Tóm tắt, bố cục, nội dung chính văn bản Lai Tân
Tóm tắt, bố cục, nội dung chính văn bản Lai Tân bộ sách Kết nối tri thức chuẩn nhất gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như bố cục, nội dung chính và tóm tắt văn bản hay nhất giúp học sinh nắm được những nét chính về nội dung của văn bản để học tốt môn Ngữ văn 8.
Bài: Lai tân
Bố cục Lai Tân
Bố cục gồm 2 phần
- Phần 1: (3 câu đầu) là 3 câu tự sự nói về hành vi thường thấy ở 3 viên quan ở Lai Tân.
- Phần 2: (Câu cuối) là một lời kết luận, một nhận xét, đánh giá của tác giả.
Nội dung chính Lai Tân
Bài thơ miêu tả thực trạng thối nát của chính quyền Trung Quốc dưới thời Tưởng Giới Thạch và thái độ châm biếm, mỉa mai sâu cay.
Tóm tắt Lai Tân
Tóm tắt Lai Tân - mẫu 1
Với việc chọn nhân vật, miêu tả chi tiết tinh tế, tạo điểm nhấn ở tiếng cuối mỗi câu. Bài thơ đã phơi bày thực trạng đen tối, thối nát của một xã hội tưởng như là yên ấm, tốt lành
Tóm tắt Lai Tân - mẫu 2
Bài thơ mở ra bức tranh nhà tù Tưởng Giới Thạch thối nát. Ban trưởng đánh bạc là phạm pháp, trắng trợn vi phạm pháp luật, điều này chứng tỏ pháp luật dưới chế độ Tưởng Giới Thạch là giả dối. Hành động cảnh trưởng trấn lột của tù nhân là hành động bẩn thỉu. Huyện trưởng chong bàn đèn thuốc phiện làm công việc là có ý mỉa mai, tố cáo sự đồi bại, vô trách nhiệm. Bài thơ cho thấy thái độ châm biếm, mỉa mai của tác giả. Bài thơ là bức tranh thu nhỏ của xã hội Trung Hoa với lũ quan lại đồi bại, tham nhũng quan liêu.
Ý nghĩa nhan đề Lai Tân
- Lai Tân là tên một địa danh nơi mà Bác đã trải qua trên con đường từ Thiên Giang đến Liễu Châu thuộc tỉnh Quảng Tây.
- Bài thơ mang tên địa danh này là bài thứ 97 trong số 134 bài thơ của tập Nhật kí trong tù, nó cho thấy hiện trạng đen tối, thối nát của một xã hội tưởng là yên ấm, tốt lành.
Giá trị nội dung Lai Tân
Bài thơ miêu tả thực trạng thối nát của chính quyền Trung Quốc dưới thời Tưởng Giới Thạch và thái độ châm biếm, mỉa mai sâu cay.
Giá trị nghệ thuật Lai Tân
- Ngòi bút miêu tả giản dị, chân thực.
- Lối viết mỉa mai sâu cay.
- Bút pháp trào phúng.
Đọc tác phẩm Lai Tân
Phiên âm:
Giam phòng ban trưởng thiên thiên đổ,
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền;
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự,
Lai Tân y cựu thái bình thiên.
Dịch nghĩa:
Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc,
Cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị áp giải;
Huyện trưởng chong đèn làm việc công,
Lai Tân vẫn thái bình như xưa.
Dịch thơ:
Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh;
Chong đèn, huyện trưởng làm công việc,
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.
Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Lai Tân
1. Ba câu thơ đầu
- Sử dụng kiểu câu tự sự, với giọng điệu kể khách quan, không hề có sự bình luận hay bộc lộ thái độ của tác giả.
- Ba câu thơ đầu tác giả nói đến ba đối tượng khác nhau trong hệ thống quan lại Trung Quốc, cụ thể trong bối cảnh nhà giam Lai Tân thời điểm bấy giờ.
+ Câu 1: Ban trưởng nhà lao: chuyên đánh bạc.
• Con người thực thi của pháp luật nhà tù, cai quản tù nhân, thế mà lại là một người ham đánh bạc.
• Hai chữ “thiên thiên” cho thấy sự việc, hành động diễn ra một cách thường xuyên, ngày này qua ngày khác, đều đặn như một thói quen, như một lẽ hiển nhiên.
→ Dưới ngòi bút của Hồ Chí Minh, nhà tù Tưởng Giới Thạch không phải là nơi giam giữ và cải tạo tù nhân mà là một sòng bạc với những con bạc lại là những người thực thi pháp luật. Hình ảnh nhà tù bên ngoài thì nghiêm minh nhưng bên trong thì giả dối, bất công, phi lí.
+ Câu 2: Cảnh trưởng tham lam ăn tiền của phạm nhân.
• Hành động cảnh trưởng là hành động của một tên ăn cướp, hành động của một tên trấn lột, ăn chặn bẩn thỉu và tàn nhẫn. Cái nực cười mỉa mai nhất là hành động này lại diễn ra ở chốn ngục tù, giữa cảnh trưởng và tù nhân. Tù nhân thì làm gì có tiền thế mà chúng cũng chẳng tha.
• Thái độ của tác giả khi phản ánh thực trạng này rất thẳng thắn, dứt khoát, trực diện. Điều đó thể hiện qua hai chữ “tham thôn” được sử dụng với đúng nghĩa của nó.
→ Hành động của cảnh trưởng đã nói hết sự thối nát, đê tiện của nhà tù dưới thời Tưởng Giới Thạch.
+ Câu 3: Nói về việc làm của huyện trưởng. Câu này có nhiều cách hiểu.
• Huyện trưởng chong đèn làm việc công; rất có thể là viên quan mẫn cán nhưng quan liêu, bằng chứng là dung túng cho bộ hạ (ban trưởng, cảnh trưởng) làm điều sằng bậy.
• Thực chất huyện trưởng chong đèn là để hút thuốc phiện.
→ Nếu hai câu trên tác giả vạch trần bộ mặt bọn quan lại một cách trực diện thì ở câu này, Người lại sử dụng nghệ thuật châm biếm sắc sảo, sâu cay.
=> Tóm lại chỉ qua ba câu thơ Hồ Chí Minh đã khái quát được sự thối nát của bộ máy chính quyền nơi đây. Các bộ máy chính quyền ấy chính là bộ mặt của xã hội Trung hoa dưới thời giặc Tưởng. Ở xã hội ấy, sự phi lý chồng chất, sự bất công chồng chất, sự thối nát chồng chất, nó diễn ra ở mọi chỗ, mọi việc, mọi lúc.
2. Câu thơ cuối bài
- Câu thơ cuối không đi theo mạch logic cua ba câu thơ trên. Câu cuối có thể hiểu “trời đất Lai Tân vẫn thái bình như cũ”. Thoạt nhìn tưởng như câu thơ thể hiện một sự hài lòng, một lời ca ngợi. Nhưng thực chất là sự mỉa mai, châm biếm của tác giả.
- Thái bình mà tác giả muốn ám chỉ ở đây là:
+ Thái bình đối với bọn quan lại thối nát, đê tiện, nhiễu nhương, bởi bọn chúng vẫn ngày ngày được đánh bạc, được ăn hối lộ và hút thuốc phiện, không cần quan tâm dân tình ra sao. Điều đó càng khắc sâu thêm tình trạng thối nát đã trở thành một “nề nếp” diễn ra thường xuyên, bình ổn trong bộ máy chính quyền Lai Tân.
+ Bài thơ được viết cuối năm 1942 là lúc cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đang ở thời kì ác liệt, phát xít Nhật xâm lược Trung Quốc, biết bao biến động, biết bao tang thương, vậy mà bọn người này vẫn bình chân, vẫn cứ thấy Lai Tân thái bình. Điều đó có cho thấy sự tàn ác, nhẫn tâm của tầng lớp quan lại Trung Quốc.
- Hai chữ “thái bình” được xem là nhãn tự của bài thơ, Hoàng Trung Thông nhận xét: “Hai chữ thái bình mà thâu tóm lại bao nhiêu việc làm trên là muôn thuở của xã hội Trung Quốc, của giai cấp bóc lột thống trị. Chỉ hai chữ ấy mà xé toang tất cả mọi thái bình trá nhưng thực chất là đại loạn ở bên trong”.
→ Với giọng thơ có vẻ bình thản vô cảm nhưng kì thực là mỉa mai, đả kích mạnh mẽ, Hồ Chí Minh đã tố cáo sự thối nát của bộ máy chính quyền đã đến mức trầm trọng, trở thành phổ biến, trở thành nếp sống trên đất nước Trung Hoa.
>>> Bài tiếp theo: Tóm tắt, bố cục, nội dung chính văn bản Một số giọng điệu của tiếng cười trong thơ trào phúng