Đoạn văn về mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa
Đoạn văn về mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa trong đoạn 1 bài Bình ngô đại cáo
- Đoạn văn về mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa mẫu 1
- Đoạn văn về mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa mẫu 2
- Đoạn văn về mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa mẫu 3
- Đoạn văn về mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa mẫu 4
- Đoạn văn về mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa mẫu 5
- Đoạn văn về mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa mẫu 6
- Đoạn văn về mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa mẫu 7
VnDoc.com xin gửi tới bạn đọc bài viết Đoạn văn về mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết bài viết dưới đây để có thêm tài liệu học Ngữ văn 10 nhé.
Đề bài: Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) về một trong hai vấn đề sau:
Mối quan hệ giữa tư tưởng nhân văn và luận đề chính nghĩa thể hiện ở đoạn 1 của văn bản
Tinh thần độc lập, ý thức chủ quyền dân tộc được thể hiện trong Bình Ngô đại cáo.
Đoạn văn về mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa mẫu 1
Bình Ngô đại cáo là một áng hùng văn thể hiện ý chí, tinh thần độc lập và ý thức về chủ quyền dân tộc. Trong văn bản, Nguyễn Trãi đã khẳng định chắc nịch Đại Việt là một nước độc lập, một dân tộc độc lập, là một nước có văn hiến, có đường biên giới rõ ràng với phương bắc. Không những thế, Đại Việt và các triều đại phong kiến phương bắc mỗi bên xưng đế một phương. Tuy nhiên, nhà Minh đã đi trái với ý trời, lòng người, nhân lúc nhà Hồ đang rối ren mà thừa cơ gây họa để cướp nước ta. Với ý chí quật cường, Lê Lợi đã cùng nghĩa quân khởi nghĩa, dù phải chịu trăm ngàn gian khó, phải nằm gai nếm mật, ngủ rừng, chịu đói chịu lạnh cũng không cam chịu làm nô lệ, không khuất phục trước sức mạnh quân thù. Với ý chí đó, sức mạnh đó, nghĩa quân đã giành được thắng lợi toàn diện, quét sạch kẻ thù ra khỏi bờ cõi đất nước.
Đoạn văn về mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa mẫu 2
Trong đoạn một "Bình Ngô đại cáo", Nguyễn Trãi đã thể hiện tư tưởng nhân nghĩa hết sức tiến bộ, tích cực của mình. Tư tưởng ấy gắn bó chặt chẽ với luận đề chính nghĩa "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.". Từ nguồn gốc học thuyết về "nhân nghĩa" trong quan niệm Nho giáo, Nguyễn Trãi đã phát triển cụ thể tư tưởng của bản thân để phù hợp với hoàn cảnh lịch sử. Theo ông, tư tưởng nhân nghĩa chính là việc yêu thương, quý trọng dân chúng, coi họ là gốc. Khi đời sống nhân dân bị đe dọa thì vua quân phải đứng lên trừ gian diệt bạo. Để chứng minh quan điểm này, tác giả đã đưa ra hàng loạt dẫn chứng thuyết phục về chủ quyền, độc lập dân tộc trong suốt chặng đường dài lịch sử. Như vậy, đoạn một của "Bình Ngô đại cáo" đã giúp em hiểu hơn về tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi.
Đoạn văn về mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa mẫu 3
Trong đoạn đầu tác phẩm, ta có thể thấy ở đó là những luận đề chính nghĩa mà Nguyễn Trãi nêu ra bao gồm : tư tưởng nhân nghĩa, chân lý về sự tồn tại độc lập của nước Đại Việt ta cũng như kết cục thất bại của kẻ thù xâm lược Đại Việt. “Nhân nghĩa” được hiểu là mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người được tạo lập trên cơ sở đạo lí và tình yêu thương. Đây là một tư tưởng truyền thống của Nho giáo và được thánh hiền dạy bảo từ xa xưa: “Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu”. Nguyễn Trãi đã vận dụng lời lẽ của thánh hiền để làm chỗ dựa cho tư tưởng của mình. Tư tưởng nhân nghĩa này của ông đã đi theo ông, trở thành mục tiêu suốt đời của Nguyễn Trãi. Nếu như trước kia, Lý Thường Kiệt cũng đã khẳng định chân lí độc lập của dân tộc bằng bài thơ “Nam quốc sơn hà” thì nay, Nguyễn Trãi lại một lần nữa khẳng định chân lí độc lập muôn đời của đất nước ta. Ông đã nêu ra các phương diện khẳng định chủ quyền của một quốc gia như: nền văn hiến, lãnh thổ, phong tục, nhà nước, nhân tài,... Và tất cả các phương diện đó đều đã tồn tại suốt chiều dài lịch sử dân tộc Đại Việt, thấm đẫm văn hoá cũng như những dấu ấn riêng của đất nước ta. Không chỉ là “bờ cõi” đã được chia sẵn, rõ ràng mà còn là những khác biệt về “phong tục”, “văn hiến” cũng không thể hoà lẫn. Nguyễn Trãi đã liệt kê một loạt các triều đại của nước ta song song với các triều đại của Trung Quốc để nhấn mạnh vị thế của Đại Việt cũng không hề yếu hơn so với đất nước phương bắc rộng lớn. Đất nước ta ngay từ khi khai quốc đã tự trị, có nền độc lập chủ quyền không thể chối bỏ. Mỗi nước đều có “đế” - hoàng đế của riêng mình chứ Đại Việt không phải “vương”, không phải là chư hầu của “thiên triều” phương Bắc. Hơn thế, nhân tài “hào kiệt” - anh hùng của đất nước ta cũng không hề thiếu - “đời nào cũng có”. Bởi “hiền tài là nguyên khí của quốc gia”, có nhân tài thì ắt hẳn quốc gia ấy sẽ vững mạnh, lâu bền! Đó cũng là lời răn đe cho bất cứkẻ nào có tham vọng xâm chiếm Đại Việt. Trong lời khẳng định chân lí về sự tồn tại độc lập của Đại Việt, để tăng tính thuyết phục, ông cũng luôn sử dụng những từ ngữ mang tính hiển nhiên như “từ trước”, “đã lâu”, “đã chia”, “cũng có”, “bao đời”,... xuyên suốt cả đoạn thơ dài. Đoạn đầu của “Đại cáo Bình Ngô” không chỉ khẳng định tư tưởng nhân nghĩa của nguyễn Trãi, nêu lên chân lí của sự tồn tại độc lập của đất nước Đại Việt mà còn là kết cục thảm bại của kẻ thù xâm lược trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc ta. Cả tác phẩm là lời tố cáo đanh thép tội ác của quân xâm lăng cũng như ca ngợi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Nguyễn Trãi đã kết hợp cả yếu tố chính luận cũng như cảm hứng trữ tình sâu sắc. Những luận cứ được đưa ra chắc chắn, lập luận sắc bén, lời văn đanh thép, hùng hồn đã góp phần thể hiện rõ luận đề chính nghĩa. Đoạn đầu của ”Bình Ngô đại cáo” đã cho chúng ta thấy được luận đề nhân nghĩa - tư tưởng mà Nguyễn Trãi theo đuổi cả đời. Nó cũng chứng minh được tài năng thơ ca chính luận của ông - một danh nhân văn hoá thế giới. Đoạn thơ cũng mang lại nguồn cảm hứng bất tận về độc lập, chủ quyền dân tộc tới các thế hệ sau.
Đoạn văn về mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa mẫu 4
Đến với đoạn một "Bình Ngô đại cáo", ta có thể thấy được tư tưởng nhân nghĩa - tư tưởng phù hợp với thời đại của Nguyễn Trãi. Ở ngay phần đầu bài cáo, Nguyễn Trãi đã nhấn mạnh "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.". Theo tác giả, yêu thương, quý trọng nhân dân chính là nhân nghĩa. Vì thế, điều cốt yếu, quan trọng là phải làm cho cuộc sống người dân luôn yên bình, tốt đẹp. Để thực hiện được điều đó thì vua quân phải biết "trước lo trừ bạo". Nhằm khẳng định vấn đề này, Nguyễn Trãi đã mạnh mẽ tuyên bố về nền độc lập dân tộc, phong tục tập quán của cha ông bao đời nay. Đứng trước vô vàn cuộc chiến, các triều đại vẫn giữ vững bờ cõi nước nhà. Như vậy, tư tưởng nhân nghĩa có mối quan hệ chặt chẽ với luận đề chính nghĩa trong đoạn một của bài cáo.
Đoạn văn về mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa mẫu 5
Ý thức về độc lập, chủ quyền dân tộc được Nguyễn Trãi thể hiện rất rõ trong văn bản “Bình Ngô đại cáo”. Trước hết, Nguyễn Trãi xác định tư cách độc lập của dân tộc bằng một loạt những dẫn chứng tiêu biểu, thuyết phục: nước ta có nền văn hiến lâu đời, có cương vực lãnh thổ riêng, có phong tục tập quán đậm đà bản sắc dân tộc, có chiều dài lịch sử với các triều đại sánh ngang với các triều đại của phương Bắc, có anh hùng hào kiệt ở khắp nơi trên đất nước. Đồng thời, Nguyễn Trãi còn phân định rất rõ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là một cuộc khởi nghĩa chính nghĩa, tất sẽ thắng lợi, vì đã đứng lên để giành lại chủ quyền của dân tộc, còn kẻ thù chắc chắn sẽ thất bại vì đã xâm phạm lên chủ quyền của đất nước khác.
Đoạn văn về mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa mẫu 6
Phần đầu “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi nêu cao tư tưởng nhân nghĩa, đồng thời ca ngợi nền vàn hiến rực rỡ lâu đời của Đại Việt. Nhân nghĩa là mục tiêu chiến đấu của nhân dân ta. Yên dân, điếu phạt, trừ bạo là cốt lõi của tư tưởng nhân nghĩa, tất cả đều hướng về con người, về nhân dân đang bị áp bức lầm than. Thuơng dân, đánh kẻ có tội (điếu phạt), tiêu diệt lũ tham tàn, bạo ngược (trừ bạo), cứu nhân dân thoát khỏi chết chóc đau thương, đem lại cuộc sống yên vui hạnh phúc cho nhân dân (yên dân), đó là việc nhân nghĩa. Nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi nói đến là một tư tưởng vô cùng cao đẹp: đánh giặc để cứu nước, cứu dân, vì độc lập của đất nước, vì tự do, hạnh phúc, hòa bình của nhân dân. Việc nhân nghĩa nên rất chính nghĩa. Nhân nghĩa là sức mạnh vô địch để chiến thắng quân “cuồng Minh”. Đoạn đầu của ”Bình Ngô đại cáo” đã cho chúng ta thấy được luận đề nhân nghĩa - tư tưởng mà Nguyễn Trãi theo đuổi cả đời. Nó cũng chứng minh được tài năng thơ ca chính luận của ông - một danh nhân văn hoá thế giới. Đoạn thơ cũng mang lại nguồn cảm hứng bất tận về độc lập, chủ quyền dân tộc tới các thế hệ sau.
Đoạn văn về mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa mẫu 7
Năm 1407, giặc Minh xâm lược nước ta khiến dân chúng khổ sở, cuộc sống đảo lộn. Lê Lợi đã cùng 18 tướng lĩnh dấy cờ khởi nghĩa. Trong đó, Nguyễn Trãi là một tài năng xuất chúng trong hàng ngũ dũng tướng. Năm 1427, cuộc khởi nghĩa thắng lợi. Một năm sau đó, phụng sự Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết “Bình Ngô đại cáo”. Tác phẩm đã đứng trên lập trường chính nghĩa để lấy làm tư tưởng xuyên suốt. Tư tưởng nhân nghĩa là vấn đề được đề cập tới đầu tiên khi nhắc tới giá trị của tác phẩm.
Tư tưởng nhân nghĩa là một truyền thống đạo lý tốt đẹp của nhân dân ta. Trong quan niệm truyền thống, tư tưởng nhân nghĩa được biểu hiện ở tình thương giữa con người với con người, nhấn mạnh ở lòng trung thành với vua. Còn đối với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa là để yên dân, là bảo vệ hạnh phúc cho nhân dân. Hạnh phúc lớn nhất của dân là được sống trong môi trường hòa bình, yên ổn làm ăn, không lâm vào cảnh chết chóc, đau thương. Nhân nghĩa không phải là thương người một cách chung chung mà thông qua hành động đó là “trừ bạo” để “an dân”.
Trong tác phẩm “Bình Ngô đại cáo”, tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện trước hết ở việc Nguyễn Trãi gắn nhân nghĩa với bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc.
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.”
Đoạn thơ đã khẳng định niềm tự hào tự tôn dân tộc và ý thức về đất nước chủ quyền dân tộc khi nhấn mạnh đất nước phải có lịch sử, có nền văn hiến, lãnh thổ, phong tục riêng và có những cái tên hào kiệt riêng. Ngay khi thể hiện ý thức về nhân dân, ý thức về đất nước đã cho thấy lòng yêu nước lòng tự hào dân tộc lớn lao của Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi quả là một nhà tư tưởng tiến bộ.
Truyền thống nhân nghĩa còn gắn với truyền thống yêu sự chính trực, ghét sự gian tà, căm thù sâu sắc bọn bán nước và cướp nước.
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh”
Đoạn thơ này đã vạch bộ mặt gian tà, hiểm ác, xảo trá của giặc Minh, chỉ ra tội ác của bọn chúng. Lòng căm thù giặc sâu sắc thể hiện trong việc tác giả vạch mặt tố cáo tội ác “trời không dung đất không tha”
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Nguyễn Trãi sử dụng những từ ngữ biểu cảm, gợi hình gợi cảm như “nướng”, “vùi”, “dân đen”, “con đỏ”… Nhân nghĩa còn là sự sẻ chia đồng cảm cảm thông với nỗi đau của người dân mất nước:
“Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.”
Tư tưởng nhân nghĩa trong suy nghĩ của Nguyễn Trãi là tinh thần yêu chuộng hòa bình, công lý, sự hiếu sinh, hiếu hòa, độ lượng bao dung. Dân tộc ta đã mở đường hiếu sinh cho kẻ thù khi chúng bại vong
“Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay”
Tóm lại, tư tưởng nhân nghĩa là tư tưởng bao trùm và xuyên suốt trong tác phẩm “Bình Ngô đại cáo”cũng là tinh thần của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Qua đó, Nguyễn Trãi thể hiện tinh thần nhân bản và giá trị nhân văn sâu sắc. Tư tưởng nhân nghĩa cũng chính là kim chỉ nam cho đường lối chính trị và quân sự của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Từ tư tưởng đó, Lê Lợi giương cao ngọn cờ chính nghĩa hiệu triệu quần chúng tham gia khởi nghĩa chống Minh, góp phần to lớn cho cuộc khởi nghĩa chiến thắng hoàn toàn.
- Viết đoạn văn về tinh thần độc lập, ý thức về chủ quyền dân tộc được thể hiện trong Bình Ngô đại cáo
- Viết đoạn văn phân tích một yếu tố phá cách trong bài Bảo kính cảnh giới
- Viết đoạn văn phân tích nét đẹp của tâm hồn Nguyễn Trãi trong bài thơ Dục Thuý sơn
- Viết đoạn văn trình bày quan điểm: Bạn có hứng thú khi đọc những tác phẩm tự sự được kể bởi người kể chuyện toàn tri?
- Viết đoạn văn phân tích tâm trạng nhân vật Thanh ở đoạn văn cuối của phần kết truyện
- Viết đoạn văn phân tích hình ảnh hàng rào trong truyện ngắn Một chuyện đùa nho nhỏ