Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Bình giảng bài thơ "Vịnh khoa thi Hương” của Tú Xương

Văn mẫu lớp 11: Bình giảng bài thơ "Vịnh khoa thi Hương” của Tú Xương gồm các dạng văn mẫu được sưu tầm nhằm giúp các em học sinh cùng quý thầy cô tham khảo, củng cố kỹ năng cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.

1. Dàn ý bình giảng bài thơ "Vịnh khoa thi Hương”

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Tế Xương và bài thơ Vịnh khoa thi hương : Trong hệ thống tác phẩm đồ sộ của ông có bài thơ đặc sắc“Vịnh khoa thi Hương”

2. Thân bài

Hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ: Hoàn cảnh đất nước ta lúc bấy giờ vô cùng rối ren, thực dân Pháp xâm lược, xã hội phong kiến thối nát

Bức tranh trường thi kì thi khoa Hương năm Đinh Dậu: Từ “lẫn” đã được tác giả sử dụng như một sự mỉa mai, đoán trước được sự hỗn tạp trong thi cử năm nay

Nỗi lòng của tác giả đối với tình cảnh đất nước: Tế Xương cất tiếng cười mỉa mai nhưng đầy đau xót, buồn thương cho sự nhục nhã của giới trí thức và toàn dân tộc

Một số nét tiêu biểu về nghệ thuật: Bằng sự kết hợp khéo léo giữa châm biếm đả kích và trữ tình, tác giả không chỉ vẽ nên bức tranh hỗn loạn bát nháo của kì thi năm Đinh Dậu

3. Kết bài

Ý nghĩa bài thơ Vịnh khoa thi hương: Bài thơ “Vịnh khoa thi Hương” đã giúp cho người đọc thấy được một tâm trạng lo lắng, thái độ của tác giả.

2. Bình giảng bài thơ "Vịnh khoa thi Hương” của Tú Xương mẫu 1

Tú Xương sinh năm 1870, đến năm 15 tuổi đã bắt đầu đi thi. Khoa Ất Dậu 1885, không đỗ. Khoa Mậu Tí 1888, khoa Tân Mão 1891 đều hỏng. Khoa Giáp Ngọ 1894, chỉ đỗ tú tài, năm đó ông mới 24 tuổi và từ đó đã chính thức thành danh là Tú Xương. Ông có câu thơ nói về mùi vị chuyện khoa danh: "Thi không ăn ớt thế mà cay". Sau đó, Tú Xương còn vác lều chõng thi tiếp bốn khoa nữa: Khoa Đinh Dậu 1897, khoa Canh Tí 1900, Khoa Quý Mão (1903) và khoa Bính Ngọ 1906. Nguyễn Tuân nói: "Thế rồi Tú Xương mất vào đầu năm sau (1907). Tức là Tú Xương thi chết thôi, thi cho dân chết mới thôi".

"Một việc văn chương thôi cũng nhảm,

Trăm năm thân thế có ra gì?".

(Buồn thi hỏng)

Khoa thi Đinh Dậu đối với Tú Xương có một ý nghĩa đặc biệt: nhiều hăm hở và hi vọng. Khoa thi trước (khoa Giáp Ngọ, 1894) ông đã đỗ tú tài nên khoa thi này ông hi vọng sẽ đỗ cử nhân bước lên đài danh vọng: "Võng anh đi trước, võng nàng theo sau".

Nhan đề bài thơ còn có một cái tên khác: "Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu". Bài thơ miêu tả lễ xướng danh khoa thi Hương tại trường Nam năm 1897, qua đó nói lên nỗi nhục mất nước và niềm chua xót của kẻ sĩ đương thời.

Hai câu đề giới thiệu một nét mới của khoa thi Đinh Dậu:

"Nhà nước ba năm mở một khoa,

Trường Nam thi lẫn với trường Hà".

Việc thi cử ngày xưa là của vua, của triều đình nhằm mục đích kén chọn kẻ sĩ tài giỏi, chọn nhân tài ra làm quan giúp vua, giúp nước. Bấy giờ nước ta đã bị thực dân Pháp thống trị. việc thi cử vẫn còn thi chữ Hán theo lệ cũ "ba năm mở một khoa" nhưng đã cuối mùa. Và kẻ chủ xướng ra các khoa thi ấy là nhà nước - là chính phủ bảo hộ. Câu thơ thứ hai nêu lên tính chất hỗn tạp của kì thi này: "Trường Nam thi lẫn với trường Hà". Đời Nguyễn, ở Bắc Kì có hai trường thi Hương là trường thi Hà Nội và trường thi Nam Định. Tây thực dân chiếm trường thi Hà Nội, nên mới có chuyện sĩ tử Hà Nội phải thi lẫn với trường Hà như thế. Theo Nguyễn Tuân cho biết, khoa thi 1894, trường thi Nam Định có mười một ngàn sĩ tử, lấy đỗ 60 cử nhân và 200 tú tài. Tú Xương đỗ tú tài khoa thi đó. Chắc chắn khoa thi Hương năm Đinh Dậu số người dự thi còn đông hơn nhiều!

Hai câu thực miêu tả cảnh nhập trường và xướng danh bằng hai nét vẽ rất đặc sắc. Vì là người trong cuộc nên Tú Xương mới làm nổi bật cái thần của quang cảnh trường thi như vậy. Dáng hình sĩ tử thì "vai đeo lọ" trông thật nhếch nhác, "lôi thôi". Sĩ tử là người đi thi, là những trí thức trong xã hội phong kiến từng theo nghiệp bút nghiên. Trong đám sĩ tử "lôi thôi" sẽ xuất hiện những ông cử, ông tiến sĩ, ông tú nay mai. Câu thơ "Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ" là một cảnh hài hước, chua chát. Đảo ngữ hai chữ "lôi thôi" lên đầu câu thơ gây ấn tượng nhếch nhác đáng buồn: "vai đeo lọ". Lọ mực hay lọ đựng nước uống trong ngày thi? Đạo học (chữ Hán) đã cuối mùa, "Sĩ khí rụt rè gà phải cáo - Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi" nên trường thi mới có hình ảnh mỉa mai: "Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ" ấy!

Nét vẽ thứ hai cũng thật tài tình:

"Ậm oẹ quan trường miệng thét loa".

Ậm oẹ nghĩa là ra bộ nạt nộ, hăm dọa. Cấu trúc câu thơ đảo ngữ đưa hai tiếng tượng thanh "ậm oẹ" lên đầu câu thơ để làm nổi bật hình ảnh các quan trường "miệng thét loa". Trường thi không còn là chốn tôn nghiêm nền nếp nữa, quá lộn xộn, quá ồn ào, khác nào cảnh họp chợ, nên quan trường mới "ậm oẹ" và "thét loa" như thế. Tú Xương đối rất chỉnh làm hiện lên hai hình ảnh trung tâm của trường thi. Sĩ tử thì lôi thôi nhếch nhác, mất đi cái vẻ nho nhã thư sinh. Quan trường, giám thị, giám khảo cũng chẳng còn cái phong thái nghiêm trang, trịnh trọng vốn có. Bức tranh nhị bình biếm họa độc đáo này gợi lại cảnh hoàng hôn của chế độ phong kiến ở nước ta:

"Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,

Ậm oẹ quan trường miệng thét loa".

Hai câu luận tô đậm bức tranh "Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu" bằng hai bức biếm họa về ông Tây và mụ đầm. Tài liệu cũ cho biết, năm đó toàn quyền Paul Doumer và vợ chồng tên công sứ Nam Định Le Normand đã đến dự. Các ông cử tân khoa, các ông tú mền, tú kép... phải cúi rạp mình xuống mà lạy ông Tây, lạy mụ đầm "váy lê quét đất", "trên ghế, ngồi đít vịt". Cái nhục của hàng vạn sĩ tử Bắc Hà không thể nào kể hết:

"Lọng cắm rợp trời, quan sứ đến,

Váy lê quét đất, mụ đầm ra".

Tây thực dân đang đè đầu cưỡi cổ dân ta. Hình ảnh "Lọng cắm rợp trời" gợi tả cảnh đón tiếp dành cho "quan sứ”, lũ ăn cướp đất nước ta, một nghi lễ cực kì long trọng. Đó là nỗi đau mất nước. Từ xưa tới năm ấy (1897) chốn trường thi là nơi tôn nghiêm, lễ giáo phong kiến vốn trọng nam khinh nữ, đàn bà đâu được bén mảng đến nơi kén chọn nhân tài. Thế mà bây giờ, không chỉ "mụ đầm ra" mụ đầm đến với "váy lê quét đất" mà còn bày ra giữa thanh thiên bạch nhật một nghịch cảnh vô cùng nhục nhã:

“Trên ghế, bà đầm ngoi đít vịt

Dưới sân, ông cử ngỏng đầu rồng”.

Nguyễn Tuân đã nói về nỗi nhục đó như sau: "Không đỗ cũng cực, mà đỗ để phải phủ phục xuống mà lạy tây, lạy cả đầm, thì quá là nhục".

Vịnh khoa thi Hương năm Đinh Dậu nếu thiếu đi hai hình ảnh ông Tây mụ đầm, bức tranh biếm họa coi như chẳng còn gì. Nghệ thuật đối của Tú Xương đã làm tăng sức hấp dẫn cho phong cách hiện thực của Tú Xương. Và nhờ có "lọng" đối với "váy", "quan" đối với "mụ" mà giọng cười, lối cười, hương cười, sắc cười (chữ của Nguyễn Tuân) của câu thơ Tú Xương kế thừa cái cười dân tộc trong ca dao, trong tuồng, chèo cổ. Có hiểu được rằng lọng là một thứ nghi trượng (cờ, biển, tán, tàn, võng, lọng,...) cao sang được dùng trong nghi lễ đón rước cúng tế lại được đem đối với váy (đồ dơ), mới thấy nghệ thuật trào phúng độc đáo trong phép đối của Tú Xương. Nỗi đau, nỗi nhục mất nước được cực tả một cách cay đắng, lạnh lùng qua cặp câu luận này.

Nguồn mạch trữ tình như được chiết xuất ra từ những điều mắt thấy tai nghe, từ những nhố nhăng, lôi thôi, lộn xộn trong ngoài, trên dưới nơi trường Nam khoa thi năm Đinh Dậu:

"Nhân tài đất Bắc nào ai đó,

Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”.

Câu thơ như một lời than; trong lời kêu gọi hàm chứa bao nỗi xót xa, tủi nhục và cay đắng. Nhân tài đất Bắc là những ông nghè, ông cống, những con người có lòng tự tôn dân tộc,... ở vùng Sơn Nam, ở Kinh kì Thăng Long ngàn năm văn hiến, nơi hội tụ nhân tài, tinh hoa của đất nước. Ba tiếng "nào ai đó" phiếm chỉ càng làm cho tiếng than, lời kêu gọi trở nên thấm thía, lay gọi thức tỉnh. Chữ "ngoảnh cổ" gợi tả một thái độ, một tâm thế không thể cam tâm sống nhục mãi trong cảnh đời nô lệ. Phải biết "ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà". "Cảnh nước nhà" là cái cảnh nhục nhã:

”Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu...

(...) Kẻ chức bồi, người tước cu li

Thông ngôn, kí lục chi chi

Mãn đời lính tập, trọn vì quan sang!”.

(Á tế Á ca)

Tú Xương là một trong hàng vạn sĩ tử dự khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Ông là người tham dự, là người chứng kiến,... Từ nỗi đau của người thi hỏng mà ông ngẫm về cái nhục của sĩ tử, của trí thức, của nhân tài đất Bắc. Nỗi đau nhục về mất nước như ngưng đọng uất kết lại thành tiếng thở dài, lời than, có cả những dòng lệ...

Bài thơ "Vịnh khoa thi Hương" vừa tả cảnh "nhập trường ', vừa tá cảnh "lễ xướng danh", qua đó nói lên tâm trạng đau đớn, chua xót của nhà thơ. Một hiện thực đau buồn, nhốn nháo, nhố nhăng. Và trữ tình thấm thía bao cay đắng tủi nhục. Chất thơ, hồn thơ, phong cách thơ Tú Xương là như thế!

Bình về bài thơ này, Nguyễn Tuân viết: "... thơ nói về trường thi của Tú Xương giống như những lời thanh nghị của một lớp sĩ phu thời đó. Không đánh được ai bằng khí giới, thì ít nhất cũng phải lấy bút ra mà vẩy cái mực sĩ khí vào những nghè, những cứ bịt mũi xu thời!

3. Bình giảng bài thơ "Vịnh khoa thi Hương” của Tú Xương mẫu 2

Trong nền văn học trung đại Việt Nam, Tú Xương là một gương mặt thơ nổi bật với những cách tân mới mẻ. Cùng với hai mảng đề tài về xã hội Nam Định buổi giao thời và cảnh đời tư thì thực trạng thi cử cũng là đề tài mà ông quan tâm phản ánh. Ông đã để lại 13 bài thơ và phú về vấn đề “thi cử”, trong đó nổi bật là bài thơ “Vịnh khoa thi Hương”. Tác phẩm đã thể hiện rõ thực trạng xã hội thực dân nửa phong kiến Việt Nam đang dần mục nát lúc bấy, đồng thời thể hiện tiếng cười trào phúng chua chát, sâu cay của tác giả.

Mở đầu bài thơ, hai câu đề đã miêu tả về kì thi năm Đinh Dậu hết sức tự nhiên:

“Nhà nước ba năm mở một khoa

Trường Nam thi lẫn với trường Hà”

Kì thi Hương được tổ chức vẫn theo thông lệ bình thường về thời gian nhưng lại có sự bất thường về không gian. Đó là việc trường Nam “thi lẫn” với trường Hà. Tác giả đã sử dụng từ “lẫn” để thể hiện sự lẫn lộn, hỗn tạp, nhốn nháo, lộn xộn của việc thi cử lúc bấy giờ. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, các sĩ tử từ Hà Nội phải về Nam Định để thi. Tiếp theo, ở hai câu thực, tác giả đã miêu tả khung cảnh trường thi một cách hài hước:

“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ

Ậm ọe quan trường miệng thét loa”

Cuộc thi Hương là một cuộc thi mang tầm cỡ quốc gia, lẽ ra không khí trường thi cần phải trong trọng, nghiêm ngặt nhưng tại kì thì năm Đinh Dậu, không gian trường thi hiện lên với sự hỗn độn và không có quy củ. Hình tượng trung tâm của kì thi là “sĩ tử” được miêu tả trong trạng thái “lôi thôi”. Tác giả đã sử dụng biện pháp đảo trật tự cú pháp câu: “Lôi thôi sĩ tử”, “Ậm ọe quan trường” đã làm nổi bật tính chất ô hợp của kì thì. Tú Xương nhận thức được sự sa sút của tầng lớp nho sĩ trước sự xâm lăng của nền văn hóa phương Tây. Ông đã không ít lần nói về điều này:

“Đạo học làng ta đã chán rồi

Mười người đi học chín người thôi”

(“Than đạo học”)

Hình ảnh sĩ tử với bộ dạng đáng thương hại cũng từng được đề cập đến:

“Sĩ tử rụt rè gà phải cáo

Văn trường liều lĩnh đấm ăn xôi”

(“Than đạo học”)

Tầng lớp nho sĩ cuối mùa với sự xuống cấp về số lượng cũng như chất lượng đã thể hiện rõ sự ý thức về bối cảnh xã hội rối ren, mục nát của tác giả. Cùng viết về tầng lớp nho sĩ nhưng cách miêu tả của Tú Xương khác với Nguyễn Khuyến. Nếu cụ Tam nguyên Yên đổ phác họa sự “hữu danh vô thực” của tầng lớp này dựa trên mâu thuẫn nội tại, tự thân tạo nên những hình tượng như “tiến sĩ giấy”, “ông nghè mới đỗ”,… thì Tú Xương khai thác mâu thuẫn bên ngoài, những tác động bên ngoài, chú ý vào những cảnh tượng phi lí vẫn diễn ra hằng ngày trong cuộc sống xã hội. Và hiện thực được miêu tả chua chát hơn, sắc thái châm biếm trở nê thâm thúy hơn khi có sự xuất hiện của vợ chồng quan sứ:

“Cờ cắm rợp trời quan sứ đến

Váy lê quét đất mụ đầm ra”

Biện pháp đảo ngữ đã được tác giả sử dụng kết hợp với thủ pháp đối, đem “cờ” che đầu quan sứ đối lập với “váy lê quét đất” của bà đầm khắc họa sự lố bịch của tầng lớp quan lại. Nơi khoa trường vốn đã ô hợp, hỗn độn giờ đây trở nên nhốn nháo hơn. “Cờ cắm rợp đường” không làm cho không khí long trọng mà chỉ làm cho hình ảnh quan sứ và mụ đầm hiện lên phô trương và hình thức. Xuất hiện tại một cuộc thi là một vị quan sứ ngoại bang không biết gì về nho học. Trong bài thơ “Ông cử nhu”, tác giả đã từng lên án thói dốt nát nhưng lại xuất hiện tại những nơi cần tới sự hiểu biết: “Sách cũ hũ nát, chữ như mù”. Chất lượng sĩ tử đi xuống, cùng với đó là sự giảm sút về chất lượng chấm thi đã vẽ nên một thực trạng đáng báo động và chua chát.

Sau khi châm biếm, mỉa mai, hai câu thơ cuối đột ngột chuyển sang giọng điệu trữ tình:

“Nhân tài đất Bắc nào ai đó

Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”

Câu hỏi phiếm chỉ “Nhân tài đất Bắc nào ai đó” vừa là lời tự vấn, vừa là lời nhắn nhủ đến những sĩ tử, những nhân tài hãy thức tỉnh để trông lại nỗi nước nhà. Tâm sự đó xuất phát từ tấm lòng của một nhà nho ý thức được thời cuộc, đồng thời mang trong mình ý thức dân tộc vô cùng mãnh liệt. Đó còn là ý thức sâu sắc về sự suy tàn của nho học, sự xâm lấn của nền văn hóa phương tây nhưng chưa đủ sức thay thế.

Tú Xương là một trong những nhà nho lận đận trong thi cử. Phải chăng từ bi kịch cá nhân đó mà tác giả đã có nhìn vô cùng thực tế về số phận tầng lớp nho sĩ đương thời và nền văn hóa truyền thống đang suy tàn. Giọng điệu trào phúng của ông mạnh mẽ, quyết liệt hướng thẳng đến đối tượng cần châm biếm là sự mục rỗng của xã hội thực dân nửa phong kiến đã làm nên sắc thái mỉa mai chua chát: “Và Tú Xương cười gằn trong mảnh vỡ thủy tinh” (Chế Lan Viên).

4. Bình giảng bài thơ "Vịnh khoa thi Hương” của Tú Xương mẫu 3

Tú Xương sinh năm 1870, đến năm 15 tuổi đã bắt đẩu đi thi. Khoa Ât Dậu 1885, không đỗ. Khoa Mậu Tí 1888, khoa Tân Mão 1891 đều hỏng. Khoa Giáp Ngọ 1894, chỉ đỗ tú tài, năm đó ông mới 24 tuổi và từ đó đã chính thức thành danh là Tú Xương. Ông có câu thơ nói về mùi vị chuyện khoa danh: "Thi không ăn ớt thế mà cay". Sau đó, Tú Xương còn vác lều chõng thi tiếp bốn khoa nữa: Khoa Đinh Dậu 1897, khoa Canh Tí 1900, Khoa Quý Mão (1903) và khoa Bính Ngọ 1906. Nguyễn Tuân nói: "Thế rồi Tú Xương mất vào đầu năm sau (1907). Tức là Tú Xương thi chết thôi, thi cho dân chết mới thôi".

"Một việc văn chương thôi cũng nhảm,

Trăm năm thân thế có ra gì?".

(Buồn thi hỏng)

Khoa thi Đinh Dậu đối với Tú Xương có một ý nghĩa đặc biệt: nhiều hăm hở và hi vọng. Khoa thi trước (khoa Giáp Ngọ, 1894) ông đã đỗ tú tài nên khoa thi này ông hi vọng sẽ đỗ cử nhân bước lên đài danh vọng: "Võng anh đi trước, võng nàng theo sau".

Nhan đề bài thơ còn có một cái tên khác: "Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu". Bài thơ miêu tả lễ xướng danh khoa thi Hương tại trường Nam năm 1897, qua đó nói lên nỗi nhục mất nước và niềm chua xót của kẻ sĩ đương thời.

Hai câu đề giới thiệu một nét mới của khoa thi Đinh Dậu:

"Nhà nước ba năm mở một khoa,

Trường Nam thi lẫn với trường Hà".

Việc thi cử ngày xưa là của vua, của triều đình nhằm mục đích kén chọn kẻ sĩ tài giỏi, chọn nhân tài ra làm quan giúp vua, giúp nước. Bấy giờ nước ta đã bị thực dân Pháp thống trị. việc thi cử vẫn còn thi chữ Hán theo lệ cũ "ba năm mở một khoa" nhưng đã cuối mùa. Và kẻ chủ xướng ra các khoa thi ấy là nhà nước - là chính phủ bảo hộ. Câu thơ thứ hai nêu lên tính chất hỗn tạp của kì thi này: "Trường Nam thi lẫn với trường Hà". Đời Nguyễn, ở Bắc Kì có hai trường thi Hương là trường thi Hà Nội và trường thi Nam Định. Tây thực dân chiếm trường thi Hà Nội, nên mới có chuyện sĩ tử Hà Nội phải thi lẫn với trường Hà như thế. Theo Nguyễn Tuân cho biết, khoa thi 1894, trường thi Nam Định có mười một ngàn sĩ tử, lấy đỗ 60 cử nhân và 200 tú tài. Tú Xương đỗ tú tài khoa thi đó. Chắc chắn khoa thi Hương năm Đinh Dậu số người dự thi còn đống hơn nhiều!

Hai câu thực miêu tả cảnh nhập trường và xướng danh bằng hai nét vẽ rất đặc sắc. Vì là người trong cuộc nên Tú Xương mới làm nổi bật cái thần của quang cảnh trường thi như vậy. Dáng hình sĩ tử thì "vai đeo lọ" trông thật nhếch nhác, "lôi thôi". Sĩ tử là người đi thi, là những trí thức trong xã hội phong kiến từng theo nghiệp bút nghiên. Trong đám sĩ tử "lôi thôi" sẽ xuất hiện những ông cử, ông tiến sĩ, ông tú nay mai. Câu thơ "Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ" là một cảnh hài hước, chua chát. Đảo ngữ hai chữ "lôi thôi" lên đầu câu thơ gây ấn tượng nhếch nhác đáng buồn: "vai đeo lọ". Lọ mực hay lọ đựng nước uống trong ngày thi? Đạo học (chữ Hán) đã cuối mùa, "Sĩ khí rụt rè gà phải cáo - Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi" nên trường thi mới có hình ảnh mỉa mai: "Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ" ấy!

Nét vẽ thứ hai cũng thật tài tình:

"Ậm oẹ quan trường miệng thét loa".

Ậm oẹ nghĩa là ra bộ nạt nộ, hăm dọa. Cấu trúc câu thơ đảo ngữ đưa hai tiếng tượng thanh "ậm oẹ" lên đầu câu thơ để làm nổi bật hình ảnh các quan trường "miệng thét loa". Trường thi không còn là chốn tôn nghiêm nền nếp nữa, quá lộn xộn, quá ồn ào, khác nào cảnh họp chợ, nên quan trường mới "ậm oẹ" và "thét loa" như thế. Tú Xương đối rất chỉnh làm hiện lên hai hình ảnh trung tâm của trường thi. Sĩ tử thì lôi thôi nhếch nhác, mất đi cái vẻ nho nhã thư sinh. Quan trường, giám thị, giám khảo cũng chẳng còn cái phong thái nghiêm trang, trịnh trọng vốn có. Bức tranh nhị bình biếm họa độc đáo này gợi lại cảnh hoàng hôn của chế độ phong kiến ở nước ta:

"Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,

Ậm oẹ quan trường miệng thét loa".

Hai câu luận tô đậm bức tranh "Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu" bằng hai bức biếm họa về ông Tây và mụ đầm. Tài liệu cũ cho biết, năm đó toàn quyền Paul Doumer và vợ chồng tên công sứ Nam Định Le Normand đã đến dự. Các ông cử tân khoa, các ông tú mền, tú kép... phải cúi rạp mình xuống mà lạy ông Tây, lạy mụ đầm "váy lê quét đất", "trên ghế, ngồi đít vịt". Cái nhục của hàng vạn sĩ tử Bắc Hà không thể nào kể hết:

"Lọng cắm rợp trời, quan sứ đến,

Vác lê quét đất, mụ dầm ra".

Tây thực dân đang đè đầu cưỡi cổ dân ta. Hình ảnh "Lọng cắm rợp trời" gợi tả cảnh đón tiếp dành cho "quan sứ', lũ ăn cướp đất nước ta, một nghi lễ cực kì long trọng. Đó là nỗi đau mất nước. Từ xưa tới năm ấy (1897) chốn trường thi là nơi tôn nghiêm, lễ giáo phong kiến vốn trọng nam khinh nữ, đàn bà đâu được bén mảng đến nơi kén chọn nhân tài. Thế mà bây giờ, không chỉ "mụ đầm ra" mụ đầm đến với "váy lê quét đất" mà còn bày ra giữa thanh thiên bạch nhật một nghịch cảnh vô cùng nhục nhã:

'Trên ghế, bà đầm ngoi đít vịt

Dưới sân, ông cử ngỏng đầu rồng”.

Nguyễn Tuân đã nói về nỗi nhục đó như sau: "Không đỗ cũng cực, mà đỗ để phải phủ phục xuống mà lạv tây, lạy cả đầm, thì quá là nhục".

Vịnh khoa thi Hương năm Đinh Dậu nếu thiếu đi hai hình ảnh ông Tây mụ đầm, bức tranh biếm họa coi như chang còn gì. Nghệ thuật đối của Tú Xương đã làm tăng sức hấp dẫn cho phong cách hiện thực của Tú Xương. Và nhờ có "lọng" đối với "váy", "quan" đối với "mụ" mà giọng cười, lối cười, hương cười, sắc cười (chữ của Nguyễn Tuân) của câu thơ Tú Xương kế thừa cái cười dân tộc trong ca dao, trong tuồng, chèo cổ. Có hiểu được rằng lọng là một thứ nghi trượng (cờ, biển, tán, tàn, võng, lọng,...) cao sang được dùng trong nghi lễ đón rước cúng tế lại được đem đối với váy (đồ dơ), mới thấy nghệ thuật trào phúng độc đáo trong phép đối của Tú Xương. Nỗi đau, nỗi nhục mất nước được cực tả một cách cay đắng, lạnh lùng qua cặp câu luận này.

Nguồn mạch trữ tình như được chiết xuất ra từ những điều mắt thấy tai nghe, từ những nhố nhăng, lôi thôi, lộn xộn trong ngoài, trên dưới nơi trường Nam khoa thi năm Đinh Dậu:

"Nhân tài đất Bắc nào ai đó,

Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”.

Câu thơ như một lời than; trong lời kêu gọi hàm chứa bao nỗi xót xa, tủi nhục và cay đắng. Nhân tài đất Bắc là những ông nghè, ông cống, những con người có lòng tự tôn dân tộc,... ở vùng Sơn Nam, ở Kinh kì Thăng Long ngàn năm văn hiến, nơi hội tụ nhân tài, tinh hoa của đất nước. Ba tiếng "nào ai đó" phiếm chỉ càng làm cho tiếng than, lời kêu gọi trở nên thấm thía, lay gọi thức tỉnh. Chữ "ngoảnh cổ" gợi tả một thái độ, một tâm thế không thể cam tâm sống nhục mãi trong cảnh đời nô lệ. Phải biết "ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà". "Cảnh nước nhà" là cái cảnh nhục nhã:

”Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu...

(...) Kẻ chức bồi, người tước cu li

Thông ngôn, kí lục chi chi

Mãn đời lính tập, trọn vì quan sang!”.

(Á tế Á ca)

Tú Xương là một trong hàng vạn sĩ tử dự khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Ông là người tham dự, là người chứng kiến,... Từ nổi đau của người hỏng thi mà ông ngẫm về cái nhục của sĩ tử, của trí thức, của nhân tài đất Bắc. Nỗi đau nhục về mất nước như ngưng đọng uất kết lại thành tiếng thở dài, lời than, có cả những dòng lệ...

Bài thơ "Vịnh khoa thi Hương" vừa tả cảnh "nhập trường ', vừa tá cảnh "lễ xướng danh", qua đó nói lên tâm trạng đau đớn, chua xót của nhà thơ. Một hiện thực đau buồn, nhốn nháo, nhố nhăng. Và trữ tình thấm thía bao cay đắng tủi nhục. Chất thơ, hồn thơ, phong cách thơ Tú Xương là như thế!

Bình về bài thơ này, Nguyễn Tuân viết: "... thơ nói về trường thi của Tú Xương giống như những lời thanh nghị của một lớp sĩ phu thời đó. Không đánh được ai bằng khí giới, thì ít nhất cũng phải lấy bút ra mà vẩy cái mực sĩ khí vào những nghè, những cứ bịt mũi xu thời! vẩy vào, và than một

Trên đây VnDoc hướng dẫn các bạn học tốt bài Văn mẫu lớp 11: Bình giảng bài thơ "Vịnh khoa thi Hương” của Tú Xương. Ngoài ra các bạn có thể soạn bài Ngữ văn 11 được VnDoc sưu tầm, chọn lọc để học tốt môn Ngữ văn 11.

Mời bạn đọc cùng tham gia nhóm Tài liệu học tập lớp 11 để có thêm tài liệu học tập nhé

Các bài liên quan tác phẩm:

Bài tiếp theo: Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến của Quang Dũng: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,…Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Chia sẻ, đánh giá bài viết
1
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Văn mẫu lớp 11 Kết nối tri thức

    Xem thêm