Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Nỗi thương mình
Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Nỗi thương mình
Văn mẫu lớp 10: Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Nỗi thương mình gồm các bài văn mẫu hay cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.
I. Dàn ý phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Nỗi thương mình
Mở bài: giới thiệu tác giả tác phẩm
Thân bài:
Hiện trường tòa nhà xanh trụy lạc và phóng túng:
– “Bướm lả ong lơi” gợi một viễn cảnh hết sức thô tục, ví kỹ nữ như bông hoa đẹp, kĩ nữ như ong bướm lả lơi, ghé hoa này, rờ hoa kia, rất hỗn tạp, ngông cuồng.
– Mùi rượu nồng nặc quyện với mùi son phấn thô tục với cuộc “cuộc say đầy tháng”, với thú vui “trận cười suốt đêm” của những nam nữ ăn chơi ngày đêm, ồn ào, náo nhiệt và trác táng.
– Hình ảnh nam nữ cười đùa, tựa vào nhau, đầu kề đầu, má chạm nhau như lá với gió, cành với chim.
– Khắc họa hình ảnh khách làng chơi với những truyền thuyết, huyền thoại, những nhân vật như Tống Ngọc, Tư Mã Tương Như.
Nỗi đau và tâm trạng của Thúy Kiều:
– “Nửa đêm thức giấc/ Giật mình thấy thương mình”: Ý thức được thân phận bọt bèo của mình, giật mình, bàng hoàng nhìn lại xác chết mà xót xa cho mình.
– “Khi sao phong gấm rủ là” là lời nhắc nhở về cuộc sống êm đềm với rèm che ngày xưa. Còn Kiều giờ đây buộc phải đối diện với cuộc đời đầy rèm che, nhưng đắm chìm trong những ngày nửa sắc nửa hương.
– Kiều thấy mình đáp lại hai chữ “tung hoa giữa đường” như đóa hoa mẫu đơn thanh cao, thuần khiết nhưng cuối cùng lại bị chà đạp không thương tiếc, chỉ còn lại một vẻ tàn phai, hoen ố.
– Hàng ngày phải đi ra ngoài Bắc Nam, ngắm nghía, bình phẩm, “hít thở” và ôm ấp đàn ông như tình nhân, với những cử chỉ tán tỉnh, tình tứ, dễ dãi.
– Lời than thở chua xót “Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”, là ý thức về thân phận thấp hèn, mục nát của mình.
=> Cuộc đời tủi nhục, tủi nhục, đau đớn tột cùng về cả thể xác và tinh thần của Kiều.
Vẻ đẹp tâm hồn Thúy Kiều:
Nhưng dù cuộc đời có chà đạp, vùi dập liễu yếu đào tơ thì Kiều vẫn mạnh mẽ kiên cường, giữ vững phẩm chất cao quý, trong sáng. Dù ở những chốn lầu xanh, những cuộc “mây mưa của Tần” ở đâu, nàng cũng chẳng màng đến những thú vui tầm thường, phù phiếm đó.
– “Cảnh buồn người có vui đâu bao giờ?”, diễn tả đúng hoàn cảnh đau khổ, buồn tủi của Thúy Kiều.
– “Đòi phen nét vẽ câu thơ/Cung cầm trong nguyệt nét cờ dưới hoa” tả cảnh trêu ngươi của Thúy Kiều, nàng là người thông minh sắc sảo, có gì không hiểu , nhưng nhìn cảnh tượng trước mắt, nhìn số phận của chính mình, những thứ cô yêu thích trước đây cũng trở nên tẻ nhạt, nhàm chán.
-“Ai tri âm đó mặn mà với ai” nỗi trăn trở về một người có lẽ thiếu hiểu biết, thương hại và khao khát thoát khỏi chốn mờ ám. Điều đó càng làm cho Kiều hụt hẫng và buồn bã đến cùng cực.
Kết bài: đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật
II. Bài văn mẫu phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Nỗi thương mình
1. Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Nỗi thương mình mẫu 1
Điểm đặc thù của đoạn trích này là tác giả viết về tình cảnh, tâm trạng của Thúy Kiều khi bị buộc làm kĩ nữ tiếp khách làng chơi. Nguyễn Du phải đối diện với một thực tế phũ phàng là xã hội vạn ác đã đồn đẩy nhân vật mà ông trân trọng, yêu mến vào chốn thanh lâu. Làm thế nào để vẫn phản ánh được sự thật mà không hạ thấp nhân vật. vẫn thể hiện được thái độ cảm thông của mình và nói lên được sự đau khổ, thương thân xót phận của nhân vật. Nguyễn Du phát huy mặt mạnh của bút pháp ước lệ cùng nghệ thuật sử dụng ngôn từ chọn lọc vừa phù hợp vừa chính xác để giải quyết vấn đề nan giải này. Nguyễn Du đã miêu tả thật sống động bức tranh sinh hoạt đặc trưng ở chốn lầu xanh bằng bút pháp ước lệ tượng trưng:
Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.
Những ẩn dụ như bướm lả, ong lơi, lá gió, cành chim, hình ảnh cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm và cả điển tích văn chương về Tống Ngọc, Trường Khanh, hai vị khách phong lưu nổi tiếng đã khắc họa được cảnh sống xô bồ, nhơ nhớp và thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ ở chốn lầu xanh. Giữa cái không khí ồn ào, náo nhiệt, lả lơi, dập dìu, sớm đưa, tối tì ra ấy, nổi bật lên hình ảnh một nàng Kiều cô đơn, buồn tủi.
Các hình thức đối xứng trong câu như bướm lả / ong lơi, lá gió / cành chim được Nguyễn Du khai thác triệt để nhằm tô đậm nỗi thương thân, xót phận của Thúy Kiều và gây cảm giác đau đớn. Xót xa thực sự cho người đọc.
Bốn câu thơ đầu vừa là bức tranh sinh hoạt nhơ nhớp chốn thanh lâu vừa ẩn chứa tiếng thở dài não ruột của người con gái tài sắc buộc phải làm kĩ nữ. Tác giả xót thương Thúy Kiều rơi vào chốn bùn nhơ, nơi nhân phẩm bị hủy hoại, nhưng cũng chính trong hoàn cảnh đó, Thúy Kiều đã ý thức rất rõ về nhân phẩm cao quý của mình.
Thúy Kiều là một người con gái được Nguyễn Du xây dựng trở thành hình mẫu lí tưởng của cái đẹp, cái thiện. Khi lâm vào tình cảnh ô nhục mà nàng chưa từng nghĩ đến. Thúy Kiều đã cố vùng vẫy để được giải thoát, nhưng càng vùng vẫy lại càng bế tắc. Nỗi đau “trần thế'’ đối với một người Mai cốt cách, tuyết tinh thần như Thúy Kiều dường như nhân lên gấp bội: vì hơn ai hết, nàng không bao giờ chấp nhận cuộc sống sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh. Do đó, khi thể hiện tâm trạng Thúy Kiều ở lầu xanh, Nguyễn Du đã dồn hết cảm xúc xót thương vào ngòi bút.
Nhà thơ đã thể hiện thật chân tình tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề của Thúy Kiều khi phải đối diện với chính lòng mình:
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình, mình lại thương mình xót xa
Sống trong cảnh cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm thi chỉ khi tỉnh rượu, lúc tàn canh Kiều mới có những khoảnh khắc hiếm hoi để sống thực với mình. Lúc khách làng chơi đã ra về hết, đêm rất khuya, chỉ còn một mình Kiều đối diện với ngọn đèn chong.
Nhịp thơ 3/3 như gợi từng bước đi chậm chạp của thời gian. Thời gian và không gian vắng lặng, cô liêu càng gợi nỗi niềm cay đắng, xót xa trong dạ người con gái đang lênh đênh, lưu lạc nơi đất khách.
Đến câu thứ hai, nhịp thơ thay đổi thành 2/2/2/2: giật mình / mình lại / thương mình / xót xa. Hai chữ giật minh kết. hợp với cách ngắt nhịp đột ngột diễn tả tâm trạng thảng thốt của Thúy Kiều. Từ mình mang thanh bằng nhưng không gợi sự nhẹ nhõm mà gợi cảm giác nặng nề bởi nó được lặp lại tới ba lẩn trong một câu thơ có nhịp điệu thổn thức, như tiếng nấc nghẹn ngào khi cố ghìm tiếng khóc.
Thúy Kiều giật mình sợ hãi trước sự đổi thay ghê gớm của số phận và tình cảm thảm hại của mình lúc này. Hai câu thơ tả tâm lí trên có thể coi là tuyệt bút. Nhịp điệu, âm hưởng và phép điệp từ kết hợp hài hòa, tự nhiên đã diễn tả thật chính xác tâm trạng trĩu nặng sầu thương của Thúy Kiều. Đêm khuya thanh vắng, nỗi sầu thương ấy như hiện rõ thành hình, thành khối là Thúy Kiều bằng xương bằng thịt. Đọc hai câu thơ trên, ai cũng phải ngậm ngùi rơi lệ.
Nỗi thương mình là cảm xúc bao trùm trong đoạn trích. Thúy Kiều buộc phải xa cha mẹ, xa tổ ấm để bước lên cỗ xe định mệnh: vó câu khấp khểnh, bánh xe gặp ghềnh, lao đi trên con đường mịt mù, vô định. Nàng chấp nhận: Thôi đành nhắm mắt đưa chân, để xem con tạo xoay vần đến đâu nhưng không thể ngờ rằng mình lại rơi vào chốn hang hùm đầy những kẻ bán thịt buôn người trâng tráo và đê tiện. Nàng đang phải sống trong cảnh Chán trời góc biển bơ vơ, không nơi nương tựa, không người an ủi, vỗ về, chia sẻ cho vơi bớt nỗi đau cô độc giữa lũ quỷ mặt người nên Kiều có cảm giác mình lại thương mình xót xa là vậy!
Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở mức “đọc” được tâm trạng Thúy Kiều mà sâu hơn thế, thi sĩ thực sự rung động trước nỗi khổ tâm của nàng, đồng thời truyền sự rung động mãnh liệt ấy đến trái tim, khối óc người đọc, tạo nên mối dây đồng tình, đồng điệu.
Thúy Kiều cay đắng nghĩ tới sự tương phản ghê gớm giữa quá khứ tươi đẹp, hạnh phúc và hiện thực đen tối, phũ phàng:
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Nàng nhớ lại cảnh sống quý phái, sang trọng khi còn ở nhà với cha mẹ trước lúc xảy ra tai họa và thương tiếc thân mình vì vùi dập tan tác như hoa giữa đường. Những hình ảnh, từ ngữ đối lập đã đặc tả tâm trạng đau đớn, tủi hổ ê chề của Kiều. Quá khứ đối lập hiện tại một cách khốc liệt. Dĩ vãng tươi đẹp chỉ được gợi lên qua một câu: Khi sao phong gấm rủ là, còn hiện tại đen tối được nhắc đến liên tiếp trong nhiều câu thơ. Trước kia, Kiều được nâng niu quý trọng bao nhiêu thì bây giờ nàng bị vùi dập phũ phàng bấy nhiêu. Sao là từ nghi vấn nhưng lại mang tính chất cảm thán, vừa được dùng trong hình thức đối vừa được dùng ở hình thức điệp: Khi sao, giờ sao, mặt sao, thân sao kết hợp với các thành ngữ mà từ ghép, từ láy được xé lẻ rồi đan chéo vào nhau như: dày gió dạn sương, bướm chán ong chường tạo nên giọng thơ mà nỗi đau đớn ê chề như thấm đẫm trong từng câu, từng chữ. Đằng sau những ngôn từ, hình ảnh ước lệ hoa mĩ ấy là cơn uất hận khôn nguôi, là những câu hỏi day dứt, dằn vặt muốn vang vọng tới trời xanh. Bất công thay, trớ trêu thay là Trời già tai ác! Thực ra, tạo hóa chẳng nỡ đày đọa Thúy Kiều - người con gái tài sắc vẹn toàn, mà chính là các thế lực tàn ác trong xã hội đã dìm nàng xuống bùn đen. Tuy nhiên, thái độ của Kiều là không buông mình theo dòng đục, bởi nàng cảm nhận sâu sắc về phẩm giá của mình và nỗi tủi nhục của người lương thiện bị vùi dập, đọa đày.
Tác giả tả tâm trạng của Kiều ở chốn lầu xanh:
Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
Cảnh có đủ phong, hoa, tuyết, nguyệt, tượng trưng cho vẻ đẹp bốn mùa như: xuân có hoa; hè có gió; thu có trăng; đông có tuyết. Nhưng trước những cảnh đẹp đó, Kiều dửng dưng, thờ ơ bởi con tim nàng đã bị nỗi đau khổ quá mức làm cho giá lạnh.
Ở lầu xanh cũng có đủ các thú vui như cầm, kì, thi, họa, nhưng đối với Kiều thì cảnh vật, con người và những thú vui ấy giờ đây đối với nàng đều trở nên vô nghĩa.
Vui là vui gượng kẻo là,
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du, không chỉ có quá khứ đối lập với hiện tại mà bản thân cuộc sống hiện tại cũng chứa đựng sự đối lập. Cuộc đời kĩ nữ nhìn bề ngoài tưởng thanh cao, tao nhã: Đòi phen nét vẽ câu thơ, cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa; Đòi phen gió tựa hoa kề, nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu, nhưng thật là mỉa mai khi sự nhơ nhớp bẩn thỉu được che đậy bằng vẻ ngoài thơ mộng và hào nhoáng.
Sự đối lập ấy Kiều đã nhận ra bằng trái tim nhạy cảm của mình. Những từ gượng, thờ ơ, ngẩn ngơ thể hiện tâm trạng chẳng mặn mà, thậm chí bẽ bàng của Kiều trước thực tại. Một người vốn trung thực như Kiều mà lại phải vui là vui gượng để chiều khách làng chơi thì nỗi tủi, nỗi sầu càng sâu sắc, thấm thía hơn. Tưởng chừng như nỗi sầu từ lòng người lan tỏa sang cả cảnh vật:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Bằng sự thông cảm thực sự và bằng tài năng kì diệu. Nguyễn Du đã viết lên hai câu thơ hay nhất về mối liên hệ tương đồng giữa ngoại cảnh và tâm cảnh, giữa cảnh và tình trong văn chương Việt Nam.
Đoạn trích Nỗi thương mình chứa đựng ý nghĩa sầu sắc về quá trình tự ý thức của con người cá nhân trong văn học trung đại. Người phụ nữ xưa thường được giáo dục theo tinh thần an phận thủ thường, cam chịu và nhẫn nhục. Khi nhân vật Giật mình mình lại thương mình xót xa thì điều này đã bao hàm ý nghĩa “cách mạng” Con người không chỉ biết hi sinh, nhẫn nhục, cam chịu mà bước đầu đã có ý thức về phẩm giá, nhân cách, tức là ý thức về quyền sống của bản thân.
Thương thân, xót phận là một hiện tượng khá phổ biến trong thơ văn thế kỉ XVIII, nhưng Nguyễn Du viết về chủ đề này thấm thía hơn, sâu sắc hơn so với các tác giá khác. Sự thương mình chính là nền tảng của lòng thương người. Văn học dân gian có câu: Thương người như thể thương thân là vì thế. Không thể có tình thương sâu sắc, chân chính dành cho người khác nếu không có ý thức về bản thân, không biết thương chính bản thân mình.
Đoạn trích Nỗi thương mình cho thấy phẩm giá cao quý, trong trắng của Thúy Kiều. Nguyễn Du đã không né tránh thực tế nghiệt ngã, và đã đề cao nhân cách của Kiều, phẩm giá của Kiều bằng việc thể hiện thành công nỗi buồn thương, day dứt, chán chường của nàng giữa chốn bùn nhơ.
Đoạn thơ đầy chất bi thương nhưng lại không hề yếu đuối. Từ bên trong nó toát lên ánh sáng của phẩm chất cao quý và chính cái bi thương ấy lại là lời tố cáo mãnh liệt tội ác của xã hội bất nhân đã chồng chất bao nhiêu đau khổ lên một kiếp người. Người đọc xót xa căm giận cái xã hội vạn ác và càng cảm phục, yêu thương khôn xiết người con gái tài hoa mà bất hạnh - Thúy Kiều.
2. Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Nỗi thương mình mẫu 2
Mộng Liên Đường chủ nhân đã khái quát về thân thế Thuý Kiều: “Khi lai láng tình thơ, người tựa án khen tài châu ngọc; Khi duyên ưa kim cải non biển thề bồi; Khi đất nổi ba đào cửa nhà tan tác; Khi lầu xanh, khi rừng tía, cõi đi về nghĩ cũng chồn chân; Khi kinh kệ, khi can qua, mùi từng trải nghĩ cùng tê lưỡi…”. Thuý Kiều đã trải qua hầu hết những nỗi đau khổ tái tê nhất của người phụ nữ dưới thời phong kiến. Khổ đau nhưng luôn có ý thức về “kiếp đoạn trường” của bản thân, rơi vào lầu xanh, Kiều thương thân xót phận nhưng cũng luôn ý thức về phẩm giá. điều đó góp phần làm nên giá trị nhân đạo lớn lao và sâu sắc của tác phẩm.
Vận mệnh và tính cách có màu sắc bi kịch của nàng kiều quán xuyến toàn bộ nội dung tác phẩm. Nhan sắc “nghiêng nước, nghiêng thành”, tài đàn tuyệt diệu, tài thơ mẫn tiệp của nàng rút cục cũng không chống lại được hoàn cảnh. Nàng rơi vào bẫy của Tú Bà và buộc phải tiếp khách làng chơi:
Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười thâu đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh
Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ kết hợp với thủ pháp đối xứng, đan chéo để vừa thể hiện được một thực tế xót xa, thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ, vừa giữ được chân dung cao đẹp của nhân vật Thuý Kiều, qua đó thể hiện thái đọ trân trọng đầy cảm thông đối với nhân vật của mình.
Thân phận nàng Kiều bị cuộc sống lầu xanh cuốn đi, đoạ đầy tưởng bị nhấn chìm trong chốn bùn nhơ không cất đầu lên được. Nhưng nỗi đau đớn của nàng, tâm sự thương mình của nàng, ý thức về nhân phẩm của nàng khiến ta chỉ càng thương nàng hơn, càng trân trọng nàng hơn. Hãy lắng nghe những tâm sự của nàng sau những “cuộc vui”, những “trận cười”:
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Vẫn không gian lầu xanh của Tú bà nhưng thời gian đã là “lúc tàn canh”- đêm khuya, thời khắc hiếm hoi, quí giá để con người mình được đối diện với lòng mình, trở về với con người thật của mình. “Giật mình mình lại thương mìng xót xa”, ba chữ “mình” trong một câu thơ gợi ra tất cả sự cô độc của thân phận. “Giật mình” như một sự bàng hoàng, thảng thốt đau đớn. “Giật mình” vì thấy ghê tởm cho cảnh sống truỵ lạc chốn lầu xanh. “Giật mình” cho chính bản thân, một thiếu nữ khuê các nết na sống trong cảnh “phong gấm rủ là” nay rơi vào cảnh “bướm chán ong chường”. “Giật mình” hay “rùng mình”, bởi tấm thân “gìn vàng giữ ngọc” cho Kim Trọng giờ đành để khách làng chơi giày vò. Vì thế mà bốn chữ “mình lại thương mình” chìm xuống, giọng thơ đầy thấm thía cô đơn xót xa.
Bốn câu hỏi liên tiếp là nỗi niềm dằn vặt, tự đau, tự thương cự độ của “nỗi thương mình”:
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Trong bốn câu chỉ có câu đầu nói về quá khứ êm đềm còn ba câu liên tiếp nói về thực tại phũ phàng. Điều đó gây ấn tượng về việc hiện tại đang đè nặng, chôn vùi quá khứ. Bốn từ “sao” lặp lại: “khi sao”, “giờ sao”, “mặt sao”, “thân sao” là những câu hỏi manh sắc thái cảm thán mạnh bộc lộ nỗi đau xót đến cùng cực trong nỗi đoạ đày ê chề. Lời thơ vừa tức tưởi vừa ai oán, vừa xa xót vừa nghẹn ngào.
Nỗi thương mình của Thuý Kiều có một ý nghĩa vô cùng sâu sắc xét về sự tự ý thức của con người cá nhân trong lịch sử văn học Việt Nam thời trung đại. Người phụ nữ xưa được giáo huấn theo tinh thần cam chịu, nhẫn nhục, buông xuôi. Khi con người biết “Giật mình mình lại thương mình xót xa” thì không còn nhẫn nhục cam chịu nữa mà đã ý thức rất cao về phẩm giá và nhân cách bản thân, ý thức về quyền sống của bản thân.
Thương thân xót phận là một chủ đề phổ biến trong văn học Việt nam cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX (Cung oán ngâm, Chinh phụ ngâm, thơ Hồ Xuân Hương,…). Nguyễn Du là người viết về cảm hứng này sâu sắc và thấm thía hơn cả. Thương thân mình là một cách phản ứng với hiện thực của thân phận. Điều đó cho thấy con người không bị tàn đi, không bị cuốn theo, không bị huỷ diệt. Giữa chốn lầu xanh nhơ nhớp, Kiều tách ra như một điểm sánh về tâm hồn. Chính vì vậy mà Từ Hải, Kim Trọng, Nguyễn và người đọc bao thế hệ đều rất trân trọng nàng.
Đoạn thơ vừa thể hiện được giá trị hiện thực vừa có chiều sâu của tư tưởng nhân đạo, một chiều sâu có khuynh hướng vượt thời đại. Đoạn thơ giúp ta hiểu thêm vì sao Truyện Kiều luôn đồng hành cùng với những vui buồn người Việt qua mưa nắng thời gian.
3. Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Nỗi thương mình mẫu 3
Nét độc đáo của đoạn trích này là tác giả viết về hoàn cảnh và tâm trạng của Thúy Kiều khi phải làm gái điếm để tiếp khách làng chơi. Nguyễn Du phải đối diện với thực tế phũ phàng rằng xã hội tàn ác đã đồn thổi đẩy nhân vật mà ông nâng niu, yêu mến vào chốn bình yên. Làm sao để vẫn phản ánh đúng sự thật mà không hạ thấp nhân vật vẫn thể hiện sự đồng cảm và bộc lộ nỗi đau, tình cảm của nhân vật. Nguyễn Du đã phát huy được thế mạnh của lối viết ước lệ và nghệ thuật dùng từ vừa phù hợp vừa chính xác để giải quyết tình thế khó xử này. Nguyễn Du đã miêu tả sinh động một bức tranh tiêu biểu về cuộc sống chốn lầu xanh một cách tượng trưng:
Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.
Những ẩn dụ như con bướm, con ong, chiếc lá gió, cành chim, hình ảnh cười say suốt đêm và cả những điển tích văn học về Tống Ngọc, Trường Khanh, hai vị khách giàu có nổi tiếng đã được khắc ghi thảm họa cuộc sống thác loạn, nhơ nhớp và thân phận nhục nhã của gái điếm chốn lầu xanh. Giữa không khí ồn ào, tấp nập, nhàn nhã, rụt rè, nổi bật lên hình ảnh một Kiều cô đơn, buồn bã trong buổi sớm tối.
Các hình thức đối xứng trong câu như bướm/ong, lá gió/chim cành được Nguyễn Du khai thác triệt để nhằm làm nổi bật nỗi sầu của Thúy Kiều.
Bốn câu thơ đầu vừa là bức tranh về cuộc sống nhơ nhớp trong nhà kho, vừa là tiếng thở dài ẩn ý của người con gái tài sắc vẹn toàn bị ép làm kĩ nữ. Tác giả xót xa cho Thúy Kiều đã rơi vào chốn nhơ nhớp, nơi nhân phẩm bị hủy hoại nhưng cũng chính trong hoàn cảnh đó Thúy Kiều đã ý thức rất rõ về phẩm giá cao quý của mình.
Thúy Kiều là cô gái được Nguyễn Du xây dựng trở thành hình mẫu lí tưởng về cái đẹp và cái thiện. Khi cô ấy ở trong một tình huống nhục nhã mà cô ấy không bao giờ nghĩ là có thể xảy ra. Thúy Kiều đã cố vùng vẫy để được giải thoát nhưng càng vùng vẫy nàng càng bị bế tắc. Nỗi đau “trần thế” đối với Thúy Kiều dường như nhân lên gấp bội, bởi hơn ai hết, nàng không bao giờ chấp nhận cuộc đời sớm tối chồn vùi tuổi xuân . Vì vậy, khi thể hiện tâm trạng của Thúy Kiều ở lầu xanh, Nguyễn Du đã dồn hết những cảm xúc trầm ngâm vào ngòi bút của mình.
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình, mình lại thương mình xót xa
Sống trong cảnh say cả tháng trời, tiếng cười suốt đêm, chỉ khi tỉnh rượu, cuối mùa, Kiều mới có những giây phút hiếm hoi được sống thật với chính mình. Đến khi khách làng chơi ra về thì đã rất khuya, chỉ còn mình Kiều đứng trước đèn lồng.
Câu thơ 3/3 như gợi lên từng bước chậm của thời gian. Thời gian và không gian tĩnh lặng, hiu quạnh gợi lên nỗi chua xót, xót xa trong lòng người con gái lênh đênh, lưu lạc nơi xứ người.
Ở câu thơ thứ hai, nhịp điệu chuyển sang 2/2/2/2: giật mình/ mình lại/ thương mình/xót xa phù hợp với việc ngắt nhịp đột ngột để diễn tả tâm trạng bấn loạn của Thúy Kiều. Chữ mình có thanh điệu bằng phẳng nhưng không gợi sự nhẹ nhõm mà có cảm giác nặng trĩu bởi nó được lặp lại ba lần trong câu thơ với nhịp điệu thổn thức, như tiếng nấc nghẹn ngào khi cố kìm lại tiếng khóc.
Thúy Kiều giật mình trước sự thay đổi khủng khiếp của số phận và cảm giác thảm hại của mình lúc này. Hai bài thơ tâm lý trên có thể coi là xuất sắc. Nhịp điệu, âm hưởng, điệp ngữ hài hòa, tự nhiên diễn tả chính xác tâm trạng buồn của Thúy Kiều. Trong đêm thanh tĩnh, nỗi buồn ấy như hiện rõ, tạo thành một thân xác Thúy Kiều bằng xương bằng thịt. Đọc hai câu thơ trên chắc hẳn ai cũng phải khóc một cách chua xót.
Nỗi tủi thân là cảm xúc bao trùm trong đoạn trích. Thúy Kiều buộc phải rời xa cha mẹ, quê hương để bước vào cuộc hành trình định mệnh. Thôi thì đành nhắm mắt đưa chân, xem nó xoay chuyển thế nào, không ngờ mình lại rơi vào hang hùm đầy bọn đồ tể đê tiện vô liêm sỉ. Nàng đang sống bơ vơ một góc trời, không có ai nương tựa, không có ai an ủi, vỗ về, sẻ chia để xoa dịu nỗi đau cô đơn nên Kiều cảm thấy thương cho chính mình.
Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở việc “đọc” tâm trạng Thúy Kiều mà sâu xa hơn thế, nhà thơ đã thực sự xúc động trước nỗi khổ của nàng, đồng thời truyền sự rung động mãnh liệt ấy vào trái tim, khối óc tất cả mọi người.
Thúy Kiều cay đắng nghĩ đến sự tương phản khủng khiếp giữa quá khứ tươi đẹp hạnh phúc với hiện thực tàn khốc đen tối:
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Nàng nhớ lại cuộc sống quyền quý và sang trọng ở nhà với cha mẹ trước khi thảm họa xảy ra và thương tiếc cho thân thể của mình bị rải như hoa giữa đường. Những hình ảnh, từ ngữ đối lập diễn tả nỗi đau đớn, tủi hổ của Kiều. Quá khứ tương phản rõ rệt với hiện tại. Quá khứ tươi đẹp chỉ được gợi lên qua một câu: Khi xưa được nâng niu thì hiện tại tăm tối được nhắc đến liên tục trong nhiều câu thơ. Sao là từ nghi vấn nhưng có tính chất cảm thán, được dùng cả ở dạng khởi ngữ và ở dạng điệp ngữ. Đằng sau những ngôn từ, hình ảnh đẹp đẽ ấy là những nỗi niềm day dứt không nguôi, những câu hỏi vương vấn muốn vang tận trời. Ông trời thật bất công, thật trớ trêu! Thực ra, Tạo hóa không nỡ lòng nào ngược đãi Thúy Kiều – một cô gái tài sắc vẹn toàn, mà chính những thế lực tàn ác trong xã hội đã dìm nàng xuống vũng bùn đen. Tuy nhiên, thái độ lúc này của Kiều không phải là bỏ cuộc, bởi nàng cảm nhận sâu sắc về phẩm giá của mình và nỗi tủi nhục của một người lương thiện bị đánh đập, hành hạ.
Tác giả miêu tả tâm trạng của Kiều ở lầu xanh:
Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
Cảnh có đủ phong, hoa, tuyết, nguyệt, tượng trưng cho vẻ đẹp của bốn mùa như mùa xuân có hoa; mùa hè lộng gió; Ánh trăng thu; mùa đông tuyết rơi. Nhưng trước những cảnh đẹp ấy, Kiều lại dửng dưng, dửng dưng vì trái tim đã bị đóng băng bởi những đau khổ quá mức.
Trong lầu xanh cũng có đủ thứ thú vui như cầm, thi, thi, họa nhưng đối với Kiều, cảnh vật, con người và những thú vui ấy giờ đây đối với nàng đều vô nghĩa.
Vui là vui gượng kẻo là,
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du, không chỉ quá khứ đối lập với hiện tại mà bản thân cuộc sống hiện tại cũng chứa đựng sự đối lập đó. Đời kỹ nữ nhìn bề ngoài có vẻ xa hoa, quý phái. Đòi phen nét vẽ câu thơ thơ, cúi nhìn trăng, cắm hoa; Gió như hoa lá, tuyết khép nửa màn, trăng tròn bốn bề, nhưng trớ trêu thay khi bụi đất lại che đi một vẻ thơ mộng, hào nhoáng.
Sự tương phản đó Kiều nhận ra bằng trái tim nhạy cảm của mình. Những từ ngữ lúng túng, dửng dưng, bàng hoàng diễn tả tâm trạng bất bình, thậm chí tủi nhục của Kiều trước thực tại. Người chân chất như Kiều mà phải vui vẻ tiếp đãi khách thì nỗi buồn càng sâu, càng sâu. Dường như nỗi buồn từ trong lòng lan tỏa ra cả cảnh vật:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Với sự đồng cảm thực sự và tài năng tuyệt vời. Nguyễn Du đã viết hai trong số những bài thơ hay nhất về mối quan hệ tương đồng giữa môi trường và tâm trạng, giữa cảnh và tình trong văn học Việt Nam.
Đoạn văn Nỗi thương mình hàm chứa ý nghĩa sầu muộn về quá trình tự ý thức của cá nhân trong văn học trung đại. Phụ nữ ngày xưa thường được giáo dục tinh thần dũng cảm, bao dung, nhẫn nhịn. Khi nhân vật giật mình và cảm thấy thương hại cho chính mình, điều này bao hàm ý nghĩa của “cách mạng”. Con người không chỉ biết hi sinh, chịu đựng, chịu đựng mà bước đầu đã có ý thức về phẩm giá, nhân cách, tức là quyền sống của mình.
Đau lòng là một hiện tượng khá phổ biến trong thơ ca thế kỷ 18, nhưng Nguyễn Du viết về đề tài này sâu sắc hơn các tác giả khác. Tự trắc ẩn là nền tảng của lòng trắc ẩn đối với người khác. Dân gian có câu: Thương người như thể thương thân là vì thế. Không thể có tình yêu sâu sắc, chân chính dành cho người khác nếu không có ý thức về bản thân, nếu không biết cách yêu chính mình.
Đoạn trích Nỗi buồn của Kiều thể hiện phẩm giá cao quý, trong sáng của Thúy Kiều. Nguyễn Du không trốn tránh hiện thực phũ phàng, đã nâng cao nhân cách, phẩm giá của Kiều qua việc thể hiện thành công nỗi buồn, sự day dứt, chán chường của nàng giữa chốn bùn nhơ.
4. Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Nỗi thương mình mẫu 4
Trong dòng chảy văn học trung đại, mỗi nhà văn, nhà thơ đều góp phần làm nên diện mạo của nền văn học Việt Nam qua nhiều tác phẩm xuất sắc thuộc nhiều thể loại khác nhau. Và khi nhắc đến Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, bạn đọc mọi thế hệ không thể không nhắc tới tác phẩm “Truyện Kiều”. Đọc những trang Kiều, người đọc như thấm thía nỗi đau mà Kiều phải chịu đựng nhưng ẩn sau đó chính là vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của nàng. Có thể nói, đoạn trích “Nỗi thương mình”, trích từ câu 1229 đến câu 1248 là một minh chứng tiêu biểu cho điều đó.
Bốn câu thơ mở đầu đoạn trích “Nỗi thương mình” như đã vẽ lên trước mắt người đọc tình cảnh éo le, đáng thương của Thúy Kiều.
Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.
Với những hình ảnh mang đậm tính ước lệ, tượng trưng “bướm lả ong lơi”, “cuộc vui”, “trận cười” đã gợi lên cuộc sống xô bồ, tấp nập suốt ngày đêm nơi chốn lầu xanh. Ở nơi đó luôn tràn ngập tiếng cười với những trò mua vui tiêu khiển, những cuộc rượu say sưa. Thêm vào đó, tác giả đã khéo léo sử dụng các điển cố, điển tích “Tống Ngọc” và “Trường Khanh” để chỉ những người phong lưu, ăn chơi ở chốn lầu xanh. Những hình ảnh ấy đã cho thấy cuộc sống đầy bẽ bàng, tủi khổ của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh, suốt ngày đêm phải tiếp khách, trở thành người mua vui cho những vị khách phong lưu, đa tình ghé qua nơi đây.
Trước tình cảnh đầy trớ trêu nơi chốn lầu xanh, trong Thúy Kiều luôn hiện lên bao nỗi niềm đau đớn, xót thương cho thân phận, cuộc đời của mình.
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Câu thơ “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh” đã mở ra thời gian ban đêm, khi những cuộc vui đã tàn, đó là thời điểm hiếm hoi Kiều được sống là chính mình, đối diện với chính mình cùng bao nỗi niềm, suy tư, trăn trở. Trong chính khoảnh khắc ít ỏi ấy, Kiều “giật mình” bởi sự bàng hoàng, thảng thốt trước thực tại cuộc sống của mình. Để rồi, sau cái giật mình ấy chính là nỗi thương mình, xót xa cho chính bản thân mình và nỗi thương mình, sự xót xa ấy của Kiều xét đến cùng chính là sự tự ý thức về nhân cách của Thúy Kiều. Trong nỗi niềm xót xa, sự cô đơn đến tột cùng ấy, Thúy Kiều đã đi tìm nguyên nhân để lí giải chúng.
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân.
Nghệ thuật đối đã được tác giả sử dụng thành công thông qua việc sử dụng hàng loạt các hình ảnh đối lập nhau, giữa một bên là “phong gấm rủ là” gợi những tháng ngày quá khứ êm đềm, hạnh phúc với một bên là những hình ảnh “tan tác”, “hoa giữa đường”, “dày gió dạn sương”, “bướm chán ong chường” để gợi lên hiện tại phũ phàng, bị chà đạp, vùi dập. Thể hiện sự đối lập giữa quá khứ với hiện tại, tác giả Nguyễn Du đã tô đậm cuộc sống cùng tâm trạng ê chề, nhục nhã, chán chường của Thúy Kiều trong hoàn cảnh đầy trớ trêu. Thêm vào đó, với việc sử dụng hàng loạt từ để hỏi “khi sao”, “giờ sao”, “mặt sao”, “thân sao” đã tạo nên giọng điệu chất vấn, Thúy Kiều như đang tự hỏi, tự dằn vặt chính bản thân mình. Trong nỗi niềm chua xót, đầy giày vò ấy, Thúy kiều đã nhận thức rõ sự đối lập đau xót và chua chát giữa ta và người.
Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì.
Không chỉ đối lập giữa cuộc sống ở quá khứ và hiện tại, mà giờ đây, trong Thúy Kiều còn hiện hữu rõ nét sự đối lập giữa cảnh vật bên ngoài với nỗi niềm tân trạng của chính mình. Bi kịch ấy của Thúy Kiều được thể hiện rõ nét trong những tám câu thơ cuối của đoạn trích.
Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
Đòi phen nét vẽ câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Cuộc sống nơi chốn lầu xanh ở khung cảnh bên ngoài với đầy đủ những nét thanh cao, tao nhã, phong lưu được tác giả tái hiện lại thông qua các hình ảnh giàu sức gợi “gió tựa hoa kề”, “tuyết ngậm”, “trăng thâu”, “nét vẽ”, “câu thơ”, “cung cầm”, “nước cờ”. Nhưng ẩn sâu bên trong đó là bản chất phũ phàng và đầy xót xa, đầy tủi nhục và nhơ nhớp. Và bởi vậy, cảnh vật ở nơi đây đối với Thúy Kiều chính là một sự giả tạo và nàng không thể tìm thấy bầu bạn, không thể tìm thấy tri âm và nàng thờ ơ với mọi thứ xung quanh mình. Đặc biệt, với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, tác giả Nguyễn Du đã cho thấy tâm trạng của Thúy Kiều khi sống ở nơi đây, đó chính là sự gượng gạo, tự thương, tự xót xa cho số phận của chính mình. Đặc biệt, tâm trạng đau đớn như xé lòng của Kiều được thể hiện qua việc sử dụng hàng loạt các câu hỏi tu từ.
Tóm lại, đoạn trích “Nỗi thương mình” với việc sử dụng thành công nghệ thuật đối cùng những hình ảnh giàu sức gợi đã thể hiện một cách rõ nét và sâu sắc nỗi niềm tâm trạng, sự xót thương số phận của Thúy Kiều. Đồng thời, ẩn sau đó người đọc cũng cảm nhận được vẻ đẹp nhân cách của nàng.
----------------------------------
Trên đây VnDoc hướng dẫn các bạn học tốt bài Văn mẫu lớp 10: Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Nỗi thương mình. Ngoài ra các bạn có thể soạn bài Ngữ văn 10 được VnDoc sưu tầm, chọn lọc để học tốt môn Ngữ văn 10.
Bài tiếp theo: Suy nghĩ về câu nói “Việc học như trồng cây”