Tóm tắt, bố cục, nội dung chính văn bản Vịnh khoa thi Hương
Với nội dung bài Tóm tắt, bố cục, nội dung chính văn bản Vịnh khoa thi Hương Ngữ văn lớp 8 bộ Cánh diều chuẩn nhất gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như bố cục, nội dung chính và tóm tắt văn bản hay nhất.
Bài Vịnh khoa thi Hương
Bố cục Vịnh khoa thi Hương
- Hai câu đề: Giới thiệu về kì thi
- Hai câu thực: Cảnh tượng khi đi thi
- Hai câu luận: Những ông to bà lớn đến trường thi
- Hai câu kết: Thái độ phê bình của nhà thơ với kì thi
Nội dung chính Vịnh khoa thi Hương
Vịnh khoa thi hương là bài thơ thuộc đề tài thi cử - một đề tài khá đậm nét trong sáng tác của Tú Xương. Qua việc tái hiện hình ảnh thảm hại của kì thi năm Đinh Dậu (1897) tại trường Hà Nam, nhà thơ bày tỏ sự xót xa, đau đớn của con người trước tình cảnh thảm hại của các nhà Nho vào thời kì mạt vận của Nho học.
Tóm tắt Vịnh khoa thi Hương
Theo lệ thường phong kiến cứ ba năm có một khoa thi Hương . Hình ảnh sĩ tử lôi thôi, vai đeo lọ với dáng vẻ luộm thuộm, nhếch nhác. Quan trường ậm ọe, miệng thét loa, ra oai, nạt nộ nhưng đó là cái oai cố tạo, giả vờ. Sự láo nháo, lộn xộn, ô hợp của trường thi, mặc dù đây là một kì thi Hương quan trọng của nhà nước. Cảnh trường thi phản ánh sự suy vong của một nền học vấn, sự lỗi thời của đạo Nho. Hình ảnh quan sứ là viên quan người Pháp đứng đầu bộ máy cai trị của tỉnh Nam Định được tiếp đón trọng thể. Mụ đầm, vợ quan sứ, ăn mặc diêm dúa, điệu đà. Sự phô trương, hình thức, không đúng nghi lễ của một kì thi. Tất cả báo hiệu về một sự sa sút về chất lượng thi cử, bản chất của xã hội thực dân phong kiến. Tâm trạng thái độ của tác giả trước cảnh tượng trường thi: Ngao ngán, xót xa trước sự sa sút của đất nước. Thái độ mỉa mai, phẫn uất của nhà thơ với chế độ thi cử đương thời và đối với con đường khoa cử của riêng ông. Hai câu cuối như một lời nhắn nhủ các sĩ tử về nỗi nhục mất nước. Nhà thơ hỏi người nhưng cũng chính là hỏi mình.
Ý nghĩa nhan đề Vịnh khoa thi Hương
Phản ánh tình trạng suy đồi của Nho học và sự xâm nhập ồ ạt của thứ văn hóa lai căng của chế độ thuộc địa nửa phong kiến.
Giá trị nội dung Vịnh khoa thi Hương
Bài thơ ghi lại cảnh “nhập trường” vừa ghi lại cảnh lễ xướng danh qua đó nói lên tâm trạng đau đớn, chua xót của nhà thơ trước hiện thực mất nước, giao thời nhốn nháo, nhố nhăng.
Giá trị nghệ thuật Vịnh khoa thi Hương
- Nghệ thuật đối, đảo ngữ
- Ngôn ngữ có tính chất khẩu ngữ, trong sáng, giản dị nhưng giàu sức biểu cảm
Đọc tác phẩm Vịnh khoa thi Hương
Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra.
Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.
Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Vịnh khoa thi Hương
1. Hai câu đề: Giới thiệu về kì thi
“Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà”
- Nhà nước ba năm mở một khoa: Lời thông báo, giới thiệu của tác giả về quy định bình thường của lệ thi cử nước nhà xưa nay.
- Trường Nam thi lẫn với trường Hà: Vốn là hai nơi khác nhau, hai trường thi khác nhau, nhưng năm nay thí sinh của hai trường này lại ngồi trộn lẫn với nhau.
- Từ "lẫn" diễn tả khung cảnh nhốn nháo, ô hợp của trường thi, đối lập với sự trang nghiêm cần có trong một kì thi hương quan trọng của triều đình.
=> Dẫn dắt vào bối cảnh của kì thi một cách tài tình, độc đáo, phần nào phản ánh được thực trạng kì thi lúc bấy giờ.
2. Hai câu thực: Cảnh tượng khi đi thi
“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.”
- Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ: “Sĩ tử" là những người đi thi, đáng ra phải trông thật nho nhã, trang trọng, vậy mà ở đây toàn thấy là sự luộm thuộm, lôi thôi. Đảo chữ "lôi thôi" lên đầu câu để nhấn mạnh cái sự nhếch nhác của các sĩ tử trong mùa thi hương lần này. Gợi lên sự xiêu vẹo, sự đổ gãy, lếch thếch của những kẻ sau này vốn sẽ trở thành những trụ cột tương lai của đất nước.
- Ậm ọe quan trường miệng thét loa: Cái âm thanh "ậm ọe" ấy chỉ là những thanh âm ú ớ, không rõ tiếng rõ lời, nhưng lại được gân lên bằng sự la lối của đám quan lại trường thi. Sự trang trọng trong việc gọi tên vào thi của kì thi hương ấy đã bị những kẻ làm quan kia lấn át, làm lu mờ bởi sự phách lối, vênh váo của những kẻ dựa hơi mà chẳng có chút thực quyền nào.
=> Hai câu thơ đối nhau làm nổi bật lên khung cảnh của trường thi. Nhưng trong đó, người ta thấy không chỉ là bóng dáng của trường thi với kì thi hương mà còn thấy khung cảnh hỗn tạp, nhốn nháo của đất nước khi rơi vào tình nửa thực dân nửa phong kiến.
3. Hai câu luận: Những ông to bà lớn đến trường thi
"Lọng cắm rợp trời, quan sứ đến,
Váy lê quét đất, mụ đầm ra".
- Hình ảnh của một "ông Tây" với "bà đầm" phản ánh thật đúng với cái tình cảnh của nước ta thời bấy giờ: người dân trở thành nô lệ, triều đình là một bức bình phong còn thực quyền ở trong tay người Pháp.
- Tú Xương đặt cái "váy" của bà đầm và cái "lọng" của ông quan Tây được đặt ngang bằng, ghép hai hình ảnh đó lại, người ta thấy đó là mỉa mai đầy châm biếm.
- Từ "quan sứ" để nói về ông quan tây nhưng lại dùng từ "mụ đầm" khi nói về vợ của ông ta, đây chẳng phải là một sự khinh bỉ, một sự "chơi xỏ" mà Tú Xương dành cho viên Toàn quyền Pháp.
4. Hai câu kết: Thái độ phê bình của nhà thơ với kì thi
“Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.”
- "Đất Bắc" vốn là từ chỉ Hà Nội, là nơi hội tụ của ngàn năm kinh đô, là nơi của bậc đế vương ngự trị.
- "Nhân tài" ở đây là một từ phiếm chỉ, là những kẻ đã từng một lần mơ ước được bước qua cánh cửa thi hương này và cũng là những kẻ đã từng đặt chân đến đây hãy nhìn xem "cảnh nước nhà".
=> Lời thơ như một tiếng than đau xót vô vàn của Tú Xương khi mắt phải nhìn thấy đất nước đang dần rơi vào tay giặc.
>>> Bài tiếp theo: Tóm tắt, bố cục, nội dung chính văn bản Xa ngắm thác núi Lư