Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Phân tích lối sống của tác giả bài thơ Bài ca ngất ngưởng

Văn mẫu lớp 11: Phân tích lối sống của tác giả bài thơ Bài ca ngất ngưởng dưới đây được VnDoc.com tổng hợp và sưu tầm gồm các bài văn mẫu lớp 11 hay cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra môn Ngữ văn 11 sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.

Khái quát về tác giả Nguyễn Công Trứ và Bài ca ngất ngưởng

1. Tiểu sử tác giả Nguyễn Công Trứ

Nguyễn Công Trứ tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hi Văn, xuất thân trong một gia đình Nho học quê ở làng Uy Viễn, nay là xã Xuân Giang, Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

Từ nhỏ cho đến năm 1819, ông sống nghèo khó, năm 1819 ông thi đỗ Giải nguyên và được bổ làm quan.

Cuộc đời ông là những thăng trầm trong sự nghiệp. Ông được thăng thưởng quan tước nhiều lần vì những thành tích, chiến công trong quân sự và kinh tế, tới chức thượng thư, tổng đốc; nhưng cũng nhiều lần bị giáng phạt, nhiều lần giáng liền 3-4 cấp như năm 1841 bị kết án trảm giam hậu rồi lại được tha, năm 1843 còn bị cách tuột làm lính thú,…

2. Sự nghiệp văn chương của tác giả Nguyễn Công Trứ

Sáng tác của Nguyễn Công Trứ hầu hết bằng chữ Nôm và bị thất lạc nhiều. Hiện nay sưu tầm được khoảng 150 bài gồm thơ, ca trù, phú. Thể loại ưa thích của ông là hát nói (hát nói là một điệu của ca trù nên có người còn gọi chung là ca trù). Nguyễn Công Trứ là người đầu tiên có công đem đến cho hát nói một nội dung phù hợp với chức năng và cấu trúc của nó.

Thơ văn ông bao hàm nội dung khá phức tạp, kết tinh trạng thái ý thức của một thế hệ nhà nho như Nguyễn Công Trứ. Nhưng tổng quát, thơ ông tập trung vào ba chủ đề chính: Chí nam nhi; cái nghèo và thế thái, nhân tình; triết lí hưởng lạc.

3. Hoàn cảnh sáng tác Bài ca ngất ngưởng

Bài thơ được nhà thơ sáng tác sau năm 1848 khi nhà thơ đã cáo quan về nghỉ hưu ở quê nhà. Nguyễn Công Trứ viết Bài ca ngất ngưởng thể hiện phong cách sống của ông.

Đây là triết lí sống trong suốt cuộc đời, khi còn là một thư sinh, khi xuất chính hay lúc đã về hưu của ông. “Ngất ngưởng” là từ tượng hình có giá trị biểu đạt, diễn tả ở một vị trí cao chênh vênh, không ổn định liên hệ vào con người là một lối sống khác người: ngông nghênh, thách thức với mọi người, vượt thế tục bình thường!

II. Dàn ý phân tích lối sống của tác giả bài thơ Bài ca ngất ngưởng

Dàn ý phân tích lối sống của tác giả bài thơ Bài ca ngất ngưởng mẫu 1

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Nguyễn Công Trứ, bài thơ Bài ca ngất ngưởng và dẫn dắt vào lối sống của tác giả.

2. Thân bài

Vũ trụ nội mạc phi phận sự: khẳng định quan niệm làm trai của Nguyễn Công Trứ, ý thức về bản thân mình, xác định được vị trí của mình trong cuộc đời.

Một chân lí và trở đi trở lại như một mệnh đề quen thuộc trong thơ ông, cho thấy rõ sự tự ý thức về bản thân của chính tác giả.

Nguyễn Công Trứ đã tự xưng danh Thủ khoa, tham tán, Tổng đốc Đông, khẳng định tài bộ (tài năng lớn, nhiều mặt) của mình.

Sự khẳng định bản ngã của Nguyễn Công Trứ, là một phần trong phẩm chất mà ông tự hào gọi là tay ngất ngưởng. Để từ đó ta có thể hiểu ngất ngưởng theo một nghĩa tích cực, trong đó có sự khẳng định bản ngã của chính mình.

Sinh thời Nguyễn Công Trứ là một người biết chơi theo quan niệm sống hết mình và chơi cũng hết mình. Đây là một lối sống phóng túng, không chịu gò bó.

Với Nguyễn Công Trứ một khi đã thoát khỏi vòng danh lợi thì những chuyện được mất, khen chê ở đời xin bỏ ngoài tai, như ngọn gió đông thổi qua → Cái ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ trong đó chứa đựng hạt nhân của phong cách sống phóng túng, hiếm thấy của ông.

Phong thái ung dung yêu đời, thanh cao của nhà nho Nguyễn Công Trứ: tự khẳng định mình là con người trung thần, làm tròn đạo vua tôi, điều này góp phần khẳng định thêm quan niệm về chí làm trai của tác giả ở đầu bài thơ.

Bằng lối so sánh với những bậc anh hùng như Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật... của đời Hán, Tống bên Trung Quốc. Tác giả đã khẳng định tài năng và công lao của mình một cách đĩnh đạc hào hùng.

Cái ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ: thái độ, cách sống của một nhà nho tài tử. Nguyễn Công Trứ có được điều đó xuất phát từ tài năng, thực danh, từ sự làm tròn bổn phận. Vậy cái ngất ngưởng của ông không phải tiêu cực mà sự khẳng định bản ngã của mình, là bản lĩnh dám sống ở đời, và một phong cách sống tài hoa tài tử.

3. Kết bài

Khái quát lại vẻ đẹp của cách nghĩ, lối sống của Nguyễn Công Trứ trong bài thơ; đồng thời nêu cảm nghĩ của bản thân.

Dàn ý phân tích lối sống của tác giả bài thơ Bài ca ngất ngưởng mẫu 2

1. Đặt vấn đề:

- Nguyễn Công Trứ là nhà chính trị, nhà quân sự và nhà thơ thời nhà Nguyễn

- Với bài thơ "Bài ca ngất ngưởng" Nguyễn Công Trứ đã thể hiện mạnh mẽ lối sống ngất ngưởng của mình

2. Giải quyết vấn đề:

- Trong chế độ xưa, cái "nợ công danh" mà nam nhi phải trả đó là cái nợ đeo đẳng suốt cuộc đời người con trai. Có lẽ chính vì thế mà Nguyễn Công Trứ cũng dấn thân vào quan trường. Và cái sống "ngất ngưởng" của tác giả cũng bắt đầu từ đây

- Nhà thơ đã vơ tất cả mọi việc trong thiên hạ vào cái túi phận sự của mình "Vũ trụ nội mạc phi phận sự". Có rất ít nhà nho dám thốt lên câu nói tự tin và đầy bản lĩnh như vậy

- Nhà thơ không ngần ngại, ngượng ngùng khoe với đời về những thành tích trong cuộc đời ông. Đó là những công danh mà hiếm ai đạt được

- Phong cách ngất ngưởng của ông còn được nêu rõ hơn trong câu " Ông Hi văn tài bộ đã vào lồng". Ông tài chí thông minh nhưng coi thường tất cả. Ông coi việc làm quan chỉ như cái nợ trong đời mà thôi

- Chính vì lối sống ngất ngưởng chức vụ ông có nhiều thay đổi: lúc làm quan lúc lại làm lính quèn

- Nguyễn Công Trứ thời trai trẻ từng nhiều lần làm chức cao nhưng ông xem thường chúng, chỉ biết cống hiến cho nhân dân. Tất cả đã tạo nên một Nguyễn Công Trứ đầy ngang tàng, kiêu bạc

- Sự kiện về hưu là một việc làm rất quan trọng với Nguyễn Công Trứ bởi thời điểm này ông sống rất trái khoáy, khác đời. Ông đeo đạc ngựa cho bò, tay cầm kiếm, cung mà giảng dạy từ bi hiền lành

- Nhà thơ còn phá tan cái uy nghi, thiêng liêng của nhà chùa khi đi chùa mà còn dắt theo hầu gái. Không biết bao nhiêu người đánh giá việc làm của ông nhưng ông đều bỏ ngoài tai, bỏ mặc lời khen chê

- Nguyễn Công Trứ không phải là người của Phật của tiên, ông chỉ là một con người không vướng tục

- Ông luôn bày ra sự trái ngược với người khác nhưng lý tưởng ông theo đuổi suốt đời là lòng trung quân. Tổng kết lại đời mình, ông tự rút ra kết luận là nam nhi là phải có trách nhiệm kinh bang tế thế

3. Kết thúc vấn đề:

- "Bài ca ngất ngưởng" là những câu ca nói thay quan niệm, suy nghĩ của Nguyễn Công Trứ về một cuộc sống ngất ngưởng coi tiền tài, danh vọng nhẹ tựa lông hồng.

III. Văn mẫu Phân tích bài thơ Bài ca ngất ngưởng

Phân tích bài thơ Bài ca ngất ngưởng mẫu 1

Trong xã hội phong kiến, cái tôi cá nhân, bản thân nó không được xem là một giá trị đáng coi trọng, thì trên bầu trời văn học trung đại Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX xuất hiện một nhà thơ với cái tôi cá nhân hết sức rõ ràng. Đó là Nguyễn Công Trứ với tác phẩm Bài ca ngất ngưởng.

Bao trùm toàn bộ bài thơ là lối sống ngất ngưởng, khinh đời ngạo thế của tác giả. Những điều kiện lịch sử thời Nguyễn Công Trứ không cho phép đất nước chuyển sang một thời kỳ mới. Vậy là tính cách thì lớn nhưng khuôn khổ vẫn chật hẹp. Nguyễn Công Trứ tuy nhiên với một thứ khuôn phép chuẩn mực của xã hội đẳng cấp phong kiến đã trở thành trái tự nhiên, phi đạo lý bằng những vần thơ ngang ngược, oái oăm, bằng cái tôi ngông nghênh, ngất ngưởng đầy kiêu ngạo của mình:

Đô môn giải tổ chi niên,

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.

Kìa núi phau phau mây trắng,

Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.

Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng. Được mất dương dương người tái thượng, Khen chê phơi phới ngọn đông phong.

Bao trùm bài ca là hình tượng con người ngất ngưởng. Nhưng đó không phải là cái ngất ngưởng của người gàn dở, hợm mình và hợm người mà là cái ngất ngưởng của một con người đầy tự tin và bản lĩnh. Con người ấy ý thức rất rõ về tài năng và phẩm giá của mình. Cái ngất ngưởng rất Nguyễn Công Trứ không phải là kiểu sống ngất ngưởng thông thường mà là một lối sống độc đáo, một vẻ đẹp ngang tàng, phóng túng của một tâm hồn lớn, một nhân cách lớn.

Thái độ sống ngất ngưởng của ông không chỉ lúc làm quan ‘Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông’ mà ngay cả khi rũ áo từ quan, thái độ ấy càng thêm đậm nét. Ông ngất ngưởng trong cung cách sống. Một cách sống khác người, Nguyễn Công Trứ cưỡi bò, đeo nhạc ngựa ung dung trong tư thế:

Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.

Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.

Nguyễn Công Trứ vốn là quan võ quyền sinh sát trong tay, khi đã tháo cũi sổ lồng trở nên từ bi. Và càng độc đáo hơn nữa ngất ngưởng hơn nữa, đủng đỉnh một đôi dì đi thăm chùa chiền trong tâm trạng hết sức thảnh thơi. Nguyễn Công Trứ còn khác người hơn nữa, dẫn theo vài cô đầu đi cùng mình đến nơi vốn chỉ dành cho nam nhi. Có phải nhìn thấy cảnh tượng đó mà Bụt cũng bật cười. Bụt cười, hay người đời cười cái sự ngất ngưởng của mình.

Thái độ khinh đời ngạo thế của ông còn được thể hiện rất rõ ràng trong quan niệm được mất và sự lạc quan bình thản trước cuộc đời:

Được mất dương dương người tái thượng,

Khen chê phơi phới ngọn đông phong.

Trong xã hội phong kiến, một xã hội đầy những khuôn mẫu, lễ nghi hết sức chặt chẽ, quan niệm về cách sống hết sức ngông nghênh, ngất ngưởng rất Nguyễn Công Trứ quả là một sự thách thức, chọc ghẹo cuộc đời. đường như ông muốn chống lại sự vùi dập và bóp nghẹt cái tôi cá nhân của xã hội phong kiến.

Cái vẻ đẹp ngất ngưởng từ bài ca và cuộc đời Nguyễn Công Trứ đã trở thành một cách sống, một mẫu hình in đậm trong các nhà thơ sau này. Ta còn gặp lại cốt cách ấy, hình bóng của ông ở một Tản Đà, một Nguyễn Tuân và một Tú Xương sau này.

Phân tích lối sống của tác giả bài thơ Bài ca ngất ngưởng mẫu 2

Khi đã nghi hưu ở quê nhà. Nguyễn Công Trứ viết Bài ca ngất ngưởng thể hiện phong cách sống của ông. Đây là triết lí sống trong suốt cuộc đời, khi còn là một thư sinh, khi xuất chính hay lúc đã về hưu ủa ông. “Ngất ngưởng” là từ tượng hình có giá trị biểu đạt, diễn tả ở một vị trí cao chênh vênh, không ổn định liên hệ vào con người là một lối sống khác người: ngông nghênh, thách thức với mọi người, vượt thế tục bình thường!Mở đầu là câu thơ chữ Hán thể hiện lí tưởng nhà Nho: Phận sự cua kẻ sĩ là phải coi việc gánh vác trong vũ trụ là bổn phận của mình. Nhà thơ tự xưng mình là ông -ông Hi Văn -đã lần lượt làm các việc: thi đỗ Thủ khoa, khi làm Tham Tẩn Quán vụ Bộ hình, khi làm Tổng Đốc An Hải, lúc làm Đại Tướng Bình Tây, lúc làm Phủ Doãn Thừa Thiên, nhưng ông không ở lâu chức vụ nào vì luôn luôn bị giáng chức.Sự nghiệp như thế thật không hổ thẹn với chí lớn kẻ làm trai: Mặc dầu trên đường công danh có những lúc thang trầm, nhưng cuối cùng ông cũng được ở phẩm tước khá cao dù cái xã hội ấy ông gọi là cái “lồng".Cuộc đời lập nghiệp công danh kéo dài từ năm 1820-1848, ông đã tự chúng to cái tài song toàn về văn võ một cách hiển hách lừng danh, đến nỗi ông không che giấu khi tự thuật về mình: Một tay ngất ngưởng trên hoạn lộ:

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng!

Sau khi làm xong phận sự, ông không ngần ngại cởi trả áo mão triều đình cáo lão về hưu.Quãng đời sau cùng của đời Nguyễn Công Trứ là quãng đời không màng danh lợi, hoàn toàn hưởng nhàn theo sở thích cá nhân. Với một tâm hồn tự do và một cuộc sống độc lập, ông đã tha hồ ngất ngưởng cỡi bò vàng đeo nhạc ngựa tiêu dao đây đó khi chùa, khi núi, lại đèo theo đủng đỉnh một đôi dì. Cách hưởng nhàn hành lạc của ông ở đây thật đến quá quắt, mà có lẽ khôi hài lập dị của một trang nam tử có một thị hiếu riêng, đến nỗi:

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng!

Lối hưởng lạc này có một sinh khí và một tính chất riêng đó là lối hưởng lạc nhập tục theo chiều phóng khoáng cá nhân, không giống một ai, không Tiên không Phật cũng không tục, nhưng vẫn trọn nghĩa vua tôi:

Khi ca, khi tửu, khi các, khi tùng

Không Phật, không Tiên, không vướng tục

Hưởng nhân hành lạc chỉ là thời kì sau cùng của ông khi làm xong phận sự. Ông muốn mọi người hiểu rằng cuộc đời là trung nghĩa. Biết bao lần lên bổng xuống trầm trên hoạn lộ, vì ganh ghét, vì vu cáo, thế mà vẫn giữ vững đức trung quân, ái quốc không hề có một ý tưởng bất mãn.Bời vậy khi về hưu vui thú tuổi già, ông sống với một cõi lòng yên vui bình thản, trên không lỗi với vua, dưới không mất lòng dân chúng. Cho nên khi Tiền Hải, Kim Sơn, lúc chống gậy đến chốn triều đình nghị quốc quân đại sự. Năm Tự Đức thứ 12, ông nghe tin liên quân Pháp, Tây Ban Nha tấn công cửa bể Đà Năng, không quản ngại thân già, ông chống gậy đến chốn triều đình dâng sớ lên vua xin cầm quân chống giặc. Nhưng vua không cho, vì thấy ông đã quá già nua tuổi tác.Tự xét hiểu mình như thế, nên ông kiêu hãnh ghi nhận về mình:

Chẳng Trải, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,

Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung

Trong triều ai ngất ngưởng như ông!

Phải chăng đó là lối sống mang cái “chí khí” “ngất ngưởng”. Chẳng những ông không hề sợ ai chê cười mà còn đầy lòng tự hào về cái “đạo sống ngất ngưởng” đó. Tóm tắt lại có bốn cái “ngất ngưởng’’ nổi bật trong đời ông:

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng!

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng!

Bụt cũng nực cười ông ngất ngượng!

Trong triều ai ngất ngưởng như ông!

Phân tích lối sống của tác giả bài thơ Bài ca ngất ngưởng mẫu 3

Nguyễn Công Trứ, cái tên thật sự quen thuộc và gần gũi mà từ xưa đến nay vẫn được bao người dân Việt Nam nhắc đến như một sự biết ơn trân trọng về công lao khai phá ra hai vùng đất trù phú: Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Ninh Bình). Song không vì thế mà ta có thể quên đi một Nguyễn Công Trứ, nghệ sĩ tài hoa, một nhân cách đã khẳng định được cái bản ngã của chính mình, để từ đó định hình nên một tính cách, một bản lĩnh trong cuộc sống và sáng tạo nghệ thuật. Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Cõng Trứ sẽ cho ta thấy rõ cái bản lĩnh riêng không thể trộn lẫn ấy của ông.

Theo Từ điển Tiếng Việt, ngất ngưởng được hiểu là ở thế không vững lắc lư, nghiêng ngả như chực ngã. Tuy nhiên hai chữ ngất ngưởng trong bài thơ này của Nguyễn Công Trứ cần được hiểu theo một cách khác, ở đây ngất ngưởng cần hiểu gắn với một cách sống, một thái độ sống. Có như vậy ta mới có thể hiểu được về con người Nguyễn Công Trứ - một con người có lối sống khác người, bất chấp mọi thế lực ở đời, một lối sống được khắng định bằng chính tài năng và bản ngã.

Toàn bộ bài thơ không chỉ là sự cắt nghĩa lí giải về cái sự ngất ngưởng của chính mình, mà nó còn được xem như là một lời tự thuật về cuộc đời, là niềm tự hào về tài năng, công danh, đồng thời cho ta thấy một phong cách lối sống tài tử phóng khoáng của Nguyễn Công Trứ.

Mở đầu bài thơ là lời khẳng định về quan niệm sống của một đấng làm trai:

Vũ trụ nội mạc phi phận sự.

(Mọi việc trong vũ trụ chẳng có việc nào không là phận sự của ta).

Câu thơ vang lên chắc nịch, khẳng định một cách mạnh mẽ và tự hào về quan niệm làm trai của Nguyễn Công Trứ. Đây là một quan niệm cho thấy Nguyễn Công Trứ luôn luôn ý thức được về bản thân mình, đồng thời luôn xác định được vị trí của mình trong cuộc đời. Điều này có được từ một kẻ sĩ có tài năng. Tuyên ngôn này của Nguyễn Công Trứ đã được khẳng định như một chân lí và trở đi trở lại như một mệnh đề quen thuộc trong thơ ông.

Vũ trụ giai ngô phận sự

(Những việc trong vũ trụ đều thuộc phận sự của ta - Nợ tang bồng).

Hay trong bài Gánh trung hiếu, Nguyễn Công trứ cũng đã khẳng định:

Vũ trụ chức phận nộ

(Việc trong vũ trụ là chức phận của ta)

Nói như vậy để ta khẳng định rằng Nguvền Công Trứ luôn luôn xác định cho mình một quan niệm sống tích cực, đồng thời càng cho thấy rõ sự tự ý thức về bản thân của chính tác giả.

Chính vì luôn luôn có ý thức về vị trí của chính mình trong trời đất mà Nguyễn Công Trứ không ngại ngùng khẳng định tài năng về chí làm trai, tác giả lần lượt chứng minh cho người đọc thấy được tài năng và bản ngã của chính mình:

Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng

Khi thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.

Nguyễn Công Trứ đã tự xưng danh, đồng thời khẳng định tài bộ (tài năng lớn, nhiều mặt) của mình. Và trên thực tế với những thực danh: Thủ khoa, tham tán, Tổng đốc Đông đã chứng minh cho tài năng lớn của Nguyễn Công Trứ. Câu thơ được ngắt nhịp ngắn đều, chậm rãi cùng với việc sử dụng điệp từ khi tạo nên một lối nói khẳng định đầy sự tự hào.

Tuy nhiên hiện lên trong bài thơ không chỉ là một Nguyễn Công Trứ tài năng, mà còn là một Nguyễn Công Trứ có tài kinh bang tế thế:

Lúc bình Tây, cờ đại tướng,

Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.

Như vậy đến đây chúng ta có đầy đủ cơ sở để khẳng định một con người có tài năng thực sự và luôn luôn ý thức được về tài năng của chính bản thân mình. Đây cũng chính là sự khẳng định bản ngã của Nguyễn Công Trứ, là một phần trong phẩm chất mà ông tự hào gọi là tay ngất ngưởng. Để từ đó ta có thể hiểu ngất ngưởng theo một nghĩa tích cực, trong đó có sự khẳng định bản ngã của chính mình.

Một Nguyễn Công Trứ có tài, có thực danh như vậy, ấy mà khi trờ về đời thường lại là một tay ngạo nghễ giễu đời:

Đô môn giải tổ chi niên

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.

Cho nên ông không ngại ngùng bày tỏ một cách sống thật khác người, khác đời:

Kìa núi nọ phau phau mây trắng

Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi

Gót tiên theo đủng đinh một đôi dì

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.

Là một nhà nho, từng là một danh tướng, từng xông pha trận mạc ấy vậy mà lại sống cuộc sống bình dị nên dạng từ bi. Tuy nhiên cái lối sống ấy của Nguyễn Công Trứ lại chẳng bình thường một chút nào: đi vãng cảnh chùa mà: gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì phải chăng ông đang bất chấp cuộc sống, đang giễu cợt sự đời, có lẽ hiểu biết như vậy còn phiến diện. Bởi sinh thời Nguyễn Công Trứ là một người biết chơi theo quan niệm sống hết mình và chơi cũng hết mình. Trong trần hoàn mấy mặt làng chơi... Biết mùi chơi chưa dễ mấy người hay ông từng tuyên bố Nếu không chơi thiệt ấy ai bù... Vậy cũng có thể hiểu đây là một lối sống phóng túng, không chịu gò bó. Câu thơ được Nguyễn Công Trứ miêu tả bằng nụ cười hóm hỉnh, nhiều tự hào của tác giả, phải chăng là cười cho sự khen chê cùa thiên hạ, có lẽ là cả hai điều đó, bởi một điều thật đơn giản.

Được mất dương dương người thái thượng

Khen chê phơi phới ngọn đông phong

Với Nguyễn Công Trứ một khi đã thoát khỏi vòng danh lợi thì những chuyện được mất, khen chê ở đời xin bỏ ngoài tai, như ngọn gió đông thổi qua mà thôi. Điều này chỉ có được khi người ta có bản lĩnh tự tin về tài năng của mình. Đó cũng chính là cái ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ trong đó chứa đựng hạt nhân của phong cách sống phóng túng, hiếm thấy của ông. Chính vì vậy mà ông có được cuộc sống thanh cao vui vẻ:

Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng

Không Phật, không Tiên, không vướng tục.

Câu thơ được ngắt nhịp hai, kết hợp với lối diễn đạt trùng điệp tạo cho câu thơ chậm rãi, qua đó lột tả được phong thái ung dung yêu đời, thanh cao của nhà nho Nguyễn Công Trứ.

Thái độ sống như vậy của ông có được từ con người luôn tự tin vào bản thân mình, luôn ý thức được bản ngã của chính mình.

Sự phô bày bản ngã được bộc lộ rõ nét một cách cực độ ở khổ thơ cuối:

Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú

Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo xơ chung

Trong triều ai ngất ngưởng như ông!

Nguyễn Công Trứ đã tự khẳng định mình là con người trung thần, làm tròn đạo vua tôi, điều này góp phần khẳng định thêm quan niệm về chí làm trai của tác giả ở đầu bài thơ. Bằng lối so sánh với những bậc anh hùng như Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật... của đời Hán, Tống bên Trung Quốc. Tác giả đã khẳng định tài năng và công lao của mình một cách đĩnh đạc hào hùng. Cùng có thể xem đó là những lời nói đầy tự hào về bản thân của chính tác giả. Để từ đó Nguyễn Công Trứ ngạo nghễ tuyên bố:

Trong triều ai ngất ngưởng như ông!

Như vậy đến đây hẳn chúng ta đã hiểu cái ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ. Đó chẳng phải là cái gì khác mà chính là thái độ, cách sống của một nhà nho tài tử. Nguyễn Công Trứ có được điều đó xuất phát từ tài năng, thực danh, từ sự làm tròn bổn phận. Vậy cái ngất ngưởng của ông không phải tiêu cực mà sự khẳng định bản ngã của mình, là bản lĩnh dám sống ở đời, và một phong cách sống tài hoa tài tử.

Cùng với những bài thơ khác như Đi thi tự vịnh, Chí làm trai, Nợ tang bồng, Gánh trung hiếu... Bài thơ Bài ca ngất ngưởng đã một lần nữa vẽ rõ nét chân dung của nhà thơ. Đây chính là phong cách sống, phong cách nghệ thuật của con người và của thơ Nguyễn Công Trứ.

Phân tích lối sống của tác giả bài thơ Bài ca ngất ngưởng mẫu 4

Nói đến những nhà thơ nửa đầu thế kỷ XIX không thể không nhắc đến nhà thơ - ông quan thị lang triều Nguyễn: Nguyễn Công Trứ. Đây là mọt nhân vật nổi tiếng trong lịch sử, một phần nhân vật hăm hở lập công, hết sức đề cao chí làm trai và cách sống rất độc đáo, luôn tự do, phóng túng.

Nguyễn Công Trứ được coi là một trong những thi sĩ nổi tiếng nhất đương thời, ông có công lớn trong việc nâng thể hát nói thành thể thi ca có khả năng biểu hiện những tình cảm phong phú và tinh tế.

Trong số những bài thơ của Nguyễn Công Trứ sáng tác theo thể hát nói, nức danh hơn cả là bài thơ Bài ca ngất ngưởng. Đây là một tác phẩm được sáng tác sau khi tác giả rời bỏ chốn quan trường về quê nhà sống cuộc đời ẩn dật. Đây cũng là lúc chất ngạo nghễ, ngất ngưởng vốn có của cụ Thượng Trứ được bộc lộ một cách đầy đủ nhất. Dẫu sao, tuy là một nhân vật có bản lĩnh, giàu cá tính, nhưng khi còn đang làm quan, Nguyễn Công Trứ cũng không thể sống một cách tự do, ông vẫn phải tuân thủ những luật lệ của triều đình. Và như lịch sử đã ghi lại, trong nhiều triều đại phong kiến thì triều đại Nguyễn vẫn được coi là một triều đại có những thiết chế hết sức gò bó, phi lí, phi nhân đạo nhất.

Bằng Bài ca ngất ngưởng, Nguyễn Công Trứ đã trình bày một cách thật sinh động, độc đáo bản sơ yếu lí lịch của mình và bao trùm bài thơ, người đọc có thể cảm nhận một lối sống khác người, khác đời của tác giả. Lối sống của ông đối lập với lối sống của tập đoàn, đối lập với những quan niệm chính thống lúc bấy giờ.

Trước hết, ngay tiêu đề của bài thơ đã khiến người đọc phải chú ý, phải suy nghĩ. Cái độc đáo của Nguyễn Công Trứ phải chăng được thể hiện ngay trong cách ông đặt tiêu đề của bài thơ: Bài ca ngất ngưởng. Theo cách hiểu thông dụng, ngất ngưởng chỉ thế cao mà không vững, dễ đổ vỡ. Thí dụ: Bình hoa để ngất ngưởng. Ngoài ra, ngất ngưởng còn có nghĩa là chỉ người đi thẳng, không vững, lúc tiến lên phía trước, lúc thì ngả sang phải, lúc ngả sang trái...Đọc kỹ bài thơ, chúng ta có thể nhận thấy tiêu đề của bài thơ này góp phần quan trọng trong việc diễn tả thái độ, tư thế của nhân vật trữ tình - tác giả luôn vươn lên trên thói tục, sống giữa tập đoàn, giữa mọi người mà khác đời, khác người, bất chấp mọi người.

Nguyễn Công Trứ thường nói đến chí nam nhi theo tinh thần nho giáo. Trong bài Chí làm trai, nhà thơ khẳng định:

Chí làm trai nam, bắc, đông, tây

Cho phí sức vẫy vùng trong bốn bể

Ở Bài ca ngất ngưởng, Nguyễn Công Trứ cũng mở đầu bằng một câu chữ Hán có tính chất tuyên ngôn thể hiện cái chí làm trai nói trên: mọi việc trong trời đất chẳng có việc nào không là phận sự của ta:

Vũ trụ nội mạc phi phận sự

Đây chính là điều mà Nguyễn Công Trứ tâm niệm. Chẳng thế mà luôn được ông nhắc đến trong rất nhiều bài thơ trong suốt cuộc đời sáng tác của mình, vũ trụ chức phận nội (việc vũ trụ là phận sự của ta - Gánh trung hiếu), vũ trụ ngã phận sự (Những việc trong vũ trụ là phận sự của ta - luận kẻ sĩ). Theo quan niệm của Nguyễn Công Trứ, đã sinh ra làm đấng tu mi, thì nhất thiết phải có danh gì với núi sông, phải làm những việc lớn lao, phải được ghi vào sử sách. Cái hay của câu thơ mở đầu chính là triết lí sống đúng đắn và tình cảm chân thành của tác giả. Muốn xã hội tiến bộ, mỗi con người phải tự khẳng định mình, phải cố gắng cao nhất làm được một việc gì đó có ích cho đời để có thể tự hào với mọi người. Khát vọng đó, quyết tâm đó là chính đáng, là rất đáng trân trọng; nhất là một khi nó được thể hiện một cách trực tiếp với một thái độ chan thành của nhà thơ.

Tiếp đó, Nguyễn Công Trứ tự xưng tên mình, tự khẳng định tài năng của mình:

Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng

Lâu nay, câu thơ này ít nhất đã có hai cách hiểu. Cách hiểu thứ nhất cho rằng: ông Hi Văn, một con người tài giỏi đã vào vòng cương tỏa của triều đình (như con chim yêu tự do, thích bay trên bầu trời cao rộng, nay bị nhốt vào lồng), và do đó, ông không thể sống ngất ngưởng như mình muốn. Cách hiểu thứ hai: ông Hi Văn là người toàn tài, có thể sánh ngang với trời đất; lồng ở đây được hiểu là trời đất, là vũ trụ, trong quan niệm của người xưa thì đất có hình vuông và trời có hình tròn. Có lẽ cách hiểu thứ hai thuyết phục hơn, nhất quán hơn so với cách hiểu thứ nhất; đặc biệt nếu đặt trong cảm hứng bao trùm bài thơ, cách hiểu này có văn cứ hơn. Vả chăng, nội dung hai câu đầu thường sẽ chi phối toàn bộ bài thơ, mà cảm hứng chủ đạo trong bài thơ này chính là cảm hứng ngạo nghễ, ngất ngưởng chứ không phải là nỗi niềm oán thán về việc mất tự do..Hi Văn là biệt hiệu của Nguyễn Công Trứ. Nói trực tiếp về mình, gọi hiệu mình ra mà nói là cách diễn đạt rất Nguyễn Công Trứ. Trước cụ Thượng Trứ, bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương cũng có lần xưng danh:

Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi

Này của Xuân Hương đã quệt rồi

(Mời trầu)

Và tác giả truyện Kiều cũng đã từng xưng hiệu trong một câu thơ ai oán của Độc Tiểu Thanh kí:

Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

(Không biết ba trăm năm sau nữa

Thiên hạ ai người khóc Tố Như)

Nhưng quả thật chưa ai xưng danh rồi sau đó lại dám khẳng định luôn mình là người có tài năng như Nguyễn Công Trứ. Có điều, câu thơ tác giả nói về mình nhưng tựa như nói về người khác, nói một cách tự nhiên, hồn nhiên.

Khi thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng,

Lúc bình Tây, cờ đại tướng,

Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên

Đoạn thơ trên bộc lộ sự tự khẳng định niềm tự hào về tài năng văn võ song toàn của mình. Tuy vậy, cái hay của đoạn thơ trên trước hết xuất phát từ thái độ chân thành, hồn nhiên và sự trung thực của tác giả. Tiểu sử Nguyễn Công Trứ quả đã có ghi: Vào năm 1819, ông đã đỗ thủ khoa kì thi Hương; 7 năm sau, Nguyễn Công Trứ làm tham tán công vụ, đến năm 1831 ông làm Tổng đốc tỉnh Đông (Hải An). Lúc 62 tuổi, ông được cử đi đánh thành Trấn Tây...Tuy là một người xuất thân quan văn, nhưng Nguyễn Công Trứ đã từng chỉ huy đánh tiểu phỉ ở biên giới phía Bắc, đánh giặc ở biên giới Tây Nam, rồi đàn áp các cuộc nổi loạn của nông dân.

Sau câu thơ đầu vừa phân tích trên đây là hết sức quan trọng trong tạo nên cái cần thiết để tác giả tự bộc lộ một lối sống ngất ngưởng ở những câu thơ tiếp theo bằng giọng tự trào nhưng rất có duyên thông qua việc ông tự mô tả mình và lối sống của mình:

Đô môn giải tổ chi niên.

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.

Kìa núi nọ phau phau mây trắng,

Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.

Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.

Đối với những nhà giàu sang quyền quý khi xưa, ngựa là phương tiện giao thông chủ yếu. Đi ngựa là thể hiện sự sang trọng và quyền lực. Nhưng cụ Thượng Trứ lại khác đời: cụ không đi ngựa mà lại đi xe do con bò cái lông vàng kéo, rong chơi khắp chốn. Đã thế, trước cửa xe, cụ để bôn câu thơ trên một tấm mo cau:

Xuống ngựa, lên xe, nọ tưởng phàm

Lợm mùi giáng chức với thăng quan

Điền viên dạo chiếc xe bò cái

Sẵn tấm mo che miệng thế gian

Quả thật, ở con người Nguyễn Công Trứ có sự tương phản gay gắt. Sự tương phản này tạo nên nét hấp dẫn của tác giả, một tay ngất ngưởng: bò vàng lại đeo đạc ngựa, vôn tay kiếm cung mà lại từ bi, đi chùa mà lại mang theo cả ...một đôi dì. Điều ấy khiến cho kẻ hiền lành, thoát bụt cũng cảm thấy nực cười.

Vậy, vì sao Nguyễn Công Trứ sống giữa chốn danh lợi bon chen như thế mà vẫn bình thản, thoát khỏi lẽ thường ở đời, nhất là đối với một quan lại triều đình trong chốn hoan lộ vốn bất bằng? Có lẽ vì một lẽ đơn giản ngay trong tiềm thức, trong ý thức sâu xa của mình, ông đã không quan tâm đến cái được, cái mất ở đời. Ta còn nhớ trong ngót ba mươi năm chốn quan trường, có lúc Nguyễn Công Trứ làm đại tướng,có khi chỉ là một anh lính thú ở chốn biên ải. Tuy thế, lúc nào ông cũng bình thản như ngọn gió xuân, mặc cho thiên hạ khen hay chê:

Được mất dương dương người tái thượng,

Khen chê phơi phới ngọn đông phong.

Và nguyên nhân cốt lõi của thái độ sống này, của cái ngất ngưởng này chính là sự ý thức đầy đủ về cái tôi cá nhân, cá thể của mình, cũng như ý thức về tài năng và phẩm hạnh cùa mình.

Câu kết bài thơ, Nguyễn Công Trứ nhấn mạnh thêm một lần nữa cảm hứng ngất ngưởng bằng câu: Trong triều ai ngất ngưởng như ông? Câu nghi vấn nhưng lại chính là câu khẳng định: trên đời này không ai độc đáo, ngạo nghễ, ngất ngưởng bằng thi sĩ Nguyễn Công Trứ.

Đặt trong chế độ phong kiến, Bài ca ngất ngưởng có ý nghĩa về nhiều phương diện. Nó ít nhiều báo hiệu sự thức tỉnh của ý thức cá nhân, cá thể trong hoàn cảnh cái tôi không được thừa nhận. Nó ghi nhận một bước tiến đáng kể trong lịch sử dân tộc theo hướng dân chủ hóa.

Ngày nay, lối sống và cách sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ có thể cần được tiếp thu một cách cân nhắc. Tuy nhiên, bài thơ Bài ca ngất ngưởng vẫn có ý nghĩa, trước hết trong việc khích lệ người đọc hãy sống mạnh mẽ, hãy sống có ích để cuộc đời mình ngày một có ý nghĩa, không chấp nhận một cuộc sống tẻ nhật, vô nghĩa.

Trên đây VnDoc đã tổng hợp các bài văn mẫu Phân tích lối sống của tác giả bài thơ Bài ca ngất ngưởng cho các bạn tham khảo ý tưởng khi viết bài. Ngoài ra các bạn có thể xem thêm chuyên mục Soạn văn 11 mà VnDoc đã chuẩn bị để học tốt hơn môn Ngữ văn lớp 11 và biết cách soạn bài lớp 11 các bài Tác giả - Tác phẩm Ngữ Văn 11 trong sách Văn tập 1 và tập 2. Mời các em học sinh, các thầy cô cùng các bậc phụ huynh tham khảo.

Mời bạn đọc cùng tham gia nhóm Tài liệu học tập lớp 11 để có thêm tài liệu học tập nhé

Các bài liên quan đến tác phẩm:

Chia sẻ, đánh giá bài viết
7
Chọn file muốn tải về:
Chỉ thành viên VnDoc PRO tải được nội dung này!
79.000 / tháng
Đặc quyền các gói Thành viên
PRO
Phổ biến nhất
PRO+
Tải tài liệu Cao cấp 1 Lớp
Tải tài liệu Trả phí + Miễn phí
Xem nội dung bài viết
Trải nghiệm Không quảng cáo
Làm bài trắc nghiệm không giới hạn
Mua cả năm Tiết kiệm tới 48%
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Văn mẫu lớp 11 Kết nối tri thức

    Xem thêm