Phân tích bài thơ Bảo kính cảnh giới
Phân tích tác phẩm Bảo kính cảnh giới
Văn mẫu: Phân tích bài thơ Bảo kính cảnh giới được VnDoc.com tổng hợp và sưu tầm xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo để có thêm tài liệu học Ngữ văn 10 nhé. Mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây.
Dàn ý phân tích bài Bảo kính cảnh giới
1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
2. Thân bài:
2.1. Bức tranh thiên nhiên ngày hè:
* Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, rực rỡ:
- Hình ảnh: "hòe lục", "thạch lựu hiên", "hồng liên trì" => hình ảnh gắn liền với cuộc sống thường ngày, giản dị, mộc mạc.
- Động từ "đùn", "phun" thể hiện:
+ "đùn đùn": diễn tả sự phát triển mạnh mẽ của những tán hòe => gợi ra hình ảnh những tán hòe xòe rộng, không ngừng vươn mình, tỏa rộng, bao phủ một không gian lớn.
+ "phun": sức sống mạnh mẽ, tràn đầy nhựa sống của hoa lựu => hình ảnh hoa lựu đỏ rực trước hiên nhà, đang liên tiếp bung nở nơi đầu cành lá.
- "Hồng liên trì đã tịn mùi hương": sen hồng trong ao nhà đã tỏa ngát hương thơm => hương thơm dịu nhẹ, thanh khiết.
* Bức tranh ngày hè sống động, rộn ràng: nhà thơ sử dụng biện pháp đảo ngữ cùng hệ thống từ láy tượng thanh để miêu tả âm thanh cuộc sống:
- Từ láy "lao xao": thanh âm xôn xao từ chợ cá vọng lại.
- "Dắng dỏi": tiếng kêu liên tục, không dứt, "cầm ve": âm thanh sôi nổi, vui vẻ của đàn ve giống như tiếng đàn.
2.2. Tâm trạng của nhân vật trữ tình.
- "Lẽ có" nghĩa là lẽ nên có, mong được có.
- "Ngu cầm": điển cố về vua Ngu Thuấn.
-> Ước mơ có cây đàn của vua Thuấn để gảy lên khúc "Nam Phong" -> thể hiện khát vọng được đem đến cuộc sống thanh bình, hạnh phúc cho nhân dân.
- "Dân giàu đủ khắp đòi phương": hi vọng dân chúng ở khắp mọi nơi đều sống êm ấm, đủ đầy.
=> Cốt cách cao cả của người anh hùng Nguyễn Trãi.
2.3. Đặc sắc nghệ thuật:
- Ngôn ngữ mộc mạc, dân dã; hình ảnh đời thường quen thuộc.
- Hình thức thơ lục ngôn xen lẫn thất ngôn.
- Biện pháp đảo ngữ cùng hệ thống từ láy "lao xao", "dắng dỏi" và các động từ mạnh "đùn đùn", "phun".
3. Kết bài:
- Khẳng định giá trị bài thơ.
Phân tích tác phẩm Bảo kính cảnh giới của Nguyễn Trãi mẫu 1
Nguyễn Trãi là đại thi hào dân tộc, là danh nhân văn hóa của Đại Việt, đồng thời ông còn là tác giả áng thiên cổ hùng văn "Bình ngô đại cáo". Ngoài ngòi bút sắc bén, lập luận đanh thép với dẫn chứng thuyết phục trong những áng văn chính luận, ta còn bắt gặp một Nguyễn Trãi với phong thái nhàn tản, giao cảm hòa hợp cùng thiên nhiên trong "Bảo kính cảnh giới 43". Không chỉ mang chất trữ tình sâu sắc, bài thơ chứa đựng cả nội dung mang tính giáo huấn người đời, ngời sáng tâm hồn lí tưởng của bậc thi sĩ lớn Ức Trai.
Trước hết, bài thơ thể hiện tình yêu cũng như tâm hồn tinh tế và sự giao cảm mạnh mẽ đối với thiên nhiên của tác giả Nguyễn Trãi. Nhân vật trữ tình xuất hiện trong phong thái ung dung tự tại: "Rồi hóng mát thuở ngày trường". Như chúng ta đã biết, Nguyễn Trãi là nhà thơ nặng lòng với thiên nhiên và luôn mở lòng với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh, nhưng khoảnh khắc rảnh rỗi vào một ngày khí trời mát mẻ, trong lành thì quả là hiếm hoi. Nếu người xưa thường thiên về vịnh cảnh thì Nguyễn Trãi lại vận dụng bút pháp tả. Và rồi bằng sự quan sát tinh tế của nhân vật trữ tình, bức tranh thiên nhiên đầy sức sống đã hiện lên:
"Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương"
Những sắc màu của cảnh vật hiện lên trong sự giao hòa: Màu lục của lá hòe cùng màu đỏ của hoa thạch lựu đan cài vào nhau trong ánh mặt trời buổi chiều. Đặc biệt hơn, cảnh vật được miêu tả trong sự chuyển động tạo nên một bức tranh căng tràn sức sống. Tác giả đã sử dụng những động từ mạnh: "đùn đùn", "trương", "phun" gợi nên sự tràn đầy và sức sống từ nội tại đang ứa căng và không kìm lại được và phải bộc phát ra bên ngoài. Đại thi hào Nguyễn Du cũng đã từng miêu tả cảnh sắc mùa hè bằng sắc hoa lựu: "Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông" (trích "Truyện Kiều"). Với từ "lập lòe", tác giả Nguyễn Du đã tạo nên sự độc đáo trong việc tạo hình sắc, còn Nguyễn Trãi lại nhấn mạnh sức sống của cảnh vật, thể hiện rõ cái nhìn tinh tế đối với cảnh vật của hai thi sĩ tài ba. Thi nhân đã vận dụng nhiều giác quan: thị giác, thính giác và khứu giác kết hợp cùng trí tưởng tượng phong phú để đón nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, cho thấy sự giao cảm mạnh mẽ nhưng vô cùng tinh tế của Ức Trai đối với cảnh vật.
Không chỉ dừng lại ở đó, bên cạnh màu sắc tác giả còn tô điểm cho bức tranh thiên nhiên âm thanh, đường nét hệt như một người họa sĩ tài ba tạo nên một kiệt tác có hồn của tạo vật. "Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ" với sự kết hợp của động từ "phun" và "thức"- màu vẻ, dáng vẻ, câu thơ đã diễn tả thành công cái hồn và thần thái của cảnh vật. Cảnh vật mùa hè còn được miêu tả qua hình ảnh rất đặc trưng: Đóa sen trong ao đã tỏa hương thơm ngát, tạo nên một bức tranh hài hòa về màu sắc và hương vị.
Bài thơ còn khắc họa bức chân dung của một con người luôn hết lòng vì dân, vì nước. Mặc dù đang hòa mình đắm say trong vẻ đẹp sinh động, đáng yêu và tràn trề sức sống của thiên nhiên nhưng tác giả vẫn hướng đôi mắt quan sát của mình đến cuộc sống của con người:
"Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương"
Bức tranh mùa hè được bổ sung thêm những nét vẽ về cuộc sống của con người với thanh âm của "lao xao" của chợ cá tại một làng chài ven sông cùng tiếng dắng dỏi của cầm ve. Cuộc sống yên vui, no đủ của người dân đã gợi lên trong lòng tác giả một mong ước hết sức cao đẹp:
"Dẽ có Ngu Cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ, khắp đòi phương"
Tác giả mong ước có được chiếc đàn của vua Thuấn để gảy nên khúc Nam Phong ca ngợi đời sống ấm no hạnh phúc của nhân dân. Câu thơ kết thúc bài được kiến tạo theo cách ngắt nhịp 3/3, thể hiện rõ sự rồn nén cảm xúc của bài thơ. Mở đầu bằng bức tranh thiên nhiên giàu hình ảnh, màu sắc, hình khối, đường nét nhưng kết thúc bằng câu thơ nói về con người cho thấy điểm kết mà tác giả muốn hướng đến không phải ở thiên nhiên tạo vật mà chính ở con người. Điều này đã thể hiện rõ tâm hồn hết sức cao cả và vĩ đại của Nguyễn Trãi- vị anh hùng dân tộc luôn mong muốn cho dân được ấm no, hạnh phúc.
Như vậy, thông qua bài thơ, chúng ta có thể thấy được tình yêu cùng sự giao hòa đối với thiên nhiên của tác giả, giống như ông đã từng bộc bạch: "Non nước cùng ta đã có duyên" ("Tự thán"- bài 4). Là một thi sĩ, ông đến với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh nhưng cuối cùng, tâm hồn của ông vẫn hướng đến nhân dân, đến đất nước. Qua lời tâm sự và mong ước về cuộc sống của nhân dân, độc giả có thể thấy được tâm hồn và lí tưởng cao đẹp của tác giả Nguyễn Trãi. Tình yêu thiên nhiên, tạo vật đã quyện hòa và làm ngời sáng hơn nữa tình yêu đối với đất nước, nhân dân.
Phân tích tác phẩm Bảo kính cảnh giới của Nguyễn Trãi mẫu 2
Nguyễn Trãi - một nhà thơ, nhà văn tài năng kiệt xuất của dân tộc. Ông đã có nhiều đóng góp lớn cho nền văn học nước nhà và được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới. Ông đã viết tập thơ chữ Nôm nổi tiếng mang tên "Quốc âm thi tập". Trong đó có chùm thơ "Bảo kính cảnh giới" được ghi lại khi tác giả đã xa rời chốn quan trường, viết về những khoảnh khắc thư thái hiếm hoi và một vài suy tư về thế sự. Bài thơ số 43 trong chùm thơ này diễn tả bức tranh ngày hè sống động, rực rỡ. Đồng thời, giúp người đọc thấy được tấm lòng yêu nước thương dân của Nguyễn Trãi.
Sau những tháng ngày lăn lộn chốn quan trường, Nguyễn Trãi cáo quan về ở ẩn. Trong thời gian này, ông có một cuộc sống ung dung, tự tại.
Ta có thể thấy tâm trạng thảnh thơi của ông trong câu thơ đầu "Rồi hóng mát thuở ngày trường". "Rồi" là từ cổ của từ "rỗi", nghĩa là rảnh rỗi, "ngày trường" chỉ thời gian một ngày trôi qua thật dài. Nhà thơ mang tâm thế "hóng mát" an nhàn, thư thái, tận hưởng sự tươi đẹp của thiên nhiên:
"Hòe lục đùn đùn tán rợp trương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ.
Hồng liên trì đã tịn mùi hương."
Đầu tiên, nhà thơ chiêm ngưỡng vẻ đẹp của tự nhiên qua thị giác. Cây hòe màu xanh lục có thân to khỏe, tán lá giương cao. "Đùn đùn" chính là cảm giác lớn lên, sinh sôi và phát triển mạnh mẽ khó kiểm soát. Ý tác giả ở đây muốn miêu tả cây hòe to, cao, tỏa tán lá rộng tạo thành bóng râm xanh tươi, mát mẻ, che đi ánh nắng gắt. "Thạch lựu" chính là cây lựu ở hiên nhà ra hoa rực rỡ, tràn trề sắc đỏ, làm cho cảnh sắc trở nên rực rỡ, sống động hơn. Ngoài thị giác, Nguyễn Trãi còn cảm nhận mùa hè qua khứu giác "tịn mùi hương". Tác giả ngửi thấy hương thơm thanh khiết của hoa sen lan tỏa khắp không gian. Mùi hương ấy khiến con người trở nên thư thái, nhẹ nhàng hơn. Việc sử dụng các động từ "rợp", "phun", "tịn" cho ta thấy sự sinh sôi, nảy nở của thực vật ngày hè kết hợp với màu sắc "lục", "đỏ", "hồng" khiến cho khung cảnh thêm phần sinh động, rực rỡ.
Tiếp theo, tác giả sử dụng thính giác để cảm nhận không khí của mùa hè:
"Lao xao chợ cá làng ngư phủ;
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương."
Ở hai câu thơ này, Nguyễn Trãi đã sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ "lao xao chợ cá", "dắng dỏi cầm ve" để nhấn mạnh thanh âm sống động của mùa hè. Tiếng người ở chợ cá buôn bán, trao đổi hàng hóa "lao xao" chính là dấu hiệu của cuộc sống lao động vui vẻ, nhộn nhịp của người dân. Đây có lẽ là âm thanh mà tác giả Nguyễn Trãi rất muốn lắng nghe, tận hưởng. Ngoài ra, bản nhạc quê hương còn có sự góp mặt của tiếng ve - âm thanh đặc trưng mỗi khi hè tới. Tiếng ve râm ran, rộn rã như gọi ánh hoàng hôn đến với làng quê yên bình. Hai từ láy tượng thanh "lao xao" và "dắng dỏi" đã mô tả âm thanh ồn ào, sôi động, tràn đầy sức sống. Những câu thơ miêu tả cảnh sắc và âm thanh ngày hè cũng phần nào nói lên tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, tha thiết yêu thiên nhiên cuộc sống của Nguyễn Trãi.
Hoàng hôn buông xuống mang theo nhiều trăn trở của tác giả. Mùa hè không còn rực rỡ, sống động nữa mà mang nặng ưu tư:
"Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương."
Câu thơ thể hiện ước nguyện của Nguyễn Trãi: mong muốn có cây đàn của vua Ngu Thuấn, đàn khúc nhạc cho mọi người dân có cuộc sống no đủ, giàu có. Từ truyền thuyết trong sách cổ, Nguyễn Trãi đã thể hiện khát khao đầy tính nhân văn của mình. Từ đó ta thấy được tấm lòng yêu nước thương dân của một bậc đại anh hùng.
Bài thơ thứ 43 trong chùm thơ "Bảo kính cảnh giới" có thể thơ sáng tạo là có những câu thất ngôn xen với câu lục ngôn. Ngôn ngữ thơ phong phú với các từ láy tượng thanh, các động từ đặc sắc, sự kết hợp giữa từ Hán Việt và từ thuần Việt tạo nên cho bài thơ một vẻ đẹp vừa trang trọng, cổ điển vừa bình dị, gần gũi.
Sự tinh tế, cảm quan nhạy bén của thi sĩ đã biến những sự vật bình thường trở nên có hồn, trở thành đặc trưng khi nhắc đến mùa hè rực rỡ đầy màu sắc. Không những thế, qua bài thơ này, ta còn nhận thấy vẻ đẹp tâm hồn của Ức Trai. Dù ông không còn ở trong chốn quan trường nhưng vẫn một lòng lo cho nhân dân, đất nước.
Phân tích tác phẩm Bảo kính cảnh giới của Nguyễn Trãi mẫu 3
Nguyễn Trãi là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc song ông cũng là một nhà chính trị tài ba, lỗi lạc. Dưới thời nhà Lê ông là một vị hiền thần, đã có nhiều kế sách đúng đắn, sáng suốt giúp cho nhà Lê phát triển triều đình, ổn định phát triển cuộc sống của dân chúng. Tuy nhiên, vì bản lĩnh cứng cỏi, lại liêm khiết, quyết không chịu bắt tay với bọn nịnh thần nên Nguyễn Trãi đã trở thành đối tượng và chúng công kích và tìm mọi cách để hãm hại. Ông đã nhiều lần bị bắt vào ngục vì những trò tiểu nhân của chúng. Sau những thăng trầm chốn quan trường, ông đã quyết định từ chốn quan trường để trở về quê sống cuộc sống ẩn dật, giản dị của một Nho sĩ. Và ở quê nhà Côn Sơn, Chí Linh, Nguyễn Trãi đã cho ra đời rất nhiều những sáng tác hay, viết về cuộc sống dân dã nhưng đầy niềm vui và ý nghĩa. Bài thơ bảo kính cảnh giới số 43 cũng được sáng tác trong thời gian Nguyễn Trãi lui về ở ẩn đấy.
Bài thơ bảo kính cảnh giới số 43 viết về cuộc sống bình dị nơi thôn dã của Nguyễn Trãi, cũng thể hiện được tác phong ung dung, bình tĩnh, tự tại của nhà thơ trước những nhịp sống, nhịp vận động của thiên nhiên, đất trời. Bài thơ vừa thể hiện được những nét đẹp trong tâm hồn của nhà thơ, đó là một thi nhân đầy nhạy cảm với tình yêu thiên nhiên da diết. Song đó cũng là một con người nhập thế, bởi dù đã trở về ở ẩn nơi núi rừng Côn Sơn thì Nguyễn Trãi vẫn một lòng hướng về thế sự, một lòng mong mỏi người dân có cuộc sống bình yên, êm ấm, no đủ. Ở câu thơ đầu tiên, nhà thơ Nguyễn Trãi đã vẽ ra khung cảnh bình yên, tươi đẹp của cuộc sống dân dã, đồng thời cũng cho thấy được tâm trạng cũng như tư thế tự tại của nhà thơ trong khung cảnh tươi đẹp đó:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”
Ở trong hai câu thơ này phần nào đã hé mở bức tranh ngày hè đầy rực rỡ và tâm hồn đầy thư thái của thi nhân. Từ “rồi” mà Nguyễn Trãi sử dụng ở đây không phải từ chỉ thời gian sau này, không phải sự dự báo cuộc sống an nhàn, thảnh thơi của mình sau đó. Bởi lúc này thì Nguyễn Trãi đã từ quan, bỏ lại nơi bát nháo, thị phi của chốn quan trường mà trở về ở ẩn, sống dung dị với thiên nhiên, cuộc sống giản dị nơi thôn dã. Bởi vậy mà từ “rồi” ở đây ta có thể hiểu theo nghĩa là sự rảnh rỗi, thời gian đầy tự do mà không vướng phải những công chuyện trần thế, chỉ an tâm thưởng ngoạn khung cảnh của thiên nhiên.
“Rồi bóng mát thuở ngày trường” câu thơ đã thể hiện được tư thế đầy tự do, tự tại của nhà thơ Nguyễn Trãi khi đang an nhàn mà đón nhận “bóng mát” của những ngày thường, đó chính là sự tươi mát, dịu nhẹ nơi tâm hồn, khác hẳn với cái nóng nực, bức bối đầy khó chịu nơi thị thi như chốn quan trường. Câu thơ vừa thể hiện được những đặc điểm về thời tiết, đó là sự mát mẻ nơi núi rừng, song đó cũng chính là sự thanh mát nơi tâm hồn, khi nhà thơ không còn vướng bận chuyện chính sự. Trong cái không gian thoáng và mát mẻ ấy, nhà thơ có điều kiện quan sát những cảnh vật, sự sống xung quanh mình “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”.
“Hòe lục” là sắc xanh của những chiếc lá hòe. “Đùn đùn” vừa diễn tả được cái um tùm, xum xuê của tán lá, nhưng đồng thời cũng thể hiện được chiều vận động của những chiếc lá này. Trong sự quan sát và cảm nhận của nhà thơ Nguyễn Trãi thì những chiếc lá hòe này dường như đang bảo nhau mà đùn lên xanh tốt, bóng của cây hòe cũng phủ bóng râm cho cả một vùng không gian “Tán rợp giương”. Và màu sắc tươi mới, rực rỡ của ngày hè không chỉ dừng lại ở cái sắc xanh của lá, nó còn được điểm xuyết bởi sắc đỏ của những bông hoa thạch lựu, sự điểm xuyết này càng làm cho bức tranh ngày hè thêm tươi đẹp, tràn trề sức sống và thêm thu hút đối với cảm nhận về thị giác của độc giả:
“Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Ta có thể thấy, đây là những câu thơ đẹp nhất trong bài khi miêu tả về khung cảnh ngày hè đầy rực rỡ, tươi đẹp. “Thạch lựu” là một loại hoa thường nở vào những ngày hè, vì vậy mà nhắc đến hoa thạch lựu thì người ta hay liên tưởng đến những ngày hè đầy tươi đẹp. “Hiên” ở đây là từ chỉ địa điểm, hiên cũng tức là hiên nhà, xét ý nghĩa toàn câu thơ ta sẽ thấy được những bông hoa thạch lựu đỏ rực ngay trước hiên nhà. Cũng như câu thơ trên, nhà thơ Nguyễn Trãi đã sử dụng những động từ đầy sức biểu cảm, “phun” thể hiện sự lan tỏa, khuếch trương của sắc đỏ ấy trong không gian.
Trong cách mô tả này ta có thể cảm nhận được dường như sắc đỏ rực của những bông hoa thạch lựu không hề tồn tại cố hữu ở một địa điểm mà nó nở, mà có xu hướng làm lan tỏa màu sắc rực rỡ ấy vào không gian, vào tâm hồn người thi nhân, tạo ra những cảm giác vấn vương, rạo rực. “Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”. Như vậy không chỉ có màu sắc xanh lục của lá hòa, sắc đỏ thắm của những bông hoa thạch lựu mà bức tranh ngày hè càng trở nên sống động và chân thực hơn nữa khi nhà thơ miêu tả hương thơm thoang thoảng của ao sẽ. Vẫn là những động từ dùng để chỉ sự vận động “tiễn” và đối tượng đó chính là hương sen. Chính việc sử dụng các động từ để chỉ sự vận động của cảnh sắc, mùi hương này đã đem đến cho người đọc những cảm nhận chân thực và sống động nhất khung cảnh ngày hè tươi đẹp mà nhà văn đã thể hiện qua bài thơ.
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm vè lầu tịch dương”
Nhà thơ Nguyễn Trãi không chỉ đắm mình trong khung cảnh thiên nhiên đầy tươi đẹp mà ông còn vui với những niềm vui thuộc về cuộc sống lao động. Nếu ở những câu thơ trên nói về vẻ đẹp của cảnh sắc ngày hè thì đến câu thơ này, Nguyễn Trãi lại hướng đến vẻ đẹp của cuộc sống lao động của người dân. “Lao xao” diễn tả hành động khẩn trương, tấp nập, và cái đối tượng của sự tấp nập, huyên náo đó chính là “chợ cá làng ngư phủ, đây cũng là âm thanh đặc trưng của cuộc cuộc sống vui tươi, thanh bình. Ở hai câu thơ này nhà văn không chỉ gợi tả đến hình ảnh mà còn rất chú trọng đến âm thanh, đó chính là “Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”, đó chính là tiếng đàn được phát ra từ tự nhiên, “cầm ve” tiếng động, âm thanh của những tiếng ve. Đây cũng là âm thanh đặc trưng của ngày hè, làm cho bức tranh ngày hè thêm sinh động.
“Rẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Nếu như những câu thơ trên thể hiện được cảnh sắc của ngày hè thì hai câu thơ cuối cùng của bài thơ lại thể hiện được mong muốn, khát khao của nhà thơ về một cuộc sống đầy tươi đẹp của nhân dân. “Ngu cầm” là đàn của vua Nghiêu Thuấn, vị vua tài giỏi, nhân đức của Trung Hoa, dưới sự trị vì của ông thì dân chúng có cuộc sống no ấm, đủ đầy. Ở đây nhà thơ Nguyễn Trãi đã mượn điển tích ngu cầm để thể hiện mong ước về một cuộc sống, về một phép nghiệm màu làm cho nhân dân được yên ấm, hạnh phúc “Dân giàu đủ khắp đòi phương”, đó chính là mong ước đầy nhân văn của nhà thơ. Nhà thơ mong cho người dân khắp nơi đều có cuộc sống sung túc, đủ đầy, không còn cảnh lầm than, đói khổ.
Như vậy, qua bài thơ “Bảo kính cảnh giới” ta có thể cảm nhận được tâm hồn thanh bạch, tâm thế tự do tự tại của nhà thơ Nguyễn Trãi trước cảnh sắc ngày hè tươi đẹp nơi dân dã. Nhưng ta cũng thấy được nét đẹp trong tâm hồn của nhà thơ này, đó là dù có lui về ở ẩn thì tấm lòng nhân nghĩa của ông vẫn luôn hướng về nhân dân, đó là ước mơ đầy nhân văn, đầy con người khi mong mỏi cho người dân có một cuộc sống tốt đẹp.
Phân tích tác phẩm Bảo kính cảnh giới của Nguyễn Trãi mẫu 4
Nguyễn Trãi là một nhà thơ kiệt xuất của dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị lớn. Nếu như Bình Ngô đại cáo của ông mang đầy nhiệt huyết, lòng tự tôn dân tộc thì Cảnh ngày hè là một bức tranh về vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Bài thơ đã thể hiện tư tưởng, tình cảm yêu đời, yêu thiên nhiên và ước vọng cao đẹp của nhà thơ.
Mở đầu, bài thơ đến với ta với những hình ảnh về thiên nhiên rực rỡ:
Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Từ “rồi” mở đầu câu thơ phải chăng nói đến tâm trạng “bất đắc chí” của nhà thơ. Câu thơ đầu chỉ vỏn vẹn với sáu từ nhưng đã khá đầy đủ về thời gian, hoàn cảnh, tâm trạng của nhà thơ. Đây chính là sự phá cách đầy sáng tạo của Nguyễn Trãi, ông đã Việt hoá thơ Đường luật vốn mỗi câu có đủ bảy từ. Lại thêm sự mới lạ với cách ngắt nhịp: một, hai, ba kết hợp với thanh bằng ở cuối câu làm câu thơ nghe như tiếng thở dài nhưng lại không giống lời than thở.
Xem bức tranh thiên nhiên của Nguyễn Trãi, trước hết ta thấy hình ảnh một con người ngồi đó - Câu mở đầu hóng mát ngoạn cảnh nhàn nhã, thảnh thơi. Phải chăng, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào ông cũng vẫn hoà mình cùng thiên nhiên, bức tranh thiên nhiên đã hiện ra trước mắt ông thật rực rỡ.
Ba câu thơ tiếp theo, dưới ngòi bút đầy tài năng của Nguyễn Trãi, một bức tranh thiên nhiên thật sống động và đầy màu sắc đã đến với chúng ta một cách chân thật nhất. Đó là màu xanh của cây hoè, màu đỏ của hoa lựu, màu hồng của hoa sen, màu vàng lung linh của ánh nắng chiều. Tất cả hòa quyện lại với nhau, tạo nên cảnh vật đặc trưng của mùa hè. Mở đầu câu thơ là hình ảnh cây hòe - một loại cây đặc trưng ở vùng Bắc Bộ, rất dễ bắt gặp ở mọi nơi. Tính từ” đùn đùn “kết hợp với động từ mạnh “giương” đã góp phần diễn tả sự sum suê, nảy nở, làm cho cây hoè như có hồn hơn, làm bức tranh như sống động hơn.
Bên cạnh đó, không chỉ cảm nhận bằng thị giác, Nguyễn Trãi còn cảm nhận cảnh vật bằng thính giác và khứu giác. Nhịp thơ 3/4 kết hợp với động từ mạnh” phun “làm cảnh vật dường như nổi bật hơn nhưng lại không chói chang, oi nồng mà mát dịu, tinh tế. Bức tranh cảnh ngày hè đã trở nên sinh động, đặc sắc hơn với âm thanh và mùi vị. Mặc dù khung cảnh mà tác giả miêu tả là cuối ngày, khi mặt trời lặn nhưng mọi vật vẫn tràn đầy sức sống với những từ ngữ “đùn đùn”, “giương”, “phun”, “tiễn”, “lao xao”, “dắng dỏi”.
Những từ ngữ đó cũng góp phần thể hiện những điều trong lòng tác giả - ước mong được cống hiến cho nhân dân, cho đất nước. Nhiệt huyết đó như muốn phun ra, trào ra và lan toả đi khắp nơi. Trong sáu câu thơ này, tác giả đã thay đổi, không đi theo tính quy phạm của văn học phong kiến nữa. Ông đã miêu tả cảnh ngày hè với những sự vật vô cùng gần gũi với cuộc sống hằng ngày.
Và Cảnh ngày hè trong thơ Nguyễn Trãi không chỉ thể hiện trong những màu sắc của thiên nhiên tươi đẹp mà còn qua nhịp sống sinh đẹp của nhân dân.
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Hai từ láy “lao xao”, “dắng dỏi” kết hợp với nhau đã thể hiện những âm thanh của làng chài quen thuộc - lao xao của chợ cá, rộn rã của tiếng ve. Ở đây, Nguyễn Trãi đã ngắm nhìn cuộc sống, cảm nhận cuộc sống với một tâm hồn rộng mở một tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống. Tiếng lao xao, tiếng ve phải chăng là tiếng lòng ông, tiếng lòng của một vị tướng cầm quân từng xông pha trận mạc một thời, tiếng lòng của một người yêu thiên nhiên tha thiết. Thiên nhiên, cảnh vật ở vào thời điểm cuối ngày nhưng sự sống thì không dừng lại.
Cũng như Nguyễn Trãi, mặc dù đã lui về ở ẩn nhưng lòng ông lúc nào cũng có một tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước tha thiết. Hai câu cuối của bài thơ đã được tác giả gửi gắm trọn vẹn tâm tư và suy nghĩ, qua đó, thể hiện hết phần nào về vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi.
Dễ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương
Ở đây, tác giả đã mượn điển tích để nói lên khát vọng của mình. Câu thơ cuối sáu chữ ngắn gọn, nhịp 3/3 thể hiện sự dồn nén cảm xúc của cả bài - tác giả khát khao đem tài trí thực hành tư tưởng yêu nước, thương dân, và đó cũng chính là tưởng chủ đạo của bài thơ. Tuy tác giả đón nhận cảnh ngày hè với tư thế ung dung trong một ngày nhàn rỗi nhưng ông vẫn luôn suy nghĩ, lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Cảm nhận cảnh ngày hè nhưng tác giả vẫn quan tâm tới cuộc sống của nhân dân. Thế nên ông nghe thấy âm thanh tấp nập, lao xao của làng chài.
Ông quan tâm tới nhân dân, lo cho dân cho nước. Chính vì vậy, ông ước mong mình có cây đàn của vua Ngu Thuấn. Với cây đàn đó, Nguyễn Trãi có thể mang tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân và đất nước. Không có một lòng yêu quê hương, đất nước sâu đậm, ông không thể có một ước muốn như vậy. Không có lòng yêu quê hương, đất nước, ông không thể cảm nhận được hết vẻ đẹp mùa hè nơi một làng chài quê hương thanh bình. Và, không có lòng yêu quê hương, đất nước, ông không thể viết nên bài thơ Cảnh ngày hè làm xúc động lòng người như vậy.
Bài thơ tả cảnh ngày hè cho thấy tâm hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yên nhân dân, đất nước. Việt hoá thơ Đường luật, sáng tạo thơ thất ngôn xen lục ngôn, vận dụng hình ảnh, màu sắc, đường nét, âm thanh của cảnh vật thiên nhiên và cuộc sống của con người, hệ thống ngôn ngữ giản dị tinh tế xen lẫn từ Hán và điển tích chính là những nét nghệ thuật đặc trưng cho Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi.
Bài thơ Cảnh ngày hè đặc sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Ông là người yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. Nhưng trên hết, ông là một người vừa có tài, vừa có tâm bởi ông luôn lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Ông muốn cống hiến nhiệt huyết của mình để nhân dân hạnh phúc, ấm no, đất nước giàu mạnh. Tư tưởng của Nguyễn Trãi như một bài học gửi gắm cho thế hệ trẻ về lòng yêu nước, ước mong cống hiến cho đất nước.
Phân tích tác phẩm Bảo kính cảnh giới của Nguyễn Trãi mẫu 5
Nguyễn Trãi (1380- 1442) là đại thi hào dân tộc, người anh hùng cứu quốc thuở “bình Ngô", danh nhân văn hóa Đại Việt. Thơ chữ Hán cũng như thơ chữ Nôm của Nguyễn Trãi đẹp đẽ, sâu sắc, biểu tượng cao quý của nền văn hiến Việt Nam.
“Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi hiện còn 254 bài thơ, được chia nhiều loại, nhiều thể tài khác nhau: Ngôn chí (21 bài), Thuật hứng (25 bài), Bảo kính cảnh giới (61 bài)… Phần lớn các bài thơ trong "Quốc âm thi tập ” không có nhan đề. Đây là bài thơ 43 trong “Bảo kính cảnh giới”. Các bài thơ trong "Bảo kính cảnh giới ” hàm chứa nội dung giáo huấn trực tiếp, những bài thơ này rất đậm đà chất trữ tình, cho ta nhiều thú vị.
Đề tài mùa hè, cảnh hè được nói nhiều trong thơ văn cổ dân tộc. "Quốc âm thi tập”, “Hồng Đức quốc âm thi tập”, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến… đều có một số bài thơ viết về mùa hè rất hay. Bài thơ này là một thi phẩm khá tiêu biểu cho ngôn ngữ thi ca Ức Trai, đậm đà dấu ấn thời đại, thời Lê, thế kỷ XV nói lên cảnh sắc mùa hè làng quê và nỗi ước mong của nhà thơ.
Câu 1 (lục ngôn) nói lên một cách sống của thi nhân. Câu thơ bình dị như một lời nói vui vẻ, thoải mái, hồn nhiên:
"Rồi bóng mát thuở ngày trường”
Đằng sau vần thơ là hình ảnh một cụ già, tay cầm quạt giấy “Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh – Áo bô đen cật vận xềnh xoàng" đang đi dạo mát. Lúc bấy giờ, Ức Trai không bị ràng buộc bởi “áng mận đào ”, vòng "danh lợi ” nữa, mà đã được vui thú nơi vườn ruộng, làm bạn với cây cỏ, hoa lá nơi quê nhà. “Ngày trường" là ngày dài. "Rồi" là tiếng cổ, nghĩa là rỗi rãi, nhàn hạ, cả trong công việc lẫn tâm hồn. Câu thơ phản ánh một nếp sống sinh hoạt nhàn nhã: trong buổi ngày rỗi rãi, lấy việc hóng mát làm niềm vui di dưỡng tinh thần. Ta có thể phán đoán Ức Trai viết về bài thơ này khi ông đã lui về Côn Sơn ở ẩn.
Năm câu thơ tiếp theo tả cảnh làng quê Việt Nam xa xưa. Các câu 2, 3, 4 nói về cảnh sắc, hai câu 5, 6 tả âm thanh chiều hè.
Cảnh sắc hè trước hết là bóng hoè, màu hoè. Lá hoè xanh thẫm, xanh lục. Cành hoè sum sê, um tùm, lá "đùn đùn " lên thành chùm, thành đám xanh tươi, tràn đầy sức sống:
"Hoè lục đùn đùn tán rợp trương”
Tán hoè toả bóng mát, che rợp sân, ngõ, vườn nhà, “trương” lên như chiếc ô, chiếc lọng căng tròn. Mỗi từ ngữ là một nét vẽ màu sắc tạo hình, gợi tả sức sống của cảnh vật đồng quê trong những ngày hè: lục, đùn đùn, tán, rợp trương. Ngôn ngữ thơ bình dị, hàm súc và ấn tượng.
Cây hoè vốn được trồng nhiều ở làng quê; vừa làm cảnh, vừa cho bóng mát. Hoè nở hoa vào mùa hè, màu vàng, làm dược liệu, làm chè giải nhiệt. Trong văn học, cây hoè thường gắn liền với điển tích “giấc hòe” (giấc mộng đẹp), “sân hoè” (chỉ nơi cha mẹ ở). Truyện Kiều có câu: “Sân hòe đôi chút thơ ngây – Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình Trong thơ Ức Trai, Lê Thánh Tông… hình ảnh cây hoè xuất hiện nhiều lần được miêu tả bằng một thứ ngôn ngữ trau chuốt, đậm đà:
“Lại có hoa hoè chen bóng lục”
("Cảnh hè" – Ức Trai)
“Có thuở ngày hè trương tán lục,
Đùn đùn bóng rợp cửa tam công”
("Hoè" – Ức Trai)
"Đằng đẵng ngày chầy rương rán nắng,
Đùn đùn bóng rợp phủ màn hoè ”
("Vịnh cảnh mùa hè" – "Hồng Đức quốc âm thi tập").
“Rợp rợp màn hoè bóng mới xây,
Choi chói hoa vàng đưa gió
Đùn đùn tán lục gương mây’’.
("Màn hoè" – Lê Thánh Tông)
Câu 3 nói về khóm thạch lựu ở hiên nhà trổ hoa rực rỡ: “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ”. “Thức” là tiếng cổ chỉ màu vẻ, dáng vẻ. Trong cành lá xanh biếc, những đoá hoa lựu như chiếc đèn lồng bé tí phóng ra, chiếu ra, "phun ” ra những tia lửa đỏ chói, đỏ rực. Chữ “phim ” được dùng rất hình tượng và thần tình. Lê Thánh Tông viết về hoa lựu:
“Ngoài hiên lửa lựu luống thè be ”
("Mùa hè")
“Truyện Kiều ” cũng có câu: “Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông” – Từ hoa lựu “phun thức đỏ”, "lửa lựu luống thè be" đến hình ảnh “đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông ” là cả một quá trình sáng tạo ngôn ngữ thi ca của các thế hệ thi sĩ dân tộc qua 5 thế kỷ từ "Quốc âm thi tập ” đến “Truyện Kiều vẻ đẹp ngôn ngữ thi ca được trau chuốt như ngọc quý sẽ ánh lên màu sắc huyền diệu là như thế đó!.
Câu 4 nói về sen: "Hồng liên trì đã rịn mùi hương". “Tin ” là hết (tiếng cổ). Sen hồng vẫn nở thắm ao làng, nhưng hương đã nhạt, đã dần phai. Sen là biểu tượng cho cảnh sắc mùa hè làng quê ta. Khi sen trong ao làng đã “tịch mùi hương” tức là đã cuối hè.
Nguyễn Trãi đã chọn hoè, thạch lựu, sen hồng (hồng liên) để tả và đưa vào thơ. Cảnh sắc ấy vô cùng xinh đẹp và bình dị. Nhà thơ đã gắn tâm hồn mình với cảnh vật mùa hè bằng một tình quê đẹp. Thiên nhiên trong thơ Ức Trai rất hữu tình và thân thuộc, cỏ cây gần gũi, mến yêu:
“Tá lòng thanh vị núc nác,
Vun đất ải lãnh mồng tơi”
(Ngôn chí – số 9)
“Ao cạn vớt bèo cấy muống,
Đìa thanh phát cỏ ương sen”
("Thuật hứng" – số 24)
Hè rất đẹp, rộn ràng trong khúc nhạc làng quê. Ngoài tiếng cuốc, tiếng chim tu hú, tiếng sáo diều còn có tiếng ve, tiếng cười nói "lao xao " của đời thường:
“Lao xao chợ cá làng ngư phù,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương".
Sau khi tả hoè màu "lục”, lựu "phun thức đỏ”, sen hồng đã “tịch mùi hương”, nhà thơ nói đến âm thanh mùa hè, khúc nhạc đồng quê. Tiếng “lao xao” từ một chợ cá làng chài xa vọng đến, đó là tín hiệu cuộc đời dân dã đầy muối mặn và mồ hôi. Nhà thơ lắng nghe nhịp sống đời thường ấy với bao niềm vui. “Lao xao” là từ láy tượng thanh gợi tả sự ồn ào, nhộn nhịp. Hòa nhịp với tiếng lao xao chợ cá là tiếng ve-vang lên rộn rã, nhịp nhàng. "Cầm ve”, hình ảnh ẩn dụ, tả âm thanh tiếng ve kêu như tiếng đàn cầm. "Dắng Dỏi ” nghĩa là inh ỏi, âm sắc tiếng ve trầm bổng, ngân dài vang xa. Ngôi lầu buổi xế chiều trở nên náo động, rộn ràng. Nhà thơ lấy tiếng ve để đặc tả khung cảnh một chiều hè làng quê lúc hoàng hôn buông dần xuống mái lầu (lầu tịch dương) là một nét vẽ tinh tế đầy chất thơ làm nổi bật cái không khí êm ả một chiều hè nơi thôn dã:
“Dắng dỏi cầm ve //lầu tịch dương”
Và đây, là tiếng chim cuốc, tiếng ve ngày hè nơi đồng quê được nói đến trong thơ “Hội Tao Đàn” dưới triều vua Lê Thánh Tông:
“Tường nọ nhặt khoan vang tiếng cuốc,
Cành kia dắng dỏi gảy cầm ve
(Vịnh cảnh mùa hè).
Trở về “Côn Sơn quê cũ”, Ức Trai đã từng bồi hồi “trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn ”, giờ đây ông lại thả hồn mình trong khúc ca dân dã “cầm ve ” buổi chiều tà cuối hè. Tiếng ve lúc hoàng hôn thường gợi nhiều bâng khuâng, vì ngày tàn, màn đêm đang dần dần buông xuống. Nhưng với Ức Trai, nó đã trở thành "cầm ve” nhặt khoan trầm bổng, dắng dỏi vang xa, làm cho khung cảnh làng quê một buổi chiều tà bỗng rộn lên bao niềm vui cuộc đời.
Hai câu kết diễn tả ước mong nhà thơ:
"Dễ có Nạn cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương’’.
"Dễ có ” nghĩa là hãy để (cho ta) có; học giả Đào Duy Anh ghi chú là “Lẽ có” và giải thích “Đáng lẽ có… Ngu cầm là cây đàn thần của vua Thuấn (Nghiêu Thuấn là hai ông vua thời cổ đại Trung Quốc – triều đại lí tưởng: nhân dân được sống trong hạnh phúc, thanh bình). Câu kết, cảm xúc trữ tình được diễn tả bằng một điển tích phản ánh khát vọng cao đẹp của nhà thơ. Ức Trai chân thành bày tỏ: Hãy để cho ta cây đàn thần của vua Thuấn, ta sẽ gảy lên khúc '‘Nam phong”, cầu mong cho mọi nhà, mọi chốn, khắp các phương trời (đòi phương) được ấm no, giàu có.
Hai câu kết toát lên một tình yêu lớn. Con người Ức Trai lúc nào cũng hướng về nhân dân, mong ước cho nhân dân được ấm no và nguyện hi sinh phấn đấu cho hòa bình, hạnh phúc của dân tộc.
Trong thơ Ức Trai, hai câu kết luôn luôn là sự hội tụ bừng sáng của những tư tưởng tình cảm cao cả, đẹp đẽ. Vì thế mà câu kết đã để lại trong tâm hồn người đọc những ấn tượng vô cùng mạnh mẽ:
"Cảnh thanh dường ấy chẳng về nghỉ,
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào "
(Mạn thuật – số 13)
"Bui một tấc lòng ưu ái cũ,
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”.
("Thuật hứng" – số 5)
Bài thơ Nôm ra đời gần 600 năm về trước miêu tả cảnh tình mùa hè nơi đồng quê, đã đem đến cho chúng ta nhiều thú vị văn chương. Một giọng thơ thâm trầm, hồn hậu đáng yêu. Nhiều tiếng cổ, cấu trúc câu thơ thất ngôn xen lục ngôn. Phép đối ở phần thực và phần luận khá chặt chẽ về ngôn từ, thanh điệu, hình ảnh và ý tưởng. Cảnh sắc và âm thanh mùa hè quê ta xa xưa như sống dậy qua những vần thơ nhuần nhị đầy cá tính sáng tạo. Ức Trai đã gửi gắm một tình yêu thiên nhiên nồng hậu, một tấm lòng thiết tha với cuộc sống, một niềm ước mong tốt đẹp cho hạnh phúc của nhân dân. Vĩ đại thay Ức Trai. Bài học thương yêu nhân dân mà ông nói đến lúc nào cũng mới mẻ và đậm đà.
Phân tích tác phẩm Bảo kính cảnh giới của Nguyễn Trãi mẫu 6
Nguyễn Trãi là bậc vĩ nhân của đất nước ta. Trong con người ông vừa có sự chí khí, hào sảng của một bậc đại anh hùng vì dân vì nước vừa có tâm hồn lãng mạn của một thi nhân. Hai điều ấy kết hợp lại góp phần tạo nên một giọng thơ rất riêng ở Nguyễn Trãi: vừa thấm đượm chất trữ tình và cũng đau đáu nỗi lo việc nước. Ở "Bảo kính cảnh giới", bài 43 ta sẽ thấy rõ điều đó.
"Bảo kính cảnh giới" có nghĩa là "gương báu răn mình". Đây là một chùm thơ được rút ra từ tập thơ chữ Nôm nổi tiếng mang tên "Quốc âm thi tập". Ở bài thơ số 43 này, tác giả đã miêu tả khung cảnh ngày hè tươi đẹp, rực rỡ và lòng yêu nước thương dân của mình.
Ở ngay câu thơ đầu tiên, Nguyễn Trãi đã cho người đọc thấy được tâm thế của mình "Rồi hóng mát thuở ngày trường". Trạng thái "hóng mát" ung dung, tự tại cho thấy người thi sĩ đang có cuộc sống nhàn nhã, hạnh phúc. Nguyễn Trãi đã dành cả cuộc đời để lo cho đất nước, giờ đây, ông đang tận hưởng những giây phút hiếm hoi cho riêng bản thân mình, ngắm cảnh thiên nhiên mùa hè rực rỡ:
"Hòe lục đùn đùn tán rợp trương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ.
Hồng liên trì đã tịn mùi hương."
Tác giả bắt gặp không khí mùa hè ở cây hòe trước nhất. Cây hòe to lớn, xòe những tán lá rộng, xanh biếc. Động từ "đùn đùn" thường dùng để chỉ sự vận động to ra, cao hơn đã được nhà thơ gán cho cây hòe khiến ta cảm giác như những tán cây đang vươn lên, ngày một to ra che kín ánh mặt trời. Màu xanh của cây hòe ở câu trước được tác giả đặt cạnh màu đỏ của cây lựu khiến cho hai câu thơ tràn đầy sắc màu. Hoa lựu không những trổ bông xinh đẹp mà còn "phun" thức đỏ. Từ "phun" ấy khiến ta cảm giác sắc đỏ trên cây càng lúc càng nên đậm đà, rõ nét hơn. Những bông hoa lựu rực rỡ, căng tràn sức sống khiến cho mùa hè càng thêm kiều diễm, chói mắt. Ở một góc khác của bức tranh, tuy không rực rỡ bằng xanh, đỏ nhưng có sắc hồng của "hồng liên trì" lại rất đỗi dịu mắt, nhẹ nhàng. Bông hoa sen trong ao tỏa hương thơm ngát tràn khắp không gian. Vậy là bức tranh mùa hè của Nguyễn Trãi đã có đầy đủ màu sắc và hương thơm. Trong hai câu thơ tiếp theo, Nguyễn Trãi viết:
"Lao xao chợ cá làng ngư phủ;
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương."
Hai câu thơ này đã cho ta thấy bức tranh ngày hè sống động, rộn ràng. Nhà thơ đã sử dụng từ "lao xao" - một từ láy tượng thanh để diễn tả âm thanh từ chợ cá vọng lại. Đây là tiếng nói cười xôn xao, vui tươi của con người đang lao động. Tác giả lắng nghe những thanh âm của cuộc sống thường nhật như nghe thấy tiếng nói hạnh phúc của người dân. Ngoài tiếng nói của con người, thi nhân còn cảm nhận được tiếng ve đặc trưng của mùa hè. Tiếng "dắng dỏi" kêu liên tục không dứt như bản nhạc sôi nổi, vui vẻ của lũ ve khiến lòng người cũng tưng bừng, rộn rã.
Trong buổi hoàng hôn, con người thường chất chứa nhiều nỗi tâm sự. Thi sĩ cũng vậy, khi cảnh ngày hè dần tàn, ánh tịch dương buông xuống, ông đã nói ra tâm trạng của mình:
"Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương."
Ở đây, tác giả đã mong ước có được "Ngu cầm" - cây đàn của vua Thuấn để gảy nên khúc nhạc Nam phong, khúc nhạc giúp cho nhân dân bớt ưu phiền và có thêm nhiều của cải. Tiếng lòng của Nguyễn Trãi có thể hiểu là khát vọng tất cả mọi người dân đều được hưởng cuộc sống thanh bình, hạnh phúc, đủ đầy. Điều này cũng được thể hiện rõ trong câu thơ cuối "Dân giàu đủ khắp đòi phương". Đây là ước muốn phi thường, chứng tỏ tấm lòng yêu nước, thương dân của người anh hùng Nguyễn Trãi.
Nghệ thuật đặc sắc của bài thơ thứ 43 trong chùm thơ "Bảo kính cảnh giới" này cũng là điều không thể không nhắc đến. Tác giả đã sử dụng các câu thơ thất ngôn xen lẫn lục ngôn để làm nên sự khác biệt ở bài thơ này. Ngoài ra, những từ láy tượng hình, tượng thanh, các động từ cũng được đặt rất đúng chỗ nhằm vẽ lên bức tranh ngày hè sống động, rực rỡ sắc màu.
"Bảo kính cảnh giới", bài số 43 là một sáng tác rất độc đáo thể hiện lối viết đặc trưng của Nguyễn Trãi. Đây không chỉ là bài thơ tả cảnh mùa hè tràn đầy sức sống mà còn nói lên niềm ao ước của con người trung quân ái quốc về cuộc sống hạnh phúc của muôn dân.
Mời các bạn cùng tải về bản PDF để xem đầy đủ nội dung