Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Phân tích hình tượng của chủ tướng Lê Lợi trong Đại cáo Bình Ngô

VnDoc.com xin gửi tới bạn đọc bài viết Phân tích hình tượng của chủ tướng Lê Lợi trong Đại cáo Bình Ngô để bạn đọc cùng tham khảo.

Dàn ý phân tích hình tượng của chủ tướng Lê Lợi

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Nguyễn Trãi, tác phẩm Bình Ngô đại cáo.

- Dẫn vào vấn đề cần phân tích.

2. Thân bài

a. Sơ lược về thân thế Lê Lợi:

- Lê Lợi (1385-1433), quê gốc tại Lam Sơn (nay là Thọ Xuân, Thanh Hóa), vốn sinh ra trong một gia đình giàu có, nối nghiệp cha làm chúa trại tại Lam Sơn.

- Đầu năm 1416, ông cùng với 18 người bạn thân thiết, chung chí hướng đã lập hội thề Lũng Nhai, quyết chí lập nên nghĩa quân Lam Sơn, chống giặc Minh xâm lược, cứu nước.

b. Vẻ đẹp từ đức độ, tấm lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc:

- Cách xưng hô thân tình "ta" thể hiện sự khiêm nhường, gần gũi, nhưng cũng thể hiện ý thức của nhân vật về vị trí và tầm vóc của mình trong nghĩa quân, thể hiện dáng vẻ của một vị lãnh tụ có đủ đức, đủ tài.

- Chọn "núi Lam Sơn dấy nghĩa", làm điểm khởi đầu của nghĩa quân, đây là một lựa chọn chính xác, bởi hơn ai hết với vai trò là một chúa trại (Lê Lợi hiểu rất rõ địa hình quê hương, gần với gia đình ông, có thể dễ dàng tiếp tế lương thực và nhu yếu phẩm).

- Có tấm lòng vì nghĩa lớn sẵn sàng từ bỏ cuộc sống giàu sang, an nhàn của một chúa trại, từ chối lời dụ dỗ quan tước của nhà Minh để vào "chốn hoang dã nương mình".

- Tất cả những hành động, ý chí cao đẹp ấy của Lê Lợi đều xuất phát từ một lý do duy nhất là lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc "Ngẫm thù lớn há đội trời chung/Căm giặc nước thề không cùng sống".

c. Tâm huyết và những nỗi lòng sâu kín của chủ soái Lê Lợi trong những ngày nghĩa quân mới được thành lập:

- Mang vẻ đẹp của một con người mưu cao chí rộng, đức độ vô cùng với những tâm trạng "đau lòng, nhức óc, nếm mật nằm gai, quên ăn vì giận, những trằn trọc trong cơn mộng mị...".

- Lê Lợi thấu hiểu đạo lý, phàm là làm việc lớn ắt không thể nóng vội, thế nên ông một lòng nuôi quân, trăn trở "đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời". Có lòng kiên nhẫn "Nếm mật nằm gai há phải một hai sớm tối"

- Chính vì sứ mệnh nặng nề, trách nhiệm to lớn của mình mà Lê Lợi luôn "trằn trọc trong cơn mộng mị/chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi".

d. Những khó khăn của nghĩa quân và vẻ đẹp ý chí, sự thông thái của chủ soái Lê Lợi:

- Lực lượng còn non yếu, "nhân tài như lá mùa thu/tuấn kiệt như sao buổi sớm".

- Thiếu thốn cả quân đội, thiếu cả lương thực, Lê Lợi vẫn không hề nao núng "Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối".

-"Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới/Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào", bộc lộ khả năng hiệu triệu sức mạnh toàn dân của Lê Lợi, thu phục được nhân tâm, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

- Bộc lộ vẻ đẹp của sự tài trí, thao lược trong lĩnh vực quân sự khi "Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh/Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều", vận dụng rất tốt điểm mạnh của nghĩa quân vào chiến đấu, thực hiện chiến tranh du kích vừa hay hiệu quả lại khắc phục được nhược điểm quân lực mỏng manh của ta.

3. Kết bài

Nêu cảm nhận.

Phân tích hình tượng của chủ tướng Lê Lợi mẫu 1

Trong 9 tác gia văn học nổi tiếng của Việt Nam, Nguyễn Trãi là một trong số những nhà văn trung đại kiệt xuất, cuộc đời của ông gắn bó với sự biến đổi khôn lường của 3 triều đại là Trần - Hồ - Hậu Lê. Trong số đó với triều Hậu Lê Nguyễn Trãi đã trở thành bậc khai quốc công thần, là nhà quân sự, chính trị kiệt xuất đóng góp to lớn vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi đánh tan 15 vạn quân Minh xâm lược, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, một kỷ nguyên độc lập vững bền. Trong mảng văn chương, đặc biệt là các tác phẩm chính luận Nguyễn Trãi viết để phục vụ cho quá trình gây dựng đất nước và hoạt động đối ngoại, thì tác phẩm nào cũng được xem là áng văn chính luận mẫu mực bậc nhất. Nổi bật nhất trong số đó chính là tác phẩm Bình Ngô đại cáo, được viết sau thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn, đây được xem là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc, là áng thiên cổ hùng văn nghìn đời khó có. Trong tác phẩm ngoài việc nêu luận đề chính nghĩa, tố cáo tội ác của giặc Minh, ca ngợi sức mạnh đoàn kết của nghĩa quân, tường thuật lại cuộc khởi nghĩa thì Nguyễn Trãi cũng không quên dành một đoạn thơ khá dài để khắc họa hình tượng chủ tướng Lê Lợi, một con người tài năng, đức độ, lãnh đạo nghĩa quân từ những ngày khổ tận cho đến ngày cam lai.

Trong Bình Ngô đại cáo hình tượng Lê Lợi được Nguyễn Trãi dựng lên từ những ngày khởi nghĩa mới bắt đầu, khó khăn chồng chất, dưới hình thức lời tự thuật của nhân vật.

"Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình.
Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống."

Cách xưng hô thân tình "ta" thể hiện sự khiêm nhường, gần gũi, nhưng cũng thể hiện ý thức của nhân vật về vị trí và tầm vóc của mình trong nghĩa quân, thể hiện dáng vẻ của một vị lãnh tụ có đủ đức, đủ tài. Lê Lợi là người Lam Sơn, lại ý thức được trách nhiệm bảo vệ đất nước của người nam nhi để trả mối nợ công danh thế nên ông cũng chọn "núi Lam Sơn dấy nghĩa", làm điểm khởi đầu của nghĩa quân. Có thể nói rằng đây là một lựa chọn chính xác, bởi hơn ai hết với vai trò là một chúa trại, Lê Lợi hiểu rất rõ địa hình quê hương, việc nuôi giấu, luyện binh trở nên dễ dàng và thuận lợi hơn rất nhiều, không những thế nơi này còn gần với gia đình ông, có thể dễ dàng tiếp tế lương thực và nhu yếu phẩm hàng ngày, nghĩa quân ổn định chuẩn bị cho chiến đấu. Thêm vào đó ta cũng thấy được đức hạnh của Lê Lợi, một chàng trai 21 tuổi thế nhưng có tấm lòng vì nghĩa lớn ông sẵn sàng từ bỏ cuộc sống giàu sang, an nhàn của một chúa trại, từ chối lời dụ dỗ quan tước của nhà Minh để vào "chốn hoang dã nương mình". Chấp nhận cuộc sống thiếu thốn, nguy hiểm trùng vây, ngày đêm mất ngủ lo nghĩ kế sách diệt giặc, thật là xứng đáng với mấy chữ lãnh tụ đức độ, kiệt xuất của dân tộc. Mà tất cả những hành động, ý chí cao đẹp ấy của Lê Lợi đều xuất phát từ một lý do duy nhất là lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc "Ngẫm thù lớn há đội trời chung/Căm giặc nước thề không cùng sống". Kết hợp với lý tưởng trả món nợ công danh và lòng quyết tâm mạnh mẽ thực hiện hoài bão, Lê Lợi đã trở thành một vị lãnh tụ xuất sắc, là người anh hùng áo vải xuất thân từ tầng lớp nhân dân, xứng đáng trở thành người đứng đầu của một đất nước sau này.

Đặc biệt tấm lòng yêu nước và ý chí quyết tâm dẹp giặc của Lê Lợi còn được thể hiện một cách sâu sắc trong đoạn thơ tiếp.

"Đau lòng nhức óc, chốc đã mười mấy năm trời,
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh;
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi."

Đoạn thơ đã bộc lộ tâm huyết và những nỗi lòng sâu kín của chủ soái Lê Lợi trong những ngày nghĩa quân mới được thành lập. Ở ông hội tụ đầy đủ những vẻ đẹp tiêu biểu của một chủ soái kiệt xuất, không chỉ là người có tấm lòng yêu nước thương dân, lòng căm thù giặc không đội trời chung, mà ông còn xuất hiện với vẻ đẹp của một con người mưu cao chí rộng, đức độ vô cùng với những tâm trạng "đau lòng, nhức óc, nếm mật nằm gai, quên ăn vì giận, những trằn trọc trong cơn mộng mị...". Lê Lợi thấu hiểu đạo lý, phàm là làm việc lớn ắt không thể nóng vội, thế nên ông một lòng nuôi quân, trăn trở "đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời", để xây dựng một lực lượng quân đội hùng hậu, tăng cao khả năng chiến đấu. Rất có lòng kiên nhẫn "Nếm mật nằm gai há phải một hai sớm tối", một lòng suy xét nghiên cứu sách lược để chiến đấu với giặc Minh đương lúc hung hăng, thịnh thế, những nỗi lo lắng, nghĩa suy vì dân tộc khiến Lê Lợi khó lòng an ổn. Bởi ngày ngày chứng kiến cảnh giặc Minh giày xéo đất nước, với tư thái, đạo đức và tấm lòng yêu nước thương dân sâu sắc Lê Lợi "quên ăn vì giận". Và càng như thế ông lại càng phải thêm đắn đo, nghiên cứu kỹ càng, sao cho tiến đánh quân thù một cách thuận lợi, nhanh chóng đuổi chúng khỏi nước ta, tuy nhiên không được phép nóng vội, hồ đồ mà làm tổn thất nghĩa quân, trong khi quân thù không hề hấn. Chính vì sứ mệnh nặng nề, trách nhiệm to lớn của mình mà Lê Lợi luôn "trằn trọc trong cơn mộng mị/chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi", thật là muôn phần khó khăn.

Trong khuôn khổ khắc họa người anh hùng áo vải Lê Lợi, Nguyễn Trãi cũng thông qua đó mà bộc lộ những khó khăn ban đầu của nghĩa quân, cũng như thể hiện được thêm những khía cạnh tài năng khác của chủ soái Lê Lợi.

"Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.

Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông,
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.

Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan."

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dù có hậu phương vững mạnh, nhưng những buổi ban đầu vẫn gặp vô vàn khó khăn chồng chất. Một lực lượng mỏng như cánh ve gồm hơn ngàn người, lại phải đối chọi với một đạo quân thù lên tới hàng chục vạn quân, không khác nào trứng chọi với đá, châu chấu đá xe. Quan trọng hơn việc quân cơ thao lược không thể nào một mình Lê Lợi có thể kham hết, vậy là ngặt nỗi "nhân tài như lá mùa thu/tuấn kiệt như sao buổi sớm", người tài thạo việc quân sự, chính trị gọi mãi mà chẳng ai thấu, hoặc là không biết hoặc là vì muốn tránh sự đời mà tìm chốn ẩn dật nương náu, điều đó khiến Lê Lợi không khỏi băn khoăn, buồn bã. Tuy nhiên với phong thái của một chủ soái, ý chí cứu nước, dẹp giặc vẫn chưa khi nào nguôi ngoai mà trái lại càng thêm mạnh mẽ, ngọn lửa căm thù càng thêm rạo rực "Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông/Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả". Từ đó ta nhận thấy được một phẩm chất cao đẹp, thể hiện sự sáng suốt, tài năng của Lê Lợi ấy chính là tấm lòng yêu chuộng nhân tài, coi trọng sức mạnh đến từ nhân dân, sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, thấu hiểu rằng sức mạnh tổng hợp từ nhân dân mới là yếu tố tiên quyết quyết định thắng lợi của khởi nghĩa. Không chỉ dừng lại ở việc thiếu nhân tài mà cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi còn thiếu thốn cả quân đội, thiếu cả lương thực, quả thực tình thế không mấy khả quan. Thế nhưng trước tình hình khó khăn muôn bề như vậy, Lê Lợi vân không hề nao núng "Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối", tự thân vận động, làm vô số việc để khắc phục tình hình, cũng như có tấm lòng lạc quan, tự tin và bản thân và tính chất của cuộc khởi nghĩa "Trời thử lòng trao cho mệnh lớn/Ta gắng trí khắc phục gian nan", liên tục củng cố tinh thần của bản thân và các tướng sĩ. Cuối cùng không phụ lòng mong đợi, tấm lòng của Lê Lợi cũng được nhân dân thấu hiểu "Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới/Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào", bộc lộ khả năng hiệu triệu sức mạnh toàn dân của Lê Lợi, thu phục được nhân tâm, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Đồng thời cũng bộc lộ vẻ đẹp của sự tài trí, thao lược trong lĩnh vực quân sự khi "Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh/Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều". Với khả năng quân sự thiên bẩm, Lê Lợi đã vận dụng rất tốt điểm mạnh của nghĩa quân vào chiến đấu, chúng ta có núi rừng Lam Sơn hiểm trở, lại thông thạo địa hình, thì còn gì hơn là việc "dùng quân mai phục", đánh úp quân thù, thực hiện chiến tranh du kích vừa hay hiệu quả lại khắc phục được nhược điểm quân lực mỏng manh của ta.

Như vậy chỉ thông qua một đoạn thơ ngắn, hình tượng người anh hùng áo vải Lê Lợi, vị lãnh tụ kiệt xuất trong lịch sử trung đại của dân tộc đã hiện lên một cách khá đầy đủ và sắc nét. Khắc họa được những vẻ đẹp hơn người từ đức độ, tài năng, tới tấm lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc. Có thể nói rằng, Lê Lợi chính là nhân tố then chốt, đóng góp vai trò hạt nhân trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đồng thời là người có vai trò quan trọng trong lịch sử dân tộc giai đoạn 1418-1433.

Phân tích hình tượng của chủ tướng Lê Lợi mẫu 2

Nguyễn Trãi là bậc đại anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới, đồng thời cũng là người phải chịu nỗi oan khiên thảm khốc nhất trong lịch sử Việt Nam. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Trãi khá đồ sộ với nhiều tác phẩm có giá trị ở nhiều thể loại. Ở lĩnh vực văn chính luận, Nguyễn Trãi được xem là nhà văn chính luận kiệt xuất, văn chính luận của ông đạt tới trình độ nghệ thuật mẫu mực. Một trong những tác phẩm đặc sắc nhất phải kể đến là “Bình Ngô đại cáo”. Tác phẩm có giá trị như Bản tuyên ngôn độc lập, là “áng thiên cổ hùng văn” của dân tộc. Trong tác phẩm này, tác giả đã xây dựng rất thành công hình tượng thủ lĩnh – người anh hùng áo vải Lê Lợi, tiêu biểu là đoạn thơ sau:

Ta đây:

……………………………

Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.”

Đầu năm 1428, sau khi đại thắng quân Minh, Lê Lợi lên ngôi vua, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết “Đại cáo bình Ngô” để tuyên bố kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình cho dân tộc. Tác phẩm được viết bằng thể cáo, là thể văn nghị luận có nguồn gốc từ Trung Quốc cổ xưa, dùng để công bố việc lớn với muôn dân. “Bình Ngô đại cáo” là bản anh hùng ca tổng kết cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược, gian khổ mà hào hùng của quân dân Đại Việt; là bản tuyên ngôn độc lập sáng chói tư tưởng nhân nghĩa yêu nước và khát vọng hoà bình.

Bài cáo có bố cục gồm bốn phần, phần một: nêu lên luận đề chính nghĩa; phần hai: tố cáo tội ác của kẻ thù xâm lược; phần ba: hồi tưởng về cuộc kháng chiến; phần bốn: lời tuyên ngôn độc lập. Đoạn trích trên nằm ở đầu phần ba của bài ” Bình Ngô đại cáo”, thể hiện hình tượng chủ tướng Lê Lợi và những năm tháng gian nan buổi đầu cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

Mở đầu đoạn cáo, tác giả đứng trên cương vị Lê Lợi – người thủ lĩnh hồi tưởng lại cuộc khởi nghĩa với những khó khăn buổi đầu:

Ta đây:

Núi Lam Sơn dấy nghĩa,

Chốn hoang dã nương mình.

Ngẫm thù lớn há đội trời chung,

Căm giặc nước thề không cùng sống.”

Ở giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa, Nguyễn Trãi đã khắc hoạ thành công hình tượng chủ tướng Lê Lợi có sự kết hợp và thống nhất giữa con người bình thường và lãnh tụ nghĩa quân: bình thường từ nguồn gốc xuất thân “Chốn hoang dã nương mình” đến cách xưng hô khiêm nhường, gần gũi “ta”, chưa phải là “trẫm” như sau này. Đồng thời Lê Lợi còn là người có lòng căm thù giặc sâu sắc, có lý tưởng hoài bão lớn, có quyết tâm cao thực hiện lí tưởng. Chính vì vậy, Lê Lợi là người anh hùng áo vải xuất thân từ nhân dân.

lê lợi

Lê Lợi dấy nghiệp từ chốn núi rừng Lam Sơn hoang dã, giữa lúc kẻ thù đang ở thế mạnh. Đó là sự thực, buổi đầu khởi nghiệp gặp khó khăn về mọi mặt. Bởi thế những trăn trở, băn khoăn, day dứt của ông trước vận mệnh đất nước là chân thành, dễ chia sẻ:

Đau lòng nhức óc, chốc đã mười mấy năm trời,

Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.

Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh;

Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kĩ.

Những trằn trọc trong cơn mộng mị,

Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.”

Người anh hùng áo vải Lê Lợi hiện lên với những tâm trạng: đau lòng, nhức óc, nếm mật nằm gai, quên ăn vì giận, những trằn trọc trong cơn mộng mị…đó là những phẩm chất cao đẹp, lớn lao và sâu sắc của người anh hùng, xứng đáng là lãnh tụ của nghĩa quân. Tâm trạng của Lê Lợi được Nguyễn Trãi thể hiện có những điểm chung với tâm trạng của Trần Quốc Tuấn trong “Hịch Tướng Sĩ”: “…Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xẻ thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù…Dù cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng…”. Cùng có lòng căm thù giặc sục sôi, cùng nuôi chí lớn, cùng một quyết tâm sắt đá. Chính cảm hứng về truyền thống dân tộc đã giúp Nguyễn Trãi khắc hoạ thành công hình tượng người anh hùng Lê Lợi.

Qua hình tượng Lê Lợi, tác giả nêu lên tính chất nhân nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, vượt qua gian khổ, khó khăn và sức mạnh chiến thắng:

Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,

Chính lúc quân thù đang mạnh.

………………………………………….

Trời thử lòng trao cho mệnh lớn,

Ta gắng chí khắc phục gian nan.”

Buổi đầu Lê Lợi cùng nghĩa quân phải vượt qua muôn vàn gian khổ: thế giặc mạnh, tàn bạo, ta lại thiếu nhân tài, thiếu quân, thiếu lương thực… nhưng nhờ có lòng căm thù giặc, ý chí quyết tâm, lí tưởng cao cả và tinh thần đoàn kết nghĩa quân đã nhanh chóng có được những thắng lợi.

Trên cương vị là người thủ lĩnh, với tài năng và phẩm chất cao đẹp, Lê Lợi đã kịp thời đưa ra những phương cách, đường lối kháng chiến phù hợp cho toàn nghĩa quân: dựa vào tinh thần tự lực cánh sinh, cầu hiền kết hợp đường lối kháng chiến “dùng quân mai phục”, “thế trận xuất kì” và sức mạnh đoàn kết toàn dân:

Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới,

…………………………………………………….

Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều”

Như vậy, ngay từ rất sớm, Nguyễn Trãi đã đề cao tính chất nhân dân, tính chất toàn dân, đặc biệt đề cao vai trò của người dân nghèo trong cuộc khởi nghĩa. Tư tưởng lớn này chưa từng thấy ở “Nam quốc sơn hà” hay ở “Hịch tướng sĩ”, lần đầu tiên xuất hiện ở “Bình Ngô đại cáo” – hình ảnh “nhân dân bốn cõi một nhà”, “tướng sĩ một lòng phụ tử” rất cảm động, mới mẻ và hào hùng. Đây là nét độc đáo, lời tuyên ngôn về vai trò và sức mạnh của nhân dân, của sự nghiệp chính nghĩa.

Để xây dựng thành công hình tượng người anh hùng áo vải Lê Lợi, làm nổi bật linh hồn nghĩa quân, Nguyễn Trãi đã sử dụng những biện pháp nghệ thuật rất đặc sắc, đặc biệt là cách xây dựng hình tượng tâm lí nhân vật và việc sử dụng kết hợp bút pháp tự sự – trữ tình, qua đó phản ánh những khó khăn gian khổ của buổi đầu và ý chí đấu tranh giải phóng đất nước của quân dân Đại Việt. Lời văn biền ngẫu với những vế đối cân xứng, nhịp nhàng góp phần làm nên thành công của đoạn cáo.

Tóm lại, với nghệ thuật đặc sắc, đoạn cáo đã xây dựng thành công hình ảnh lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn với những đặc điểm của người anh hùng mang đầy đủ phẩm chất và sức mạnh của cộng đồng trong cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh. Đoạn cáo góp phần quan trọng làm nên giá trị lời tuyên ngôn độc lập. Với tài năng của mình, Nguyễn Trãi xứng đáng là nhà văn chính luận kiệt xuất, sống mãi trong lòng người đọc.

Phân tích hình tượng của chủ tướng Lê Lợi mẫu 3

Văn học trung đại Việt Nam là giai đoạn văn học với nhiều sự biến chuyển nhất là của các triều đại. Trong giai đoạn này, không ít tác phẩm xuất sắc đã ra đời nhưng nổi bật hơn thảy phải nói đến Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Chắc hẳn ai trong chúng ta đã từng một lần nghe đến tên Nguyễn Trãi một nhà nho yêu nước, một khai quốc công thần và là một danh nhân văn hóa thế giới xuất chúng. Ở Bình Ngô đại cáo ông gửi gắm toàn bộ tâm tư tình cảm của mình để nói đến những vấn đề chính trị mang phong cách chính luận. Tác phẩm ngoài bàn đến những vấn đề nhân nghĩa của nhà nho, tố cáo, vạch trần tội ác giặc Minh còn ca ngợi tinh thần, truyền thống chống giặc của quân dân ta. Đặc sắc hơn, Nguyễn Trãi đã dựng nên hình tượng Lê Lợi trong Bình Ngô đại cáo đầy tài ba và anh hùng.

Ở đoạn ba, hình tượng Lê Lợi trong Bình Ngô đại cáo được khắc họa bằng ngôn từ thông qua tài năng của Nguyễn Trãi. Nét phác họa đầu tiên mà tác giả chọn chính là cách nhân vật hồi tưởng về quá khứ thể hiện rõ ở đoạn:

“Ta đây

Núi Lam Sơn dấy nghĩa

Chốn hoang dã nương mình

Ngẫm thù lớn há đội trời chung

Căm giặc nước thề không cùng sống.”

Trước khi được biết đến là một vị anh hùng, Lê Lợi là người con của đất Lam Sơn, sinh ra trong gia đình giàu có, nối nghiệp cha làm chúa trại. Với lòng yêu nước và căm thù giặc, ông cùng 18 người bạn lập ra nghĩa quân Lam Sơn với lời thề quyết tâm chống giặc cứu nước. Lý tưởng lớn lao của Lê Lợi nói riêng và nghĩa quân Lam Sơn nói chung đã khiến nhân dân kính nể, giặc ngoại bang phải lo sợ, thế nên chúng tìm mọi cách tiêu diệt nghĩa quân.

Trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến, có vô vàn khó khăn hiểm trở, Lê Lợi đã dùng hết sức cùng nghĩa quân vượt qua giai đoạn khó khăn này. Nguyễn Trãi đã tài tình vẽ nên một Lê Lợi đời thường nhưng vẫn đầy khí phách của một vị lãnh tụ.

Trong câu “Ta đây”, từ “Ta” mang hai lớp nghĩa. Một là đại từ nhân xưng chỉ cá nhân Lê Lợi, điều này cho thấy được sự tự ý thức về giá trị bản thân, cũng như vai trò, vị trí của ông đối với nghĩa quân trong cuộc kháng chiến. Nghĩa thứ hai là chỉ toàn bộ nghĩa quân Lam Sơn, ở lớp nghĩa này ông tỏ ý khiêm nhường, tạo ra sự gần gũi giữa “tướng” và “quân”, xóa bỏ rào cản binh quyền mà thay vào đó là lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc. Bấy nhiêu đó, ta đã thấy tác giả vẽ lên chân dung một vị anh hùng đức độ, tài năng và giàu sự khiêm tốn, mang dáng dấp của một đấng minh quân.

Mặt khác, ông chọn Lam Sơn làm căn cứ cho nghĩa quân, bởi ông am hiểu về địa hình cũng như nắm rõ các đặc điểm trọng yếu, chính sự hiểu biết tường tận ấy giúp ông có khả năng điều binh khiển tướng, nuôi binh chờ chiến. Cùng với đó, nhân dân sẽ dễ dàng tiếp thêm lương thực thực phẩm cũng như vũ khí, phục vụ cho cuộc khởi nghĩa.

Lê Lợi xuất thân là chúa trại, ông có thừa khả năng sống một cuộc sống an nhàn trong vinh hoa phú quý nhưng lại chọn “chốn hoang dã nương mình” vì nợ nước thù nhà. Trong ông có sự nhận thức rõ rệt về cái chí làm trai phải gánh nợ non sông, bởi mới nói ông chính là người anh hùng áo vải xuất thân từ nhân dân. Cái làm nên một Lê Lợi anh hùng chỉ gói gọn trong hai câu “Ngẫm thù lớn há đội trời chung/ Căm giặc nước thề không cùng sống.”

Để rồi khi dấng thân vào chinh chiến chàng thanh niên hai mươi mốt tuổi đã phải lao tâm khổ tứ vì nước vì dân. Chính lúc này vẻ đẹp lý tưởng của ông lại một lần nữa tỏa sáng, thể hiện ở đoạn:

“Đau lòng nhức óc, chốc đã mười mấy năm trời,

Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối,

Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh;

Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kĩ.

Nhưng trằn trọc trong cơn mộng mị,

Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.”

Dường như mọi sự khổ tâm, lao lực của Lê Lợi đều được phác họa hết bằng ngôn từ biết nói của Nguyễn Trãi, từng câu, từng chữ ta thấy từng nhịp thở của sự lo âu. Ở đoạn này, tác giả không chỉ vẽ nên bức chân dung ngoại hình, mà còn cho người đọc thấy được vẻ đẹp ẩn chứa bên trong tâm hồn người anh hùng áo vải. Ông đau với sự đau đớn của nhân dân, chịu “nếm mật nằm gai”, “quên ăn vì giận”, ông có sự thấu hiểu đạo lý rằng phàm là việc lớn thì không thể nóng vội, nhưng mỗi giờ phút trôi qua lòng căm thù giặc trong ông lại sục sôi.

Chính vì sứ mệnh lớn lao ấy đã làm ông trăn trở, lo âu nuôi binh, thao luyện, phải làm thế nào cho nghĩa binh ngày một lớn mạnh, làm thế nào để nhanh chóng đánh đuổi ngoại bang. Hình ảnh nằm gai nếm mật được Nguyễn Trãi sử dụng vô cùng đắt giá, mang tính gợi hình cao cho thấy được sự khó khăn vất vả của một đấng anh hùng lãnh đạo kháng chiến. Đến cả trong giấc mơ cũng chẳng thể yên giấc, hết trằn trọc lại băn khoăn.

Thế nhưng, đã là anh hùng, là lãnh đạo ông không cho phép mình khuất phục trước kẻ thù, ông thấy rõ thế mạnh, điểm yếu của chúng từ đó suy ngẫm mưu lược tìm cách vượt qua khó khăn trước mắt. Hình tượng Lê Lợi ở đây thể hiện thông qua tính chất của một cuộc chiến tranh chính nghĩa, cuộc chiến này đã để lại cho nước ta một vị anh hùng kiệt xuất.

“Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,

Chính lúc quân thù đang mạnh.

.......

Trời thử lòng trao cho mệnh lớn

Ta gắn trí khắc phục gian nan.”

Dù nghĩa quân Lam Sơn được sự tín nhiệm và ủng hộ nồng hậu của nhân dân, nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót buổi đầu. Ngay lúc giặc minh đang thế hung hăng, tàn bạo; quân ta lại yếu thế vì thiếu nhân tài, thiếu người, thiếu quân lương,... Đất nước đang lâm nguy nhưng người tài như sao buổi sớm, quân sư cũng hiếm hoi, chẳng được bấy nhiêu người dám đứng lên đem sức mình chống giặc. Dù khó khăn là thế, nhưng ông quyết không nản chí mà tìm cách vượt lên dùng lòng căm thù giặc làm động lực, cùng nghĩa quân củng cố lòng tin.

Ta thấy được ở ông có sự quí trọng người tài và lạc quan trước tình thế, kiên cường chịu đựng mọi khổ ải. Hình tượng Lê Lợi được đưa lên trên cái tối tăm, trở ngại, nó bùng cháy tỏa sáng với ý chí mãnh liệt của một vị lãnh tụ.

Dựa vào tài thao lược dụng binh, ông đã điều binh đưa ra những đường lối phù hợp. Qua quá trình trao dồi mưu lược, ông từng bước đưa nghĩa quân tiến đến thắng lợi sau cùng. Thấy được sự tàn bạo, hung ác của kẻ địch làm lòng dân uất hận nhưng do chưa có người đứng ra lãnh đạo tập hợp sức mạnh quần chúng để khởi nghĩa thế nên họ cam chịu số phận. Nắm được tình hình chung, Lê Lợi bắt đầu suy tính cho cuộc chiến thể hiện ở đoạn:

“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới,

Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào

.......

Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.”

Qua rồi những tháng ngày bốn bề thiếu thốn, Lê Lợi chính thức được nhân dân ủng hộ về mọi mặt. Nhận thấy thời cơ đã chín muồi ông đưa ra đường lối tác chiến “thế trận xuất kỳ”, lấy yếu chống lại mạnh, rồi dùng quân mai phục để lấy ít địch nhiều. Đường lối tác chiến chủ động và sáng tạo phù hợp với lực lượng của ta lúc bấy giờ.

Ông có cái nhìn bao quát và nhận thấy được điểm yếu của ta thế nên sử dụng phương pháp mai phục đánh úp nhằm tiêu hao sinh lực địch theo từng cụm nhỏ phù hợp với lực lượng mỏng manh của ta. Cách đánh này được học hỏi và vận dụng nhiều về sau nhất là trong hai cuộc kháng chiến lớn ở nước ta, gọi là chiến tranh du kích.Từ đó ta thấy được sự thông minh thiên bẩm cùng trí sáng tạo siêu phàm, trong việc vận dụng đường lối tác chiến. Ông đã kêu gọi được sức mạnh toàn dân, thắt chặt tình đoàn kết quân dân, đó chính là chìa khóa cuối cùng mở ra chiến thắng lịch sử nước nhà.

Tóm lại, Nguyễn Trãi đã thành công khi khắc họa nên hình tượng Lê Lợi trong Bình Ngô đại cáo. Đọc từng câu thơ, ta thấy hình ảnh người anh hùng tài ba đang lấp lánh trang trang sách. Vậy mới cảm hết được tình cảm cũng như sự tôn kính của tác giả với Lê Lợi. Đâu chỉ có vậy, ta còn thưởng thức được một kiệt tác của một đại thi hào dân tộc, một cây cổ thụ trong văn học trung đại Việt Nam với những biến động liên tục. Nguyễn Trãi không khắc họa hình tượng Lê Lợi như một vị vua trên ngai vàng mà chủ yếu nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn và lý tưởng cao đẹp khiến người người nể phục.

Để đến tận hôm nay, lịch sử nước ta vẫn còn đó một mốc son chói lọi về thời kỳ hào hùng chống giặc Minh của người anh hùng áo vải Lê Lợi.

Phân tích hình tượng của chủ tướng Lê Lợi mẫu 4

Trong danh sách 9 nhà văn nổi tiếng của Việt Nam, Nguyễn Trãi được xem là một trong những nhà văn xuất sắc của thời Trung đại. Cuộc đời ông chặt chẽ liên kết với sự thay đổi đáng kể của ba triều đại lịch sử: Trần, Hồ và Hậu Lê. Trong giai đoạn Hậu Lê, Nguyễn Trãi đã trở thành một vị công thần khai quốc, là một nhà quân sự và chính trị gia kiệt xuất, có đóng góp vô cùng quan trọng trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi, đánh đổ 15 vạn quân Minh xâm lược và mở ra một thời đại độc lập vững bền trong lịch sử dân tộc.

Trong lĩnh vực văn chương, đặc biệt là trong các tác phẩm chính luận, Nguyễn Trãi được coi là gương mẫu hàng đầu. Các tác phẩm của ông viết nhằm phục vụ quá trình xây dựng đất nước và hoạt động ngoại giao, và được xem là những tác phẩm chính luận lý tưởng nhất. Trong số đó, tác phẩm nổi bật nhất là Bình Ngô đại cáo, được viết sau chiến thắng trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Tác phẩm này được coi là tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, một kiệt tác văn học vượt thời gian. Bên cạnh việc trình bày các luận điểm về chính nghĩa, tố cáo tội ác của quân Minh và ca ngợi sức mạnh đoàn kết của nghĩa quân, Nguyễn Trãi cũng không quên miêu tả chủ tướng Lê Lợi - một người tài năng, đức độ và lãnh đạo người lính từ những ngày khó khăn cho đến ngày chiến thắng.

Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi tạo dựng hình tượng Lê Lợi bằng cách sử dụng lời tự thuật của nhân vật, bắt đầu từ những ngày khởi nghĩa đầy khó khăn:

"Tôi đây,
Núi Lam Sơn nổi lên với ý nghĩa cao cả,
Nơi hoang dã tôi đã nương mình.
Nhìn thấy sự thù địch lớn đan xen với trời cao,
Tôi thề đối đầu với kẻ xâm lược, không bao giờ sống chung."

Việc sử dụng cách gọi thân mật "tôi" cho thấy tính khiêm tốn, gần gũi của Lê Lợi, nhưng cũng thể hiện ý thức của nhân vật về tầm quan trọng và vị trí của mình trong nghĩa quân. Lê Lợi, người gốc Lam Sơn, nhận thức rõ trách nhiệm bảo vệ đất nước của người dân nam nhi để trả công danh đã được định sẵn. Ông chọn "núi Lam Sơn nổi lên với ý nghĩa cao cả" là điểm khởi đầu cho nghĩa quân. Điều này là một quyết định đúng đắn, vì như không ai khác, Lê Lợi, với tư cách là một chủ trại, hiểu rõ địa hình quê hương và có thể dễ dàng ẩn náu và huấn luyện binh lính. Điều này cũng giúp duy trì sự ổn định và chuẩn bị cho cuộc chiến. Ngoài ra, chúng ta cũng nhận thấy lòng tốt của Lê Lợi, một chàng trai chỉ mới 21 tuổi nhưng đã sẵn sàng từ bỏ cuộc sống giàu sang, thoải mái của một chủ trại, từ chối lời mời của các quan tước nhà Minh để "nương mình" trong "nơi hoang dã". Ông chấp nhận cuộc sống thiếu thốn, nguy hiểm, không ngủ để suy nghĩ và lập kế sách để tiêu diệt kẻ thù. Điều này thể hiện sự lãnh đạo đức độ và kiệt xuất của ông trong dân tộc. Tất cả những hành động và quyết tâm cao đẹp của Lê Lợi đều bắt nguồn từ một lý do duy nhất: tình yêu nước và sự căm thù sâu sắc đối với kẻ thù, như được thể hiện trong câu "Nhìn thù lớn đến nỗi chạm trời/Căm giặc nước, thề không chung sống". Kết hợp với ý tưởng trả công danh và lòng quyết tâm mạnh mẽ để thực hiện hoài bão, Lê Lợi trở thành một lãnh tụ xuất sắc, một anh hùng dân tộc xuất thân từ tầng lớp nhân dân, xứng đáng trở thành người đứng đầu của một đất nước trong tương lai.

Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi tiết lộ những tâm huyết sâu sắc và nỗi lòng kín đáo của Lê Lợi, người đứng đầu nghĩa quân mới thành lập. Ông không chỉ là một chủ soái xuất sắc, có tình yêu nước và lòng thương dân, căm thù kẻ thù không đội trời chung, mà còn mang trong mình tinh thần mưu trí cao cả và lòng đức độ tuyệt vời. Ông trải qua những tâm trạng đau lòng, nhức óc, chịu đựng những gian khổ và sự đau đớn, thậm chí quên ăn vì giận, trong những cơn mộng mị. Lê Lợi hiểu rằng công việc lớn không thể hoàn thành nhanh chóng và không thể hấp tấp. Do đó, ông dành hết tâm trí để đào tạo và nuôi dưỡng lực lượng quân đội mạnh mẽ, mất hàng chục năm suy nghĩ và lo lắng. Ông kiên nhẫn chịu đựng những khó khăn và hiểm nguy, không ngần ngại nếm mật nằm gai. Lê Lợi dành nhiều thời gian để nghiên cứu sách lược, để tìm cách chiến đấu một cách hiệu quả với giặc Minh, dù chúng đang trong tình thế mạnh mẽ và hung hãn. Tâm huyết và lòng yêu nước sâu sắc khiến ông quên ăn vì giận, cảm thấy lo lắng và suy nghĩ vì dân tộc. Tuy nhiên, ông cũng hiểu rằng không thể hành động vội vã và không suy tính, để tránh gây tổn thất cho nghĩa quân, trong khi kẻ thù không ngừng tấn công. Với sứ mệnh nặng nề và trách nhiệm lớn, Lê Lợi luôn sống trong những giấc mơ mị, chỉ băn khoăn và lo lắng về một vấn đề quay quắt, đó là cách khó khăn và phức tạp để thực hiện sứ mệnh của mình.

Trong việc miêu tả cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi và Nguyễn Trãi, ta có thể nói rằng họ đã đối mặt với nhiều khó khăn và vượt qua những thử thách ban đầu. Mặc dù cuộc khởi nghĩa có sự ủng hộ từ phía nhân dân và có một hậu phương tương đối vững mạnh, nhưng lực lượng nghĩa quân ban đầu vẫn gặp nhiều khó khăn. Họ phải đối đầu với một quân địch lớn hơn hàng chục lần và đối mặt với tình hình thiếu hụt nhân tài và lương thực.

"Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,

Chính lúc quân thù đang mạnh.

Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông,
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.

Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan."

Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã nhận thức được những khó khăn này và thông qua việc tổ chức và lãnh đạo, họ đã vượt qua những thách thức này. Lê Lợi được miêu tả như một người có tài năng quân sự và chính trị, nhưng những tài năng này không được công nhận và hiểu rõ. Có thể do ý chí sống cách biệt hoặc để tránh sự chú ý, Lê Lợi không thể tận dụng hết những nhân tài ở xung quanh mình. Tuy nhiên, tấm lòng yêu nước của Lê Lợi không bao giờ nguôi ngoai. Ông luôn muốn đưa quân đội về phía đông, chăm chút cho phía tả và luôn quan tâm đến việc cứu nước.

Mặc dù Lê Lợi đối mặt với sự vắng mặt của người khác và có thể cảm thấy cô đơn như nhìn vào biển khơi, ông vẫn không ngại khó khăn. Ông phải làm nhiều công việc để vượt qua tình hình khó khăn và luôn giữ lòng lạc quan, tự tin. Ông luôn nỗ lực và sáng tạo để khắc phục những khó khăn này. Lê Lợi luôn tự đặt mình vào vị trí của những người khác và sẵn lòng cứu giúp những người đang gặp khó khăn. Ông đấu tranh không chỉ vì sự tức giận trước quân thù mà còn vì lo lắng cho tương lai của đất nước.

Cuối cùng, tấm lòng của Lê Lợi đã được nhân dân hiểu và ủng hộ. Nhân dân đã đồng lòng, xây dựng cờ nghĩa để chống lại quân thù. Các tướng sĩ cũng đoàn kết và cam kết đồng lòng. Điều này cho thấy Lê Lợi đã hiểu được tầm quan trọng của sức mạnh toàn dân và tình đoàn kết. Ông cũng đã sử dụng khéo léo tài trí và thao lược quân sự của mình. Lê Lợi đã tận dụng địa hình và sử dụng quân mai phục để đánh đối thủ mạnh hơn. Nhờ vào khả năng lãnh đạo và tài năng của mình, ông đã vượt qua những hạn chế về lực lượng và đạt được chiến thắng.

Tóm lại, cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã đối mặt với nhiều khó khăn và thử thách ban đầu. Tuy nhiên, thông qua sự lãnh đạo, sáng tạo và lòng yêu nước, họ đã vượt qua những khó khăn đó và đạt được chiến thắng. Sự đoàn kết của nhân dân và tài trí quân sự của Lê Lợi đóng vai trò quan trọng trong cuộc khởi nghĩa này.

Qua một đoạn thơ ngắn, chúng ta có thể truyền đạt một cách chi tiết hơn về nội dung sau: Lê Lợi, người anh hùng áo vải, đã trở thành một biểu tượng đầy đủ và sắc nét trong lịch sử dân tộc Việt Nam thời Trung Đại. Ông được miêu tả với những phẩm chất xuất sắc như đức độ, tài năng, lòng yêu nước sâu sắc và căm thù giặc. Đóng vai trò quan trọng như một nhân tố then chốt trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi đã góp phần quan trọng vào lịch sử dân tộc giai đoạn 1418-1433.

Phân tích hình tượng của chủ tướng Lê Lợi mẫu 5

Nguyễn Trãi được biết đến là một trong số những nhà văn trung đại kiệt xuất của văn học Việt Nam. Cuộc đời cũng như sự nghiệp văn học của ông gắn bó với sự biến đổi của 3 triều đại là Trần – Hồ – Hậu Lê. Trong số đó với triều Hậu Lê Nguyễn Trãi đã trở thành bậc khai quốc công thần, chính trị kiệt xuất đóng góp to lớn vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi đánh tan 15 vạn quân Minh xâm lược, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, một kỷ nguyên độc lập vững bền cho dân tộc ta. Đối với sự nghiệp văn chương, các tác phẩm của Nguyễn Trãi được viết để phục vụ cho quá trình gây dựng đất nước và hoạt động đối ngoại, trong đó, nổi bật nhất là tác phẩm Bình Ngô đại cáo – đây được xem là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc, là áng thiên cổ hùng văn nghìn đời khó có. Trong tác phẩm, nêu rõ vấn đề chính nghĩa, tố giác tội ác của giặc Minh và đặc biệt là sự ca ngợi sức mạnh đoàn kết của dân tộc trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ngoài ra, Nguyễn Trãi cũng đã khắc họa triệt để hình tượng chủ tướng Lê Lợi, một người tài năng, đức độ, lãnh đạo nghĩa quân.

Trong tác phẩm Bình Ngô Đại Cao, Nguyễn Trãi đã khéo léo tạo dựng nên hình ảnh Lê Lợi trong những ngày đầu ông tiến hành cuộc khởi nghĩa với những khó khăn phải đối mặt dưới hình thức tự truyện dành riêng cho nhân vật.

“Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình.
Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống.”

Một cách nói thân mật “ta” thể hiện sự khiêm tốn, gần gũi mà còn thể hiện ý thức của nhân vật về địa vị, vị trí của mình trong nghĩa quân, biểu thị một người lãnh đạo khá đức độ và tài ba. Lê Lợi, quê ở Lam Sơn, ông ý thức được nghĩa vụ bảo vệ đất nước để trả nợ cho đất nước nên ông cũng chọn “núi Lam Sơn dấy nghĩa” làm điểm xuất phát của quân khởi nghĩa. Có thể nói đó là sự lựa chọn đúng đắn, bởi với tư cách là người chỉ huy, Lê Lợi hiểu rõ cảnh quan quê hương hơn ai hết nên việc nuôi dưỡng, huấn luyện binh sĩ trở nên dễ dàng, thuận lợi hơn rất nhiều. Gần gũi với gia đình, lương thực và nhu yếu phẩm hàng ngày được cung cấp dễ dàng, quân nổi dậy đã bình tĩnh và chuẩn bị cho trận chiến. Ngoài ra, chúng ta còn thấy đức tính của Lê Lợi, một chàng trai 21 tuổi có tấm lòng bao dung, sẵn sàng từ bỏ cuộc sống giàu có, sung túc của một chúa trại và không bị mua chuộc bởi quan tước nhà Minh. Chấp nhận cuộc đời đầy rẫy những nguy hiểm bủa vây, ngày đêm mất ngủ lo lắng về âm mưu hủy diệt của kẻ thù, quả thật là một vị lãnh tụ đức độ và vĩ đại của dân tộc. Nhưng tất cả những việc làm cao cả của Lê Lợi đều sẽ xuất phát từ một lý do: lòng yêu nước và lòng căm thù giặc sâu sắc. Với lý tưởng trả nợ quốc gia và quyết tâm kiên định thực hiện mục tiêu của mình, Lê Lợi đã trở thành một vị lãnh tụ vĩ đại, một anh hùng cởi trần trong nhân dân, xứng đáng là một người lãnh đạo đất nước trong tương lai.

Đặc biệt, lòng yêu nước và quyết tâm đánh thắng giặc của Lê Lợi được thể hiện sâu sắc trong bài thơ sau.

“Đau lòng nhức óc, chốc đã mười mấy năm trời,
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh;
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.”

Đoạn thơ trên đã phần nào đã bộc lộ rõ nét về tâm huyết, tình cảm sâu sắc của Lê Lợi trong ngày lập đội quân khởi nghĩa Lam Sơn. Ông mang tất cả vẻ đẹp đặc trưng của một vị chỉ huy vĩ đại, ông không chỉ là một người có trái tim yêu nước và lòng căm thù giặc không nguôi mà ông còn xuất hiện với vẻ đẹp của một người đức độ, là người có chí lớn, đức độ vô biên, tâm tình. Lê Lợi hiểu rỗ về đạo làm việc lớn không thể làm vội nên đã một mình tập hợp đội quân đã chiến đấu để xây dựng lực lượng quân sự, đội ngũ mạnh mẽ, tăng khả năng chiến đấu. Vì chứng kiến ​​giặc Minh hàng ngày giẫm đạp đất nước ta bằng thái độ coi thường, đạo đức và lòng yêu nước sâu sắc khiến Lê Lợi “tức giận”. Vì nhiệm vụ nặng nề và trách nhiệm lớn lao nên Lê Lợi luôn “Quên ăn vì giận”.

Qua một phần khắc họa hình ảnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi còn bộc lộ những khó khăn ban đầu của quân khởi nghĩa được thể hiện những tài năng khác của chỉ huy Lê Lợi.

“Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.

Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông,
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.

Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.”

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn tuy được ủng hộ mạnh mẽ nhưng vẫn gặp vô số khó khăn trong thời gian đầu. Lực lượng hơn một nghìn người nhưng phải đối mặt với đội quân giặc trăm nghìn quân, như trứng chọi đá, châu chấu chọi xe. Quan trọng hơn, Lê Lợi không thể một mình gánh vác toàn bộ chiến lược quân sự nên khó được “nhân tài như lá thu/tuấn kiệt như sao buổi sớm”. Tuy nhiên, với cách hành xử của vị tướng, ý chí cứu nước, trấn áp giặc không bao giờ nguôi ngoai mà trái lại càng ngày càng dâng cao, ngọn lửa giận dữ càng thêm rực rỡ “Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông/Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả”. Qua đó, ta nhận thấy được một phẩm chất vô cùng cao đẹp, thể hiện sự tài năng của Lê Lợi, điều này đều xuất phát từ tấm lòng yêu nước, chuộng nhân tài và luông coi trọng sức mạnh đoàn kết của nhân dân. Cuối cùng ông trời cũng không phụ lòng người, nhìn thấu tấm lòng của Lê Lợi, nhân dân đã thấu hiểu “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới/Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào”. Bộc lộ vẻ đẹp của sự tài trí, thao lược trong lĩnh vực quân sự khi “Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh/Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều”. Với tài năng thiên bẩm của mình trong kỹ năng điều hành quân sự, Lê Lợi đã vận dụng khéo léo, phát huy được điểm mạnh của nghĩa quân Lam Sơn để chiến đấu với kẻ thù “dùng quân mai phục”, đánh úp, thực hiện tốt chiến tranh du kích.

Như vậy có thể thấy, chỉ thông qua một đoạn thơ ngắn trong tác phẩm Đại cáo Bình Ngô, hình tượng của chủ tướng Lê Lợi, đã được diễn tả lên một cách đầy đủ và sắc nét. Có thể nói, Lê Lợi là nhân tố then chốt, quan trọng, đóng vai trò chủ chốt trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

Giới thiệu về tác giả

– Nguyễn Trãi, một danh nhân lịch sử và văn học vượt trội của Việt Nam, đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển của văn học và văn minh Việt Nam thời Trung đại. Ông được công nhận là một nhà văn vĩ đại, có bề dày những đóng góp quan trọng.

– Gia đình Nguyễn Trãi đã truyền dạy cho ông những giá trị yêu nước và văn hóa sâu sắc, tác động tích cực đến triết học và văn học của ông. Điều này đã giúp ông tiếp thu và hiểu biết về tư tưởng chính trị của Nho giáo, khơi dậy niềm đam mê sáng tác văn học.

– Mặc dù mồ côi mẹ từ khi còn nhỏ, Nguyễn Trãi đã trưởng thành trong một gia đình có nền văn hóa sâu sắc, đóng góp vào việc giáo dục ông về triết học và văn học.

– Năm 1400, Nguyễn Trãi trở thành học sinh Thái học và theo cha làm quan dưới triều Hồ. Đây là thời điểm ông tiếp xúc với những tri thức và tư tưởng mới, góp phần nuôi dưỡng sự sáng tạo trong sáng tác của mình.

– Vào năm 1407, khi giặc Minh xâm lược đất nước, Nguyễn Trãi tham gia khởi nghĩa cùng với Lê Lợi và đóng góp quan trọng trong chiến thắng của dân tộc. Sự kiện này đã gắn liền với cuộc sống và sự nghiệp sáng tác của ông. Ông sử dụng văn học như một công cụ quan trọng để khôi phục đất nước và xây dựng lại chính quyền.

– Vào cuối năm 1427 và đầu năm 1428, sau khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành chiến thắng, Nguyễn Trãi được Lê Lợi giao cho viết Bình Ngô đại cáo và tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng lại đất nước. Ông đã sáng tác những tác phẩm văn học sâu sắc, truyền tải tinh thần yêu nước và khát khao phát triển đất nước.

– Năm 1439, Nguyễn Trãi rút về ẩn dật tại Côn Sơn. Tuy nhiên, ông vẫn tiếp tục sáng tác và đóng góp cho quê hương. Các tác phẩm trong giai đoạn này của ông phản ánh sâu sắc về cuộc sống và xã hội.

– Năm 1440, Nguyễn Trãi được Lê Thái Tông mời trở lại để giúp đất nước. Ông tiếp tục đóng góp cho sự phát triển văn hóa và chính trị của đất nước.

– Năm 1442, Nguyễn Trãi bị oan án Lệ Chi viên và bị kết án "tru di tam tộc". Điều này đã làm gián đoạn sự nghiệp sáng tác của ông. Ông bị giam cầm tại đảo Cù Lao Chàm và qua đời vào năm 1442.

– Tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Trãi là "Bình Ngô đại cáo" và "Việt điện u linh tập". "Bình Ngô đại cáo" là một bài diễn thuyết xuất sắc, tuyên bố quyền tự chủ và kháng chiến của dân tộc Việt Nam trước giặc Minh. "Việt điện u linh tập" là một tuyển tập các bài thơ đậm chất yêu nước, tôn vinh tinh thần dân tộc và khát khao hướng về tương lai.

– Nguyễn Trãi là một trong những nhà văn vĩ đại nhất của Việt Nam. Tác phẩm của ông không chỉ có giá trị văn học cao mà còn mang tính chất lịch sử và xã hội sâu sắc. Ông đã để lại di sản văn học vô giá cho đất nước và trở thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ sau này.

-----------------------------------------------

Trên đây VnDoc tổng hợp các dạng bài văn mẫu Phân tích hình tượng của chủ tướng Lê Lợi trong Đại cáo Bình Ngô cho các bạn tham khảo ý tưởng khi viết bài. Bài viết cho chúng ta thấy rõ được hình tượng của chủ tướng Lê Lợi trong tác phẩm Đại cáo Bình Ngô. Hi vọng qua bài viết bạn đọc có thể học tập tốt hơn môn Ngữ văn lớp 10 nhé.

Mời bạn đọc cùng tham khảo thêm một số bài học liên quan đến tác phẩm:

Chia sẻ, đánh giá bài viết
41
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Văn mẫu lớp 10

    Xem thêm