Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Thuyết minh về một lễ hội truyền thống ở tỉnh Cao Bằng

Văn mẫu lớp 10: Thuyết minh về một lễ hội truyền thống ở tỉnh Cao Bằng gồm các bài văn mẫu hay cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo chi tiết và tải về bài viết dưới đây nhé.

Thuyết minh về một lễ hội truyền thống ở tỉnh Cao Bằng mẫu 1

Lễ hội Lồng Tồng hay còn gọi là hội xuống đồng, là một lễ hội truyền thống của dân tộc Tày. Lễ hội được tổ chức hàng năm vào những ngày đầu tháng giêng, kéo dài đến đầu tháng hai âm lịch. Đây là hoạt động tín ngưỡng cầu trời cho mưa thuận gió hòa, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu, đời sống ấm no.

Lễ hội Lồng Tồng được tổ chức từ ngày mồng 4 đến ngày mồng 10 tháng giêng. Lồng Tồng theo tiếng Tày – Nùng hay Lồng Tộng theo tiếng Dao có nghĩa là xuống đồng. Đây là một lễ hội mang đậm dấu ấn của nền sản xuất nông nghiệp từ phần nghi lễ khi hội, các nghi thức, sản vật dân cúng đến các trò chơi trong lễ hội. Lễ hội Lồng Tồng đã có từ rất lâu đời, được truyền từ đời này sang đời khác trong cộng đồng người dân tộc Tày, Nùng ở các tỉnh miền núi phía Bắc: Thái Nguyên, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn và một số tỉnh Tây Bắc.

Trước ngày hội, các gia đình đều quét dọn nhà cửa, xóm bản sạch sẽ, chuẩn bị lương thực để đón khách. Vào ngày lễ xuống đồng, ngoài đồng của Bản, mỗi gia đình chuẩn bị một mâm cỗ theo khả năng. Mang hàm ý phô bày sự khéo léo của người phụ nữ trong việc nội trợ, nấu nướng các món ăn truyền thống như bánh chưng, bánh giầy, chè lam, bánh bỏng... Trên mỗi mâm đều có một chiếc bánh hình bông hoa nhiều màu sắc. Mỗi mâm cỗ còn có thêm hai đôi quả còn được làm bằng vải màu, trong nhồi cát, bông, có tua rua nhiều màu sắc sặc sỡ.

Lễ hội lồng tồng thường có hai phần là phần lễ và phần hội. Lễ hội bắt đầu khi chiêng trống nổi lên, rồi các bô lão và tráng đinh rước Thần Nông và Thành Hoàng từ đình ra ruộng, còn các gia đình thì rước cỗ bày ra trên bãi hội. Người chủ trì hội xướng bài mo cúng chư thần rồi tuyên bố phá cỗ . Gia đình nào có cỗ thịnh soạn và mời được nhiều khách dự hội đến thưởng thức cỗ nhà mình thì xem đó là điều may mắn cho cả năm. Có nơi các vị bô lão được mời đi thưởng cỗ , có thanh niên gái trai đi theo múa hát, chúc cho từng gia đình vạn sự tốt lành.

Hội được tổ chức trên một thửa ruộng lớn gọi là ruộng xuống đồng. Vẫn theo lệ từ ngàn xưa, Hội chia thành hai phần: Phần lễ có tạ thiên địa, cầu thần Nông, thần Phục Hy độ trì cho mưa thuận gió hoà, gia súc, gia cầm sinh sôi, bản làng bình yên no ấm... Chủ trì hội là ông Thại đinh (người coi đình) hay người coi việc thờ cúng Thần Nông của bản. Tất cả gia đình tham dự hội đều mang theo cỗ để làm lễ vật cúng thần đất, thần núi, Thần Nông và Thành Hoàng: đó là những mâm cỗ thịnh soạn, trình bày đẹp. Mâm lễ thường có xôi nếp, thịt lợn, rượu trắng và các loại bánh như khẩu sli, khẩu slec, bánh khảo, bánh dày, chè lam...Ở một số hội qui mô lớn, người chủ trì còn cho tổ chức lễ hiến tam sinh (trâu, heo, gà hay heo, dê, gà). Trên thửa ruộng xuống đồng đàn tế Thần Nông và các thần khác được trần thiết. Lễ hội bắt đầu khi chiêng trống nổi lên, rồi các bô lão và tráng đinh rước Thần Nông và Thành Hoàng từ đình ra ruộng, còn các gia đình thì rước cỗ, bày ra trên bãi hội. Người chủ trì hội xướng bài mo cúng chư thần rồi tuyên bố phá cỗ . Gia đình nào có cỗ thịnh soạn và mời được nhiều khách dự hội đến thưởng thức cỗ nhà mình thì xem đó là điều may mắn cho cả năm. Có nơi các vị bô lão được mời đi thưởng cỗ, có thanh niên gái trai đi theo múa hát, chúc cho từng gia đình vạn sự tốt lành. Ăn cỗ xong, mọi người tiếp tục ca hát và tham gia các trò chơi dân gian như: ném còn, kéo co, đẩy gậy, đánh quay, đánh đu, múa kỳ lân, múa sư tử, múa võ, múa giáo, bịt mắt bắt dê, hát giao duyên (hát lượn), thi sản vật địa phương, cờ tướng …

Sau phần lễ là phần hội, mở đầu là những tiết mục văn nghệ đặc sắc như hát Then, hát Cọi...Trong phần hội còn có nhiều hoạt động thể thao dân tộc và trò chơi dân gian khác như: Ném còn, leo cột, bịt mắt đánh trống, kéo co, đẩy gậy, thi cày ruộng... tất cả đều tạo cho người xem vui vẻ, háo hức chuẩn bị cho một năm mới với những vụ mùa mới năng suất, hiệu quả cao.

Lễ hội Lồng Tồng của dân tộc Tày, Nùng từ lâu đã trở thành một nét đẹp văn hóa giàu giá trị nhân văn. Với ý nghĩa cùng nét đặc sắc của mình, những ngày lễ hội diễn ra luôn thu hút đông đảo sự tham quan của du khách bốn phương.

Thuyết minh về một lễ hội truyền thống ở tỉnh Cao Bằng mẫu 2

Lễ hội pháo hoa Quảng Uyên là lễ hội truyền thống độc đáo với màn tranh pháo hoa đầu xuân của các xã tại thị trấn Quảng Uyên để cầu mong cho một năm mới may mắn, phát tài, phát lộc. Hàng năm, cứ vào ngày 2/2 âm lịch, nhân dân và du khách thập phương lại nô nức về Quảng Uyên trảy hội.

Lễ hội pháo hoa Quảng Uyên là lễ hội lớn nhất trong năm của nhân dân huyện Quảng Uyên, gắn với các yếu tố về lịch sử, tâm linh của miếu Bách Linh. Miếu được xây từ thời Lý dưới chân núi Cốc Bó, đến thời nhà Nguyễn được xây dựng lại hoàn toàn theo kiến trúc thời Nguyễn. Trước cổng có tam quan, sân tiền đường, hậu đường và hậu cung, hoành phi, câu đối. Trên cổng khắc 3 chữ “Bách Linh miếu”, có đắp nổi con rồng uốn khúc, xây bằng gạch vồ (gạch thời Mạc), có bức trạm rồng ngậm ngọc, bên cạnh có chim phượng cùng long ly tụ hội.

Phần đặc sắc nhất trong phần lễ là màn “khai quan” cho rồng mở mắt. Rồng được khai quan từ một mỏ nước (người dân địa phương gọi là bó Cốc Chủ - mỏ nước ở dưới gốc cây cổ thụ). Lễ do một cụ cao tuổi, có uy tín làm chủ lễ và một đội rồng gồm 15 người (3 người đánh trống, một người cầm quả cầu và 11 người múa rồng) làm lễ tại mỏ nước. Khi ra mỏ nước, rồng không được múa, không được đánh trống mà được bịt mắt bằng giấy bản, đến mỏ nước, rồng nằm phục ở đó. Người chủ lễ thắp hương vái thiên địa, cầu xin thần linh phù hộ cho người dân địa phương một năm làm ăn mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, đời sống ấm no, hạnh phúc và xin được mở mắt cho rồng. Cúng xong, chủ lễ cắt tiết con gà trống, lấy máu xoa vào hai mắt rồng rồi bỏ giấy ở mắt rồng ra, lúc này rồng đã được mở mắt, sau ba hồi trống nổi lên để đánh thức, rồng bắt đầu cử động từ đầu đến thân rồi đuôi. Sau đó, người ta đánh trống thúc giục và rồng từ từ bay lên, rồng bay quanh mỏ nước ba lần rồi đi vào miếu Bách Linh; trong miếu đã được đặt lễ và thắp hương, rồng vào miếu vái ba lần, sau đó đi trong miếu một vòng rồi ra ngoài.

Lễ vật dâng lên tế lễ gồm 2 con lợn quay, 1 mâm xôi, 1 mâm trứng nhuộm phẩm đỏ, 1 mâm hoa quả. Phần lễ diễn ra long trọng với 4 đoàn rước kiệu, mỗi kiệu có 4 người khiêng, mặc lễ phục. Đầu tiên là kiệu rước ảnh Bác Hồ, thứ hai là kiệu rước thần, thứ ba là kiệu pháo hoa, cuối cùng là kiệu rước một con lợn quay, là phần thưởng cho đội thắng cuộc trong trò chơi cướp đầu pháo. Theo sau đoàn rước kiệu là đoàn rước rồng, sau khi làm thủ tục thắp hương tại miếu, đoàn rước rồng xuất phát đến Đền thờ Nùng Trí Cao, Đền thờ Trần Hưng Đạo, sau đó đi khắp phố tới từng nhà. Đi tới đâu rồng cũng được người dân tiếp đón rất nồng nhiệt, trang trọng.

Phần hội diễn ra sôi nổi với nhiều trò chơi dân gian và biểu diễn văn nghệ, như: múa rồng, múa lân, tung còn, hát lượn, tranh đầu pháo... Trò chơi tiêu biểu của lễ hội là trò cướp đầu pháo, đầu pháo làm từ chiếc vòng sắt trang điểm tua ngũ sắc sặc sỡ, pháo được đặt trên một đài cao, sau khi đốt pháo, chờ cho đầu pháo rơi xuống, các đội bắt đầu tranh cướp, đội nào cầm được đầu pháo mang đến cho Ban Tổ chức là đội thắng cuộc. Gần đây, khi có lệnh cấm đốt pháo, Ban Tổ chức đã tiến hành trò chơi bằng cách đứng trên đài cao rồi tung vòng sắt (đầu pháo) ra cho các đội tranh cướp như thường lệ. Theo quan niệm của người dân địa phương thì ai bắt được vòng lộc pháo thì cả năm sẽ gặp may mắn, phát tài, phát lộc và đem lại vinh dự lớn cho xã mình. Xã nào thắng cuộc sẽ được phần thưởng là một con lợn quay trên kiệu trong lễ rước thần, cỗ kiệu cũng được để lại cho xã đó hương khói cầu lộc một năm đến lễ hội pháo hoa năm sau, địa phương này lại chuẩn bị một con lợn quay để lên kiệu, đoàn rước rồng sẽ đến lấy làm lễ rước thần, đồng thời làm phần thưởng cho đội thắng cuộc thi năm đó.

Theo thời gian, lễ hội pháo hoa Quảng Uyên đã tồn tại trong tâm thức nhiều thế hệ người dân Quảng Uyên và trở thành nét đẹp tinh thần không thể thiếu mỗi dịp xuân về.

Các lễ hội ở Cao Bằng đều mang tính nhân văn sâu sắc, hướng thiện, cầu phúc, cầu lộc, cầu mùa, và mong muốn cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp. Bên cạnh đó, còn có các lễ hội tôn vinh những anh hùng chống giặc ngoại xâm, các lễ hội thực hiện các nghi lễ, tập tục của dân tộc… Đồng thời lễ hội cũng là nơi bảo tồn, giữ gìn những giá trị của văn hoá, nghệ thuật truyền thống. Những câu hát Then, điệu hát Sli, Lượn, Phongslư, Dá Hai, Hà Lều… với những giai điệu ngọt ngào, da diết cùng những trò chơi dân gian thực sự hấp dẫn là những tiềm năng du lịch văn hoá rất lớn của vùng đất Cao Bằng.

Thuyết minh về một lễ hội truyền thống ở tỉnh Cao Bằng mẫu 3

Lễ hội pháo hoa Quảng Uyên là một trong những lễ hội truyền thống độc đáo, nổi tiếng với màn tranh pháo hoa độc đáo mỗi đầu xuân tại thị trấn Quảng Uyên. Mục tiêu chính của lễ hội là cầu mong một năm mới tràn đầy may mắn, phát tài, và phát lộc. Mỗi năm, vào ngày 2/2 âm lịch, cả nhân dân và du khách từ mọi nơi đổ về Quảng Uyên để tham gia trải nghiệm không khí trẩy hội sôi động.

Lễ hội pháo hoa Quảng Uyên được coi là sự kiện lớn nhất trong năm của cộng đồng nhân dân huyện Quảng Uyên. Nó liên quan chặt chẽ đến lịch sử và tâm linh của miếu Bách Linh, một công trình xây dựng từ thời Lý dưới chân núi Cốc Bó. Miếu này đã trải qua sự phục dựng hoàn toàn theo kiến trúc thời Nguyễn. Một số yếu tố nổi bật bao gồm tam quan, sân tiền đường, hậu đường và hậu cung, hoành phi, câu đối, cùng với bức trạm rồng ngậm ngọc và chim phượng cùng long ly tụ hội.

Phần lễ hội có điểm đặc sắc nhất chính là màn "khai quan" cho rồng mở mắt. Rồng được khai quan từ một mỏ nước, được biết đến địa phương như bó Cốc Chủ, nằm dưới gốc cây cổ thụ. Lễ hội được chủ trì bởi một cụ già có uy tín, làm chủ lễ, cùng với một đội rồng gồm 15 người, bao gồm 3 người đánh trống, một người cầm quả cầu, và 11 người múa rồng. Rồng được bịt mắt bằng giấy bản khi ra khỏi mỏ nước và nằm phục trước khi chủ lễ thắp hương. Người chủ lễ thực hiện nghi lễ cầu xin sự phù hộ từ thần linh, sau đó cắt tiết con gà trống để lấy máu xoa vào mắt rồng, "mở mắt" cho rồng. Sau khi đánh thức rồng, nó sẽ bay lên và thực hiện các động tác từ đầu đến đuôi trước khi vào miếu Bách Linh.

Lễ vật dâng lên tế lễ bao gồm 2 con lợn quay, 1 mâm xôi, 1 mâm trứng nhuộm màu đỏ, và 1 mâm hoa quả. Phần lễ diễn ra trang trọng với 4 đoàn rước kiệu, mỗi kiệu được bảo vệ bởi 4 người khiêng, mặc trang phục lễ phục. Điển hình là kiệu rước ảnh Bác Hồ, kiệu rước thần, kiệu pháo hoa, và kiệu rước một con lợn quay, là phần thưởng cho đội thắng cuộc trong trò chơi cướp đầu pháo. Sau đoàn rước kiệu là đoàn rước rồng, sau khi thắp hương tại miếu, đoàn rước rồng thăm các đền thờ và đi khắp phố tới từng nhà, được đón tiếp nồng hậu và trang trọng.

Phần hội của lễ hội được tổ chức sôi nổi với nhiều trò chơi dân gian và biểu diễn văn nghệ như múa rồng, múa lân, hát lượn, tranh đầu pháo, và trò cướp đầu pháo. Trò chơi cướp đầu pháo, dù có sự thay đổi khi có lệnh cấm đốt pháo, vẫn giữ nguyên tính chất cạnh tranh và may mắn. Người dân tin rằng bắt được đầu pháo sẽ mang lại may mắn, phú quý và vinh dự cho năm mới. Xã nào chiến thắng sẽ được thưởng một con lợn quay và cỗ kiệu để tạo lễ khói cầu lộc cho năm tiếp theo, và xã này lại chuẩn bị một con lợn quay để trở thành phần thưởng cho năm sau.

Qua thời gian, lễ hội pháo hoa Quảng Uyên đã trở thành một phần không thể thiếu trong tâm thức của nhiều thế hệ người dân và là biểu tượng của vẻ đẹp tinh thần mỗi khi xuân về. Các lễ hội tại Cao Bằng không chỉ mang tính nhân văn sâu sắc mà còn là nguồn bảo tồn và duy trì những giá trị văn hóa, nghệ thuật truyền thống. Những nét đặc sắc của văn hóa Cao Bằng, như câu hát Then, điệu hát Sli, Lượn, Phong Slư, Đá Hải, Hà Lều, cùng với các trò chơi dân gian đa dạng, đều là nguồn cảm hứng lớn cho du lịch văn hoá trong khu vực này.

Thuyết minh về một lễ hội truyền thống ở tỉnh Cao Bằng mẫu 4

Cao Bằng, với tư cách là cái nôi của cách mạng và một lịch sử văn hóa sâu sắc, đã ghi dấu những khoảnh khắc bi thương trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Ngoài ra, sự đa dạng văn hóa của cộng đồng dân tộc thiểu số ở đây cũng tạo nên một loạt các lễ hội truyền thống đặc sắc như Lồng tổng, Nàng Hai, Pháo Hoa, v.v.

Một trong những sự kiện quan trọng và lớn nhất trong những lễ hội này là Thanh Minh, diễn ra vào ngày 8/3 âm lịch. Mặc dù không phải là ngày lễ tết đặc biệt của người dân tộc Nùng An tại Phúc Sen, Cao Bằng, nhưng họ đã tạo ra một lễ hội lớn mang tên Thanh Minh. Lễ hội này, dù có nguồn gốc từ một câu chuyện tình yêu cổ xưa, đã trở thành một biểu tượng của văn hóa truyền thống không thể thiếu của người Nùng.

Lễ hội Thanh Minh, được tổ chức mỗi năm vào ngày 8/3 âm lịch, là nơi người ta tưởng nhớ và tôn vinh tình yêu chung thủy của đôi trai gái Sinh Mình. Câu chuyện cổ tích này kể về một đôi tình nhân quyết định quyên sinh để nối tiếp tình yêu dưới suối vàng. Nước suối từ đó trở thành một nguồn sống phong phú, tạo điều kiện thuận lợi cho đời sống nhân dân. Thông qua lễ hội Thanh Minh, người ta cầu chúc cho mùa màng bội thu, đời sống sung túc và hạnh phúc.

Lễ hội được chia thành hai phần: lễ và hội. Phần lễ diễn ra trong miếu Thổ Công, với các nghi lễ cúng tưởng niệm và cầu chúc cho mọi người. Mâm cỗ cúng được chuẩn bị kỹ lưỡng với các món ăn truyền thống, thể hiện lòng thành kính và tôn trọng đối với các vị thần linh và tổ tiên. Sau phần lễ trọng thể, người ta tiếp tục làm lễ tại nơi đôi trai gái Sinh Mình đã quyên sinh.

Phần hội của lễ hội Thanh Minh rất sôi động với nhiều hoạt động giải trí và văn nghệ. Các trò chơi dân gian như lẩy cỏ, tung còn, cà kheo, đi gậy... tạo nên không khí sôi nổi. Các tiết mục văn nghệ đặc sắc và những đôi trai gái trình diễn các bài hát giao duyên thêm phần hấp dẫn và tràn đầy màu sắc.

Lễ hội Thanh Minh không chỉ là dịp để ca ngợi tình yêu chung thủy, mà còn là cơ hội để cầu chúc cho cuộc sống bền vững và hạnh phúc của cộng đồng. Điều quan trọng là phải hiểu rằng những nét đẹp này là một phần quan trọng của văn hóa Việt Nam, đóng góp vào sự đa dạng và phong phú của cộng đồng dân tộc. Việc bảo tồn và trân trọng những giá trị này là trách nhiệm của chúng ta, giữ cho đất nước chúng ta không chỉ giàu có về tài nguyên mà còn phong phú về văn hóa.

Chia sẻ, đánh giá bài viết
11
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Văn mẫu lớp 10

    Xem thêm