ ngắn gọn với câu chữ, giọng điệu gần gũi và thân thuộc, Nguyễn Trãi đã khiến cho người đọc phải có một cái nhìn khác về hình ảnh cây chuối - một loài cây mà ai cũng biết, cũng quen thuộc. Mùa xuân với khí hậu ấm áp, dễ chịu, mùa hoa nở và cây chuối cũng như bao cây khác, khi vào mùa xuân, nó vốn đã tươi tốt, nay lại càng tốt thêm. Những buồng chuối xanh mơn mởn, đẹp một cách lạ lùng cả ngày lẫn đêm. Còn những đọt chuối non kia, giống như bức thư tình còn e ấp không muốn mở. Gió ở nơi đâu, cứ quấn quýt lại gần đòi mở lá thư. Có lẽ, bài thơ này không đơn thuần chỉ là miêu tả hình ảnh cây chuối, mà nó như là một bức thư tràn đầy tình cảm được Nguyễn Trãi gửi gắm đến người đọc.

3. Đoạn văn giới thiệu bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi mẫu 2

Trong tập thơ chữ Hán "Ức Trai thi tập" của Nguyễn Trãi, em ấn tượng nhất với sáng tác "Bạch Đằng hải khẩu" ("Cửa biển Bạch Đằng"). Đọc bài thơ, em không khỏi tự hào về mảnh đất từng lưu giữ nhiều chiến công hiển hách, vang dội. Trước hết, thi sĩ đã mở ra không gian rộng lớn, kì vĩ của cửa biển Bạch Đằng qua hai câu thơ đầu. Tiếp đến, ở câu ba và bốn, những dấu vết lịch sử lần lượt được chỉ ra. Đứng trước mảnh đất chiến địa này, tác giả cũng không quên ca ngợi các vị anh hùng lịch sử. Cuối cùng, hai câu thơ cuối bài chính là những suy ngẫm sâu sắc của tác giả về lịch sử, thế sự. Có thể nói, với việc sử dụng ngôn ngữ hàm súc, hình ảnh giàu chất gợi, Nguyễn Trãi đã thành công trong việc làm nổi bật chủ đề tác phẩm. Qua "Bạch Đằng hải khẩu", em càng thêm yêu, trân trọng những giá trị, truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

4. Đoạn văn giới thiệu bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi mẫu 3

Thủ vĩ ngâm

Góc thành Nam, lều một gian,
No nước uống, thiếu cơm ăn.
Con đòi trốn, dường ai quyến,
Bà ngựa gầy, thiếu kẻ chăn.
Ao bởi hẹp hòi khôn thả cá,
Nhà quen thú thưa ngại nuôi vằn.
Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải,
Góc thành Nam, lều một gian.

Bài thơ này có thể là làm trong lúc Nguyễn Trãi bị giam lỏng ở Đông Quan theo bài tựa của Nguyễn Khắc Kiệm hay là trong lúc ông bị Lê Thái Tổ ruồng bỏ sau khi bị giam vì bị nghi có liên quan với án Trần Nguyên Hãn, tuy được tha và vẫn giữ chức quan, nhưng không được làm việc gì. Chúng tôi (nhóm Đào Duy Anh) đoán là làm trong trường hợp thứ hai, vì trong thơ đã có vẻ chán chường lắm, không thể là giọng thơ của một người thanh niên 30 tuổi còn đầy tráng khí (lúc bị giam lỏng ở Đông Quan) mới gặp khó khăn nhất thời. Vả chăng nếu là bị giam ở Đông Quan thì không thể có câu “Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải”.

5. Đoạn văn giới thiệu bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi mẫu 4

Một trong những bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Trãi được viết theo thể ngũ ngôn luật thi là "Dục Thúy sơn". Đây là bài thơ được rút ra từ tập "Ức Trai thi tập". Trong sáu câu thơ đầu, thi sĩ tập trung miêu tả bức tranh về vẻ đẹp núi Dục Sơn. Dáng núi được ví như bông hoa sen thanh khiết nổi trên mặt nước trong xanh. Những bóng tháp soi xuống mặt nước cũng trở nên đẹp đẽ, thi vị giống như cái trâm ngọc. Cuối cùng, hình ảnh sóng nước được gợi tả qua câu thơ "gương sông ánh tóc huyền". Đến với hai câu thơ cuối, ta cảm nhận thấy sự hoài niệm, nhớ thương cùng những suy tư về con người, dân tộc ở nhà thơ. Để làm nổi bật bức tranh tiên cảnh này, Nguyễn Trãi đã sử dụng nhiều hình ảnh so sánh "tháp ảnh trâm thanh ngọc/ ba quang kính thúy hoàn" cùng giọng thơ nhịp nhàng. Có thể nói, "Dục Thúy sơn" chính là một áng thơ tiêu biểu viết về đề tài thiên nhiên.

6. Đoạn văn giới thiệu bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi mẫu 5

Bài thơ: Mộ xuân tức sự

Nhàn trung tận nhật bế thư trai,
Môn ngoại toàn vô tục khách lai.
Ðỗ Vũ thanh trung xuân hướng lão,
Nhất đình sơn vũ luyện hoa khai.

(Bản dịch của Khương Hữu Dụng:
Suốt ngày nhàn nhã khép phòng văn
Khách tục không ai bén mảng gần
Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn
Ðầy sân mưa bụi nở hoa xoan.)

- Giới thiệu:

Bài thơ “Mộ xuân tức sự” là một bài thơ chữ Hán đặc sắc của Nguyễn Trãi, được viết khi ông lui về ở ẩn tại Côn Sơn. Bài thơ phác họa không gian cuối ngày xuân bên ngoài phòng văn của tác giả, thể hiện tâm hồn rộng mở, giao hòa với thiên nhiên, lắng nghe tiếng cuốc kêu và trông cánh hoa xoan nở đầy sân giữa làn mưa bụi. Không chỉ phơi phới tình yêu, niềm say mê với thiên nhiên, bài thơ còn gửi gắm nỗi niềm ưu quốc của Nguyễn Trãi. Tiếng cuốc kêu không chỉ gợi nhắc thời khắc cuối xuân đầu hạ, mà còn gợi đến vận nước đang khó khăn. Nhưng bài thơ không nặng nề, bi quan, mà vẫn thể hiện niềm tin và hy vọng của tác giả, thông qua hình ảnh hoa xoan vẫn nở bừng.

7. Đoạn văn giới thiệu bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi mẫu 6

Công danh đã được hợp về nhàn,

Lành dữ âu chi thế ngợi khen.

Ao cạn vớt bèo cấy muống,

Trì thanh phát cỏ ương sen.

Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,

Thuyền chở yên hà nặng vạy then.

Bui có một lòng trung liễn hiếu,

Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.

(Thuật hứng – Bài 24)

Thuật hứng – Bài 24 là một bài thơ viết bằng chữ Nôm tuy ngắn gọn, giản dị nhưng không kém phần độc đáo. Bài thơ nằm trong chùm thơ “Thuật hứng” in trong tập thơ Quốc âm thi tập nổi tiếng của Nguyễn Trãi, được viết ra trong thời kỳ Ức Trai về sống ở Côn Sơn. Bài thơ “Thuật hứng – 24” này được viết theo thể thơ thất ngôn xen lục ngôn bát cú (các câu 3, 4, 8 chỉ có 6 từ). Với giọng thơ nhẹ nhàng, khoan thai; giọng điệu tâm tình, cởi mở và sử dụng ngôn ngữ: ao, bèo, muống, đĩa, cỏ, sen, kho, thu, phong, nguyệt, thuyền, yên hà đã tạo nên cốt cách bài thơ vừa dân dã, mộc mạc vừa cổ điển thanh cao. “Thuật hứng” đã thể hiện một cách đẹp đẽ sâu sắc những tư tưởng tình cảm cao đẹp của Ức Trai như coi thường danh lợi, thích sống nhàn trong cuộc đời thanh bạch, lúc nào cũng giữ trọng lòng trung hiếu son sắt, thuỷ chung. Đọc bài thơ, ta vô cùng kính yêu và cảm phục Nguyễn Trãi - một nhân cách kẻ sĩ cao đẹp như vua Lê Thánh Tông đã ngợi ca: “Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo”

8. Đoạn văn giới thiệu bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi mẫu 7

"Ngôn chí" là chùm thơ gồm 21 bài trong tập thơ Nôm "Quốc âm thi tập" của Nguyễn Trãi. Trong đó, "Ngôn chí" (bài 3) đã để lại cho em nhiều rung động sâu sắc. Trước hết, tác phẩm được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật biến thể, câu thơ sáu chữ xen lẫn với câu thơ bảy chữ. Bằng hình ảnh giản dị, thân thuộc, ngôn ngữ mộc mạc, thi sĩ đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên thanh bình cùng cuộc sống đời thường nhàn nhã. Đó là cảnh sắc vừa nên thơ "trì thưởng nguyệt", "lãnh ương hoa", vừa đơn sơ "cơm ăn dầu có dưa muối", "đất cày ngõ ải". Cuộc sống sinh hoạt càng thêm lãng mạn, thi vị bởi những hoạt động ngắm trăng, ngâm thơ. Từ đây, ta dễ dàng cảm nhận được tâm trạng hạnh phúc, thoải mái, hài lòng của nhân vật trữ tình về đời sống. Có thể nói, bài thơ "Ngôn chí" (bài 3) đã giúp ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn, tư tưởng ở nhà thơ Nguyễn Trãi.

Đánh giá bài viết
2 8.928
Sắp xếp theo

    Văn mẫu lớp 10

    Xem thêm