Hình ảnh ba đứa trẻ hàng xóm qua sự cảm nhận tinh tế của A-li-ô-sa:
- Khi mấy đứa trẻ kể chuyện mẹ chết, “chúng ngồi sát vào nhau giống như những chú gà con". Hình ảnh giàu sức gợi tả và gợi cảm, thể hiện sự thông cảm của A-li-ô-sa với các bạn nhỏ.
- Khi đại tá xuất hiện, quát thì chúng "tức thì cả mấy đứa trẻ lặng lẽ bước ra khỏi chiếc xe đi vào nhà". Hình ảnh bọn trẻ tội nghiệp trước sự quát nạt của bố. A-li-ô-sa thông cảm với các bạn.
- Ông bà ngoại của A-li-ô-sa là hàng xóm của đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp, nhưng hai gia đình lại có địa vị xã hội khác nhau, điều đó tạo ra bức tường ngăn cách mối quan hệ tự nhiên giữa những đứa trẻ. Nhìn sang hàng xóm, A-li-ô-sa chỉ biết “Ba đứa cùng mặc áo cánh và quần dài màu xám, cùng đội mũ như nhau. Chúng có khuôn mặt tròn, mắt xám và giống nhau đến nỗi tôi chỉ phân biệt được chúng theo tầm vóc”.
- Do tình cờ, A-li-ô-sa góp sức cứu đứa trẻ - con của gia đình đại tá rơi xuống giếng nên ba đứa trẻ nhà đại tá rủ A-li-ô-sa sang chơi. Hoàn cảnh sống thiếu tình thương đã tạo nên tình bạn trong sáng giữa các bạn nhỏ.
- Khi mấy đứa trẻ kể về chuyện mẹ chết, “chúng ngồi sát vào nhau giống như những chú gà con”. Hình ảnh đó rất giàu sức gợi.
=> Hoàn cảnh sống thiếu tình thương giống nhau khiến mấy chục năm sau Go-rơ-ki vẫn nhớ như in và kể lại hết sức xúc động.
- Phần 1: Từ đầu đến “ấn em nó cúi xuống”: Tình bạn tuổi thơ trong trắng.
- Phần 2: Từ “Trời bắt đầu tối” đến “Cấm không được đến nhà tao”: Tình bạn bị cấm đoán.
- Phần 3: Còn lại: Tình bạn vẫn cứ tiếp diễn.
Những chi tiết xuất hiện ở phần một: Ba đứa trẻ hàng xóm, chuyện về những con chim, những câu chuyện cổ tích, chuyện về người bà hiền hậu lại xuất hiện ở phần ba tạo nên sự kết nối chặt chẽ, gây ấn tượng lắng đọng ở người đọc.
- Những kiến thức và kĩ năng về các tác phẩm tự sự của phẩn Đọc - hiểu văn bản tiếng Việt tương ứng đã giúp em rất nhiều trong việc viết bài văn tự sự:
▪️ Xác định rõ ràng các bước để làm bài văn tự sự
▪️ Lựa chọn từ ngữ, hình ảnh, cách kể chuyện cho phù hợp với yêu cầu của đề bài
▪️ Sử dụng kết hợp các biện pháp tu từ trong bài viết để tăng sức gợi hình, gợi cảm cho câu văn
- Ví dụ:
▪️ Trước khi viết bài văn tự sự, em sẽ xác định rõ các bước làm bài: Tìm hiểu đề và tìm ý; lập dàn bài; viết bài; đọc lại và sửa chữa. Việc tuân thủ các bước làm bài ấy sẽ giúp em tránh được tình trạng lạc đề và bài văn tự sự sẽ có sự trau chuốt, cẩn thận hơn.
▪️ Thay vì viết câu: "Mặt trời đỏ rực" thì em sẽ sử dụng thêm các từ ngữ giàu hình ảnh kết hợp với biện pháp tu từ để câu văn trở nên sinh động hơn "Ông mặt trời vươn vai thức dậy, tỏa những tia nắng ấm áp đầu tiên xuống mặt đất khiến cho cả không gian bừng sáng lên một màu đỏ rực rỡ"
- Những kiến thức và kĩ năng về kiểu văn bản tự sự của phần Tập làm văn giúp học sinh hiểu rõ hơn đặc điểm nghệ thuật, nội dung tác phẩm, giúp học sinh thực hiện tốt hơn yêu cầu đọc - hiểu các tác phẩm văn học tương ứng.
- Ví dụ: Những đoạn độc thoại, độc thoại nội tâm, miêu tả nội tâm trong tác phẩm Làng của Kim Lân đã giúp người đọc hiểu được tâm trạng, tính cách của nhân vật ông Hai; vai người kể chuyện trong Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng giúp làm rõ hơn nội dung tư tưởng và làm tăng thêm chất chân thực của tác phẩm.
- Một số tác phẩm tự sự được học trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 6 đến lớp 9 không phải bảo giờ cũng phân biệt bố cục rõ ràng ba phần: Mở bài, Thân bài và Kết bài vì
+ Thể hiện sự sáng tạo của nhà văn và quan trọng hơn là gây được sự hứng thú, tò mò cho người đọc
+ Hầu hết những bài tự sự không có đủ bố cục ba phần trong chương trình Ngữ Văn từ lớp 6 đến lớp 9 đều là của những nhà văn lớn hoặc những người đã làm việc với ngôn ngữ, văn bản trong nhiều năm nên họ có nhiều kinh nghiệm viết.
- Bài tập làm văn tự sựu của học sinh vẫn phải có đủ ba phần đã nêu vi: Hiện tại, học sinh chỉ mới đang "Tập" làm văn chứ chưa phải là viết văn, sáng tạo văn bản thực sự. Chính vì thế nên học sinh cần phải đi theo từng bước để nắm vững được cách thức làm bài.
Giải thích tại sao trong một văn bản có đủ các yếu tố miêu tả, biểu cảm, nghị luận mà vẫn gọi đó là văn bản tự sự. Theo em, liệu có một văn bản nào chỉ vận dụng một phương thức biểu đạt duy nhất không?
Trả lời:
– Tên gọi cho một loại văn bản căn cứ vào phương thức biểu đạt nào là chính. Bên cạnh phương thức chính bao giờ cũng có các phương thức biểu đạt khác.
– Trong một văn bản ít có trường hợp một văn bản chỉ vận dụng một phương thức biểu đạt duy nhất.
Các nội dung văn bản tự sự đã học ở lớp 9 có gì giống và khác so với các nội dung về kiểu văn bản này đã học ở những lớp dưới?
Trả lời:
– Giống: Đều lấy tự sự là phương thức biểu đạt chính.
– Khác: ở các lớp dưới, khi phân tích tác phẩm cũng như khi học ở phân tích Tập làm văn, lấy sự kiện và chi tiết làm nội dung chính. Còn lên lớp 9, ngoài nội dung đó, văn tự sự còn có sự kết hợp giữa yếu tố miêu tả (tả cảnh, chân dung nhân vật, miêu tả nội tâm nhân vật), nghị luận, độc thoại, đối thoại, người kể chuyện.
– Đoạn (a) chủ yếu dùng phương thức miêu tả để làm nổi bật sự thay đổi về diện mạo của nhân vật Nhuận Thổ.
– Đoạn (b) chủ yếu dùng phương thức tự sự kết hợp với phương thức biểu cảm để nói về tình cảm gắn bó của nhân vật “tôi” và Nhuận Thổ thời thơ ấu.
– Đoạn (c) chủ yếu dùng phương thức nghị luận trong đó hình ảnh con đường khép lại mang chiều sâu ý nghĩa về niềm hi vọng về một ngày mai tươi sáng của cả dân tộc.
Tác giả đã dùng biện pháp miêu tả và kể chuyện để làm nổi bật sự thay đổi của Nhuận Thổ.
- Khi còn nhỏ, Nhuận Thổ là một cậu bé linh lợi, hùng dũng: “khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng”.
- Tác giả kể chuyện Nhuận Thổ biết nhiều thứ: bẫy chim, nhặt vỏ sò, canh dưa, nhìn thấy cá nhảy, hai chân như chân nhái. Bây giờ, sau nhiều năm xa cách, gặp lại, Nhuận Thổ được miêu tả: “Anh cao gấp hai trước, khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật trước kia nay đổi thành vàng sạm, lại có thêm những nếp răn sâu hoắm. Cặp mắt giống hệt cặp mắt bố anh ngày trước, mi mắt viền đỏ húp mọng lên... Anh đội một cái mũ lông chiên rách tươm, mặc một chiếc áo bông mỏng dính, người co ro cúm rúm... Bàn tay này cũng không phải là bàn tay tôi còn nhớ, hồng hào, lanh lẹn, mập mạp, cứng rắn, mà vừa thô kệch vừa nặng nề, nứt nẻ như vỏ cây thông”.
=> Qua việc kể lại cách xưng hô, cách đối xử của Nhuận Thổ, tác giả làm nổi bật sự thay đổi về hình dáng bề ngoài, sự thay đổi trong suy nghĩ, đối xử. Nhưng đồng thời vẫn nêu ra những nét không đổi của anh: chân thành, cần cù, chịu khó làm lụng.
- Ngoài sự thay đổi của Nhuận Thổ, tác giả còn nêu sự thay đổi của nhân vật khác như chị Hai Dương. Vốn là một người đẹp, nhưng chị Hai Dương bây giờ “lưỡng quyền nhô ra, môi mỏng dính, hai tay chống nạnh, không buộc thắt lưng, chân đứng chạng ra, giống hệt cái com-pa trong bộ đồ vẽ, có hai chân bé tí". Chị trở nên chanh chua, mỉa mai, tranh thủ lấy được cái gì thì lấy (giật đôi bít tất tay của mẹ Tân, lấy chiếc “cẩu khí sát”). Có một số người đến hỏi mua đồ, nhưng tiện tay cứ mang bừa đi. Nông thôn thay đổi. “Chỗ nào cũng hỏi tiền, chẳng có luật lệ gì cả” và “mùa mất, thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào đày đọa". Điều đó đã khiến cho người nông dân khốn cùng.