Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Anh chị hãy bình giảng về bài thơ Tùng của Nguyễn Trãi

Văn mẫu: Anh chị hãy bình giảng về bài thơ Tùng của Nguyễn Trãi được VnDoc.com tổng hợp và sưu tầm gồm các bài văn mẫu lớp 10 hay dành cho các em học sinh tham khảo, củng cố. Mời các em học sinh cùng tham khảo.

1. Bình giảng bài thơ Tùng của Nguyễn Trãi mẫu 1

Một nhà chính trị tài giỏi, là một trong những tác gia lớn của dân tộc Việt Nam, ông là tác giả Nguyễn Trãi. Ông hiệu là Ức Trai, là một nhà chính trị, nhà thơ dưới thời nhà Hồ và nhà Lê Sơ Việt Nam. Ông từng là “Thái học sinh”, từng làm quan dưới triều Hồ sau đó nhà Minh xâm lược ông đã tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại ách xâm lược nhà Minh. Ông có vai trò quan trọng trong cuộc khởi nghĩa này. Đến năm 1442 thì biến cố lớn đã xảy ra, toàn thể gia đình Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Đến sau này vua Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho ông vào năm 1464. Ông nằm trong danh sách 14 vị anh hùng dân tộc Việt Nam, không chỉ vậy mà ông còn là một nhà văn hóa lớn, có đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn học Việt Nam. Ông có rất nhiều các tác phẩm để đời, ông làm thơ làm văn gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của ông. Các tác phẩm lớn của ông như là: “Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Ức trai thi tập, Quốc âm thi tập, Chí linh sơn phú,…” toàn là những tác phẩm nổi tiếng, những viên ngọc quý để lại cho nền văn học Việt Nam. Trong đó có một tác phẩm tiêu biểu đó là bài “Tùng” được trích trong tập “Quốc âm thi tập”.

Tùng là một đề tài trong hệ thống đề tài Đông thiên tam hữu (Ba người bạn mùa đông) rất phổ biến trong văn học trung đại Việt Nam và các nước trong khu vực Đông Nam Á. Thơ vịnh tùng thường thì được các thi sĩ viết nhiều hơn và cả người đọc họ nhớ và thuộc hơn so với hai người bạn là trúc và mai. Tùng có ý nghĩa là hình tượng, phẩm chất của kẻ sĩ quân tử: sự chịu đựng gian khổ , thử thách, sống kiên cường, thanh cao, được dùng vào việc lớn, có khả năng giúp ích đất nước,.. Nhưng còn tùy vào hoàn cảnh của mỗi thi sĩ sẽ vịnh tùng ở cách khía cạnh khác nhau. Ví dụ Mộng Nguyên qua hình tượng cây tùng trong chậu đã thể hiện ý chí, hoài bão của nam tử hán không chịu sống trong sự gò bó, sống cuộc đời quẩn quanh, chật hẹp. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng vịnh tùng, ông vẫn nói đến chí khí, tài năng của người anh hùng nhưng trong bài Tùng của Nguyễn Bỉnh Khiêm mục đích chính của ông là bày tỏ thái độ đối với xã hội: “Dùng thì ra giúp đời,không dùng thì ẩn náu. Ai bảo cây to là khó dụng”.

Tùng trong thơ Nguyễn Trãi là một trong chùm thơ “Đông thiên tam hữu”. Ba bài “Tùng, Trúc, Mai” đều được vịnh ở phần “Hoa mộc môn” của tập “Quốc âm thi tập”. Nguyễn Trãi đã khai thác đề tài thiên nhiên để thể hiện chủ đề phẩm chất của kẻ sĩ quân tử, đồng thời là gửi gắm tâm tư cá nhân vào trong bài Tùng. Bài Tùng, tác giả đã sử dụng bút pháp vịnh là chủ yếu giống như thơ viết về cây chuối, bút pháp này không dùng để tả. Cái mục đích tác giả hướng tới do sự vật gợi lên nhưng lại nằm ngoài sự vật.

Vịnh tùng, Nguyễn Trãi đã chú ý làm nổi bật đặc điểm của cây tùng đó là tác giả muốn nói nên phẩm chất của kẻ sĩ và khả năng đóng góp to lớn của kẻ sĩ đối với xã hội như công dụng của cây Tùng. Hai nội dung này được đề cập và xuyên suốt trong cả bài. Ngoài điều đó thì còn có tâm sự cá nhân của tác giả.

Mở đầu bài thơ, tác giả đã nói lên một đặc điểm rất quý, hiếm có của cây Tùng, mà hầu như ở các cây khác không có:

“Thu đến cây nào chẳng lạ lùng,

Một mình lạt thuở ba đông

Lâm tuyền ai rặng già làm khách

Tài đống lương cao ắt cả dùng.”

Ở câu mở đầu bài Tùng là một mệnh đề mang tính chất khẳng định: hầu hết các loại cây “cây nào” khi mùa thu đến cũng rụng lá, cành cây khẳng khiu, khi lá rụng hết chỉ còn mỗi cành cây trơ trọi, còn cây tùng thì khác cây tùng vẫn xanh tươi, cành lá xum xuê, vượt qua cái giá lạnh của màu đông được thể hiện càng rõ ở câu thứ hai biểu thị rõ nhất ở từ “lạt”- ý niệm về sự vượt qua mùa đông không có gì là khó khăn, nhưng cái hay ở đây đó là cách rút gọn câu chỉ còn sáu chữ và dùng tiểu đối “một mình- ba đông” lại càng cho ta thấy sự chống chọi mạnh mẽ mãnh liệt của cây tùng một mình trước thời tiết khắc nghiệt lạnh giá và dữ dội. Tác giả ý muốn nói người quân tử có phẩm chất vượt khó, thắng mọi gian lao, thử thách của hoàn cảnh khách quan như cây tùng vậy dù là tác động thời tiết khách quan nhưng nó vẫn tươi tốt. Như trong bài Tùng của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

“Vui cùng suối đá, tính cách riêng thanh cao

Ngoại với tuyết sương, sắc xanh không biến đổi”

Tùng xanh tươi trong khi bao nhiêu loại cây khác bị tác động và biến đổi theo mùa, cũng giống như “quân tử cố cùng” chứ không chịu a dua theo đời.

“Đông lương tài có mấy bằng mày

Nhà cả đòi phen chống khỏe thay

Cội rễ bền dời chẳng động

Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày.”

Ở khổ tiếp theo, khổ II tác giả tiếp tục khắc họa một đặc điểm nữa của cây tùng mà ít loài cây có được thể hiện rõ ở 2 câu cuối, tiếp ý của hai câu thơ đầu của khổ I như vừa giải thích, vừa chứng minh thêm vào làm nổi bật đặc biệt của cây Tùng. Cây tùng sở dĩ “lạt thuở ba đông”, “đặng nhiều ngày” tuyết sương, là do “cội rễ bền” dễ bám chặt, cắm sâu dưới lòng đất. Dù gió to, bão lớn thế nào vẫn không lay chuyển. Ở câu thơ “Cội rễ bền dời chẳng động” còn thể hiện sự khỏe khoắn, kiên cường, mạnh mẽ của cây tùng. Qua những thử thách lớn về cả cường độ và thời gian (nhiều ngày) mới bộc lộ sức mạnh không chỉ trong chốc lát mà là sự bền bỉ, bền vững của cây tùng. Trong ca dao ta cũng có câu nói về phẩm chất, kiên cường cứng cỏi của cây tùng trong những ngày giông bão:

“Có gió lay mới biết tùng bách cứng,

Có ngọn lửa lừng mới biết thức vàng cao.”

Hình tượng cây tùng qua câu thơ “cội rễ bền dời chẳng động” chính là biểu tượng về người quân tử có ý chí kiên định, không bị tác động của những thứ như vàng, bạc, châu báu, quyền thế,.. làm mờ mắt.

Tiếp đến là một đặc điểm khác của cây tùng, tùng có “hổ phách”, “phục linh” mà không loài cây nào khác có được, đây là đặc điểm rất riêng của cây tùng. Xưa tương truyền thì “hổ phách” đẹp như ngọc là do tinh dầu tùng qua một nghìn năm hóa thành, còn tùng khẩn qua một trăm năm thì thành “phục linh”, nếu có lõi sẽ thành phục thần. Hổ phách là trang sức quý hiếm, còn phục linh, phục thần thì là những vị thuốc quý làm tăng tuổi thọ. Tuy rằng, tùng có loại thuốc quý như vậy nhưng những thần dược được tạo ra lại nằm dưới đất, phải nhìn mới biết, cũng như người quân tử có đức lớn, tài cao nhưng lúc nào cũng khiêm nhường, khiêm tốn đó là một đức tính tốt của người quân tử: “Quân tử khiêm nhi bất kiêu”. Những đặc điểm trên cho chúng ta thấy rằng cây tùng rất quý, nhưng đáng quý hơn cả là công dụng của nó: làm rường cột cho ngôi nhà thể hiện ở câu bốn khổ I “Tài đống lương cao ắt cả dùng”, công dụng tiếp theo là chống đỡ cho nhà lớn “Nhà cả đòi phen chống khỏe thay” và công dụng đặc biệt của nó có vị thuốc quý để chữa bệnh, tăng tuổi thọ, nâng cao sức khỏe cho nhân dân: “Có thuốc trường sinh càng khỏe thay- Hổ phách, phục linh nhìn mới biết”. Tác giả đã sử dụng hình thức nghệ thuật liên hoàn pha ô thước kiều- câu cuối của khổ thơ trước được nhắc lại toàn bộ hay một phần ở câu đầu của khổ thơ tiếp theo. Nhưng ý của tác giả đâu chỉ muốn nói đến công dụng về mặt sinh học của cây tùng mà tác giả đã có ngụ ý muốn thông qua công dụng của cây tùng để nói về người quân tử.

Ba khổ thơ đã hoàn chỉnh hình tượng cây tùng cũng như muốn nói về hình tượng của người quân tử có tất cả các phẩm chất: nhân, trí, dũng. Bài thơ cũng là lời tâm sự, tự nhủ lòng mình, với bài này như là ông nói cùng mình hơn là nói với người. Cuộc đời của ông cũng đầy những biến cố thăng trầm, gặp nhiều trở ngại, nhưng không được nhụt trí, ông tự nhắc nhở mình, tự bồi dưỡng lý tưởng sống cho mình làm người quân tử phải như cây tùng.

Bài thơ cho chúng ta thấy Nguyễn Trãi là một nhà chính trị với ý chí, lí tưởng sống vì nước, vì dân. Thông qua bài thơ ta còn thấy được ông là một người “văn võ song toàn” không chỉ giỏi về mặt thao lược binh đao mà ông còn giỏi về văn chương với những chùm thơ hay để người đời sau thán phục. Bài thơ của ông giúp thức tỉnh ý chí của thế hệ trẻ hiện nay cần cố gắng hơn nữa để khắc phục những mặt yếu kém, tạo thêm ý chí kiên cường, chí khí vững chắc bảo vệ nền độc lập nước nhà.

2. Bình giảng bài thơ Tùng của Nguyễn Trãi mẫu 2

Nguyễn Trãi là 1 tác giả lớn của nền văn học Việt Nam ông đã co rất nhiều những tác phẩm nổi tiếng và nổi bật lên những tác phẩm đó là bài thơ Tùng, đây là một bài thơ chữ Hán nổi tiếng. Nói về cảnh vật thiên nhiên đẹp hàng vĩ và mơ mộng.

“Tùng” của Nguyễn Trãi là bài thơ thất ngôn xen lục ngôn. cây tùng khẳng định, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người quân tử, đồng thời kín đáo gửi gắm những nỗi niềm tâm sự của riêng mình. Bài thơ “Tùng” này có thể được Ức Trai viết vào những năm cuối đời, khi sống ở Côn Sơn.

Nguyễn Trãi đã làm nổi bật đặc điểm và công dụng của cây tùng, từ đó khẳng định bản lĩnh và vai trò to lớn của kẻ sĩ quân tử đối với đất nước và nhân dân. Mở đầu bài thơ đó là hình ảnh cây tùng sống một mình giữa những tháng ngày trơ trọi:

“Thu đến cây nào chẳng lạ lùng,
Một mình lạt thuở ba đồng”.

Mùa thu mới đến thế mà “cây nào” cũng như cây nào đều “lạ lùng” khác lạ, chỉ “một mình” cây tùng là lạt lẽo, thản nhiên với cả ba tháng mùa đông lạnh lẽo. Dù cảm giác có cô đơn lạnh lẽo nhưng cây tùng vẫn thản nhiên mà sống không cần biết đến hoàn cảnh có như thế nào nó vẫn ung dung sống cứng chắc. Cây Tùng sống vững trãi thể hiện phẩm chất tốt đẹp của người quân tử có một bản lĩnh kiên cường, có tinh thần vượt khó khăn thử thách, đứng vững trước mọi hoàn cảnh ác liệt, quyết không a dua theo thời, không sống một cách tầm thường. Hình ảnh tiếp theo tác giả đã nói về sự kiên trì của Cây tùng:

“Cội rễ bền, đời chẳng động,
Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày”.

Dù hoàn cảnh có khắc nghiệt như thế nào thì cây tùng vẫn vững chắc và sống, cội rễ bền và đứng vững chắc, dù có sương gió bão bùng thì cũng không làm nó lay động, nó có phẩm chất giống như những người anh hùng của đất nước dù có vất vả gian nan nhưng vẫn cố gắng chiến đấu để giành được độc lập dân tộc, dù cho quân thù có gian ác như thế nào nhưng những người chiến sĩ đó vẫn kiên cường anh dũng chống lại giặc ngoại xâm. Tác giả thật xuất sắc khi sử dụng cây tùng để ngầm nói về người chiến sĩ của Việt Nam. Tiếp theo trong khoảng không gian rộng lớn giữa thiên nhiên mênh mông bao la rộng lớn cây cỏ hoa lá nào mà cũng đang quý. Nhưng đối với riêng cây tùng, cây tùng mới có “hổ phách” và “phục linh”. Trong suốt, đỏ rực, đẹp và quý như ngọc, ấy là hổ phách, phải một nghìn năm tùng cất giữ trong lòng đất mới có. Hương thơm ngào ngạt để làm thuốc trường sinh, ấy là phục linh, phải một trăm năm, tùng mới “tiết chế” ra cho con người “dùng khỏe thay”. Phải trải qua một thời gian dài, tùng mới có hổ phách và phục linh, đâu chỉ là ngày một ngày hai? “Thiên niên sinh hổ phách, bách niên sinh phục linh”, vì thế hổ phách và phục linh rất hiếm, rất quý:

“Có thuốc trường sinh càng khỏe thay,
Hổ phách phục linh nhìn mới biết”.

Cây tùng có sức sống rồi dào như những vị thuốc trường sinh, có những khí phách hiên ngang của những người anh hùng của Đất nước,Tùng còn được làm cột chống đỡ cho ngôi nhà lớn, “chống khỏe thay” lúc bão táp phong ba: “Nhà cả đòi phen chống khoẻ thay”. Tùng còn cho người, để lại cho đời “thuốc trường sinh”, những “phục linh” và “hổ phách” tích tụ qua hàng trăm năm, qua hàng ngàn năm để chữa bệnh, làm tăng sức khoẻ cho dân. Tác giả Nguyễn Trãi đã chỉ rõ tác dụng to lớn của cây tùng trong cuộc sống, không chỉ hoàn chỉnh hình tượng cây tùng mà còn hướng tới một ý nghĩa thẩm mĩ rộng lớn hơn nhằm khẳng định vai trò to lớn và quan trọng của kẻ sĩ quân tử đối với quốc gia và dân tộc. Những phẩm chất kiên cường sẽ tạo ra những vị anh hùng cho đất nước:

“Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược,
Có nhân, có trí, có anh hùng”.

Những phẩm chất cao quý đó chỉ có ở những người có tài đức, có trí, có những phẩm chất tốt đẹp để phụng sự cho sự nghiệp của Đất nước. Qua hình tượng cây tùng, tác gia còn ca ngợi vai trò to lớn và tài đức của những vị anh hùng trong đất nước. Còn Cuộc đời của Nguyễn Trãi đã từng trải qua bao thăng trầm, bao biến cố dữ dội giữa dòng thác lịch sử. Lòng trung quân ái quốc, niềm ưu ái của Nguyễn Trãi là chất ngọc Ức Trai, là hổ phách, phục linh của cây Tùng. Nguyễn Trãi để lại cho đất nước và nhân dân ta. Suốt đời, Nguyễn Trãi đã đem tài đức làm đẹp cho đất nước, phấn đấu cho hạnh phúc của nhân dân.

Bài thơ Tùng của Nguyễn Trãi đã mượn hình ảnh cây Tùng để nói về những phẩm chất cao quý của những anh hùng của đất nước, những phẩm chất anh dũng kiên cường.

3. Bình giảng bài thơ Tùng của Nguyễn Trãi mẫu 3

Ai đã từng đọc bài thơ nổi tiếng “Chansons D’automne” của thi sĩ lừng danh Pháp quốc Paul Verlaine đều cảm thấy lòng mình bồi hồi và xúc động. Không xúc động sao đựơc khi nhà thơ đa tình này đã rung cảm hồn mình thành những dòng thơ bất hủ sau đây để nức nở về tình thu bên bờ sông Seine tuyệt đẹp năm nào:

Tiếng đàn ai đó lê thê

Vĩ cầm réo rắt ê chề lòng đau

Bơ vơ chuông đổ đồng hồ

Lòng như héo hắt thu tàn năm xưa

Bao kỷ niệm, theo gió đưa

Cuốn theo lệ đổ chưa vừa xót xa

Bao năm lữ thứ xa nhà

Giang hồ phiêu bạt lá vàng tả tơi…”

(Lãng Du)

Thật vậy, mùa thu là mùa của tình yêu, mùa của lá vàng rơi rụng. Mùa thu là mùa của những cặp tình nhân dìu nhau đi dưới nắng thu để thưởng thức bầu không khí mát mẻ trong lành, rồi trao cho nhau những nụ hôn nồng cháy để rồi cùng nhau nhìn lá vàng rơi, rơi mãi tận cuối chân trời. Bài thơ “Tùng” dù chỉ gồm bốn câu ngắn gọn nhưng lại chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa, qua đó thể hiện tinh thần kiên cường, bất khuất của con người cùng với niềm tin vào giá trị bền vững của phẩm chất sống. Qua hình ảnh cây tùng trong mùa thu, Nguyễn Trãi đã gửi gắm thông điệp về sự độc lập, tự chủ và lòng tự trọng, dù cho cuộc đời có trải qua bao sóng gió, thử thách của thời gian.

Câu thơ đầu tiên “Thu đến cây nào chẳng lạ lùng” mở ra bối cảnh thiên nhiên mùa thu. Mùa thu vốn mang vẻ đẹp trầm mặc, u buồn nhưng lại ẩn chứa sự chuyển mình của thời gian. Tác giả dùng “lạ lùng” để nhấn mạnh vẻ ngoài biến đổi của mọi cây cối khi bước vào mùa thu – từ những màu lá chuyển sắc cho đến hình dáng bào mòn theo thời gian. Tuy nhiên, ở đây, “cây nào chẳng lạ lùng” lại không nhằm nói rằng mọi cây đều trở nên khác thường, mà ngầm gợi ý rằng mùa thu làm bộc lộ bản chất thật của chúng. Qua đó, Nguyễn Trãi dần dẫn dắt người đọc đến với hình ảnh đặc biệt – cây tùng, cây đã vượt lên trên sự biến đổi của thời gian để thể hiện sức sống kiên cường.

Tiếp theo, “Một mình lạt thuở ba đông” là câu thơ đầy chất trữ tình nhưng cũng chứa đựng nỗi niềm cô đơn, lặng lẽ của người trồng và của thiên nhiên. “Một mình” nhấn mạnh sự đơn độc, sự tách biệt, không gắn bó với những đám mây lá chung. “Lạt thuở ba đông” có thể hiểu theo nghĩa ẩn dụ, như biểu hiện của ba mùa đông – mùa của rét mờ, của sự khắc nghiệt và cô độc. Dù đơn độc giữa chốn thời gian bao la, cây tùng vẫn đứng vững, tựa như người con già trung kiên cường trước bão giông, không chịu khuất phục trước sóng gió của cuộc đời. Hình ảnh ấy khiến người đọc liên tưởng đến những con người kiên cường, dù đơn độc giữa cuộc đời rộng lớn nhưng vẫn giữ vững niềm tin và phẩm giá của mình.

Câu thứ ba “Lâm tuyền ai rặng già làm khách” mở rộng khung cảnh thiên nhiên, chuyển từ hình ảnh riêng lẻ của cây tùng sang mối liên hệ giữa con người với thiên nhiên. “Lâm tuyền” không chỉ đơn thuần là khu rừng cây mà còn là không gian của thời gian, nơi mọi vật cùng tồn tại và giao hòa. “Ai rặng già làm khách” có thể được hiểu là dù cho con người hay tự nhiên đều đều trải qua quá trình lão hóa, đều phải trở thành “khách” trên đời, nhưng có những thứ lại tồn tại bất biến, bất chấp thời gian – như cây tùng. Qua đó, tác giả muốn nói rằng, dù người đời có qua đi, những giá trị chân thật, kiên cường luôn được ghi dấu, tồn tại như những “khách” trung thành trong lòng đất. Đây cũng là lời nhắc nhở mỗi con người về việc gìn giữ phẩm chất sống, không nên mờ nhạt theo thời gian.

Cuối cùng, “Tài đống lương cao ắt cả dùng” như một kết luận đầy triết lý. Câu thơ này có thể được hiểu theo hai hướng: Một là nói về giá trị vốn có của cây tùng – dù cho gọn gàng, dù cho đơn sơ nhưng “tài” (tài năng, phẩm giá, nghị lực sống) của nó lại luôn hiện hữu và hữu ích trong mọi hoàn cảnh. Hai là ẩn dụ cho ý chí, năng lực nội tại của con người – dù cho trong cuộc đời có trải qua bao biến cố, thăng trầm thì tài năng và phẩm giá thật sự của con người sẽ luôn được “dùng” và trân trọng. Câu thơ gửi gắm thông điệp rằng, không cần phải khoe khoang hay phô trương, giá trị chân chính sẽ tự tỏa sáng và được đón nhận bởi thời gian.

Bài thơ “Tùng” của Nguyễn Trãi tuy ngắn gọn nhưng chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa, thể hiện tinh thần tự chủ, kiên cường của con người qua hình ảnh cây tùng – biểu tượng của sức sống bất khuất giữa thiên nhiên hùng vĩ và thời gian vô tình. Hình ảnh cây tùng đứng một mình giữa mùa đông lạnh giá nhưng vẫn giữ vững bản chất, vẫn toả ra giá trị quý báu của chính nó, đã trở thành ẩn dụ cho con người có lòng tự trọng, có niềm tin vững chắc vào chính mình dù cho cuộc đời có bao thử thách. Nguyễn Trãi đã thông qua đó gửi gắm một thông điệp nhân sinh sâu sắc: trong cuộc sống, dù có đơn độc, dù có lạc lõng giữa dòng đời hối hả, mỗi con người cũng cần biết giữ gìn và phát huy những phẩm chất tốt đẹp vốn có, bởi chỉ có như vậy, giá trị của bản thân mới được khẳng định và tỏa sáng vượt qua mọi bão giông.

Không chỉ dừng lại ở đó, bài thơ còn mang tính triết lý về mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Khi mọi vật đều đổi thay theo thời gian, những giá trị chân thật – dù là của con người hay của thiên nhiên – luôn tồn tại bất biến. Cây tùng không chỉ là hình ảnh của sự kiên cường mà còn là biểu tượng của lòng trung thành, của sự bền bỉ không khuất phục trước số phận. Qua đó, Nguyễn Trãi cũng mong muốn khẳng định rằng giá trị sống thực sự không đến từ sự hào nhoáng, phô trương mà xuất phát từ sự bền bỉ, sự tự chủ và lòng trung thực của mỗi con người. Từ góc nhìn nhân sinh, “Tùng” như một lời nhắc nhở về việc tự lập, tự cường, không phụ thuộc vào những thứ phù phiếm bên ngoài. Chính phẩm chất “tùng” – bền bỉ, tự chủ, trụ vững giữa bão giông – mới là thứ “tài” thực sự mà mỗi con người cần phải vun đắp và gìn giữ. Những ai biết trân trọng giá trị nội tại của mình, dù có đơn độc giữa dòng đời rộng lớn, thì cũng sẽ luôn tỏa sáng và có được sự công nhận từ xã hội. Qua bài thơ “Tùng”, Nguyễn Trãi đã khéo léo sử dụng hình ảnh thiên nhiên để nói lên chân lý nhân sinh. Mỗi chúng ta, trong cuộc sống hiện đại, dù phải đối mặt với những áp lực, thử thách không ngừng, cũng nên học theo cây tùng – biết kiên cường, biết tự chủ, và luôn giữ vững giá trị bản thân. Bởi chính những phẩm chất ấy mới tạo nên sức mạnh nội tại, giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn và khẳng định được con người mình trong một xã hội đầy biến động.

Như vậy, bài thơ “Tùng” của Nguyễn Trãi không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật với những hình ảnh thiên nhiên tinh tế, mà còn là bản tuyên ngôn về sức mạnh nội tại, về lòng tự trọng và sự bền bỉ của con người. Qua đó, tác giả đã để lại cho đời một thông điệp nhân văn sâu sắc, nhắc nhở mỗi người hãy luôn trân trọng và phát huy giá trị nội tại của bản thân, dù cho cuộc sống có bao biến cố, thử thách. Đây cũng chính là bài học quý báu mà mỗi chúng ta cần ghi nhớ và áp dụng vào cuộc sống thường nhật.

4. Bình giảng bài thơ Tùng của Nguyễn Trãi mẫu 4

Bài thơ "Tùng " của Nguyễn Trãi là một tác phẩm văn học lớn của văn học Việt Nam, được Ức Trai viết vào những năm cuối đời, khi sống ở Côn Sơn. Bài thơ thể hiện tinh thần yêu nước và lòng dũng cảm của nhân dân Việt Nam qua đặc điểm và công dụng của cây Tùng.
Nội dung của bài thơ Tùng chủ yếu tập trung vào việc miêu tả cảnh đẹp và đầy hùng vĩ của cây tùng, đồng thời ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người quân tử.

‘’Thu đến cây nào chẳng lạ lùng,
Một mình lạt thuở ba đông
Lâm tuyền ai rặng già làm khách
Tài đống lương cao ắt cả dùng.’’

Cây tùng được miêu tả như một biểu tượng cho sức mạnh, sự kiên trì và lòng quyết tâm của dân tộc Việt Nam. Bài thơ bắt đầu bằng câu "Thu đến cây nào chẳng lạ lùng", mùa thu đến cây nào cũng lạ lùng đến lạ thế mà ‘’Tùng’’ lại một mình thản nhiên giữa ba tháng mùa đông lạnh lẽo. Câu thơ này cũng có thể ám chỉ đến phẩm chất của người quân tử có bản lĩnh kiên cường, sự lạc quan và niềm hy vọng trong cuộc sống. Những người quân tử ấy luôn có tinh thần vượt qua mọi khó khăn, không a dua theo thời, không sống một cách tầm thường. "Lâm tuyền ai rặng già làm khách" phải chăng chỉ để được hiểu một điều hiển nhiên rằng tùng già chỉ còn làm khách chơi thôi, nhưng qua đây tác giả muốn gửi gắm sự bền chí của cây tùng, làm nổi bật sự kiên cường của một bậc nam chân chính. Cuối cùng, "Tài đống lương cao ắt cả dùng" có thể được hiểu là việc tài năng và phẩm chất của mỗi người sẽ được thể hiện và được sử dụng một cách đúng đắn, không phí hoài với một niềm tin sắt đá vào sự nghiệp phụng sự việc lớn của đời mình.

‘’Đông lương tài có mấy bằng mày
Nhà cả đòi phen chống khỏe thay
Cội rễ bền dời chẳng động
Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày.’’

Ở khổ thơ thứ hai, tác giả tiếp tục khắc họa đặc điểm của cây tùng . "Nhà cả đòi phen chống khỏe thay" cho thấy sự kiên cường và sức mạnh của cội rễ, tượng trưng cho lòng bền chí của nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh. "Cội rễ bền đời chẳng động" thể hiện tầm quan trọng của cội rễ trong việc đứng vững trước những thử thách trong mọi gian khổ của cuộc đời. ‘’Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày" là hình ảnh tuyết phủ trắng cây tùng, nhiều năm tháng vẫn đứng vững trước những thử thách. Và đó chính là phẩm chất của người quân tử, dù cuộc sống có khó khăn thì là một bậc quân tử mà không ngại, một lòng gắn bó với đất nước với nhân dân.

‘’Có thuốc trường sinh càng khỏe thay.
Hổ phách, phục linh nhìn mấy biết,
Dành còn để trợ dân này.’’

Câu thơ thể hiện cây Tùng còn cho người, để lại cho đời “thuốc trường sinh” tạo nên hình ảnh cây tùng thật đáng quý, làm tăng sức khỏe cho dân. Hình ảnh "Hổ phách’’ nằm sâu trong lòng đất cho nên phải có con mắt xanh ‘’nhìn mưới biết’’. Cũng giống như người quân tử mộ bậc trượng nghĩa vừa hiền tài, đức độ nhưng cũng khiêm nhường. "Dành còn để trợ dân này" là một tuyên bố về tầm quan trọng của cây tùng trong việc hỗ trợ và phục vụ nhân dân. Cây tùng trong bài thơ biểu tượng cho người quân tử với tính cách cương trực, dũng cảm, bản lĩnh, có ý chí bất khuất trước mọi khó khăn.

Bài thơ ‘’Tùng’’ của Nguyễn Trãi đã thành công khi mượn hình ảnh cây Tùng để kể về phẩm chất cao quý, sự kiên cường anh dũng của những người anh hùng quê hương đã thức tỉnh tư tưởng của thế hệ trẻ ngày nay.

Chia sẻ, đánh giá bài viết
30
Chọn file muốn tải về:
Đóng Chỉ thành viên VnDoc PRO/PROPLUS tải được nội dung này!
Đóng
79.000 / tháng
Đặc quyền các gói Thành viên
PRO
Phổ biến nhất
PRO+
Tải tài liệu Cao cấp 1 Lớp
Tải tài liệu Trả phí + Miễn phí
Xem nội dung bài viết
Trải nghiệm Không quảng cáo
Làm bài trắc nghiệm không giới hạn
Mua cả năm Tiết kiệm tới 48%
Xác thực tài khoản!

Theo Nghị định 147/2024/ND-CP, bạn cần xác thực tài khoản trước khi sử dụng tính năng này. Chúng tôi sẽ gửi mã xác thực qua SMS hoặc Zalo tới số điện thoại mà bạn nhập dưới đây:

Số điện thoại chưa đúng định dạng!
Số điện thoại này đã được xác thực!
Bạn có thể dùng Sđt này đăng nhập tại đây!
Lỗi gửi SMS, liên hệ Admin
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Văn mẫu lớp 10

    Xem thêm
    Chia sẻ
    Chia sẻ FacebookChia sẻ TwitterSao chép liên kếtQuét bằng QR Code
    Mã QR Code
    Đóng