I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Mùa xuân là đề tài quen thuộc trong thơ ca đông tây kim cổ. Có những câu thơ bất hủ vẽ nên bức tranh xuân tuyệt mĩ:
Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa
(Cỏ thơm liền với trời xanh
Trên cành lê có mấy bông hoa)
(Thơ cổ Trung Quốc)
- Chúng ta thử so sánh hai câu trên với hai câu thơ tả vẻ đẹp mùa xuân trong Truyện Kiều để thấy được sự tiếp thu và sáng tạo nghệ thuật của thi hào Nguyễn Du.
2. Thân bài:
a/ Hai câu thơ cổ:
Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa
Vẻn vẹn 10 chữ mà miêu tả được đặc điểm nổi bật của khung cảnh mùa xuân:
- Màu xanh của cỏ non tràn ngập không gian, tiếp nối với sắc xanh của bầu trời. (Tả diện).
- Cành lê điểm vài bông hoa trắng. (Tả điểm).
- Sự tương phản về màu sắc (xanh >< trắng) làm nổi bật tính chất của từng sự vật được miêu tả.
- Phương thảo (cỏ thơm) gợi sự liên tưởng đến khung cảnh mùa xuân tràn đầy sức sống và sực nức hương thơm làm ngây ngất lòng người.
b/ Hai câu thơ của Nguyễn Du:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
- Sự vật được miêu tả: giống như trong hai câu thơ cổ (cỏ, hoa lê).
- Tính chất của sự vật: khác biệt ở chỗ Nguyễn Du nhấn mạnh đến màu xanh tươi của cỏ (cỏ non xanh), qua đó thể hiện sức sống phơi phới của mùa xuân. Bên cạnh đó là sắc trắng của hoa lê, nổi bật trên nền xanh bát ngát (tận chân trời) của cỏ non.
3. Kết bài:
- Nguyễn Du tả cảnh theo quy luật xa gần, kết hợp tả diện với tả điểm, có sự tương phản về màu sắc...
- Bút pháp miêu tả đạt tới mức điêu luyện. Màu sắc, đường nét hài hoà, tươi sáng, thể hiện được thần thái của mùa xuân.
- Thành công của đoạn trích là nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, nghệ thuật sử dụng từ ngữ của Nguyễn Du. Tác giả đã sử dụng một hệ thống từ ghép.
- Đoạn trích là ba bức tranh đặc sắc về cảnh ngày xuân:
▪️ Bức tranh đầu là cảnh thiên nhiên đặc trưng của mùa xuân. Với vài nét chấm phá của thi nhân, mùa xuân hiện lên tươi đẹp, trong sáng.
▪️ Bức tranh tiếp theo là khung cảnh lễ hội thanh minh nhộn nhịp, đông vui. Hình ảnh con người vui vẻ. Chen chúc đi dự hội đạp thanh. Bằng hàng loạt tính từ, động từ, danh từ, kết hợp với nhịp đội, tác giả đã tạo được không khí vui tươi của ngày hội: nô nức yến oanh, tài tử giai nhân, ngựa xe như nước áo quần như nêm.
▪️ Bức tranh cuối cùng là cảnh ngày hội tan, chị em Thúy Kiều tha thẩn ra về. Tâm trạng bâng khuâng, nuối tiếc của hai chị em dường như hòa trong không gian êm đềm, lắng đọng của chiều tà ấy bằng các từ: thơ thẩn, bước dần, lần xem, nao nao...
- Nguyễn Du đã cho thấy một nghệ thuật miêu tả thiên nhiên điêu luyện, sắc sảo. Tả cảnh mà gợi tình, gợi những tâm trạng của con người trước bức tranh thiên nhiên
- Cảnh vẫn mang cái thanh, cái dịu của mùa xuân: nắng nhạt, khe nước nhỏ, một nhịp cầu nhỏ bắc ngang. Mọi chuyển động đều nhẹ nhàng: mặt trời từ từ ngả bóng về tây, bước chân người thơ thẩn, dòng nước uốn quanh.
- Không khí nhộn nhịp, rộn ràng của lễ hội không còn nữa. Tất cả đang nhạt dần, lặng dần. Cảnh mùa xuân ở câu cuối và bốn câu đầu bên cạnh những nét giống nhau còn có sự khác nhau là bởi thời gian, không gian thay đổi nhưng điều quan trọng là cảnh vật cũng khác qua tâm trạng con người.
- Những từ láy “tà tà”, “thanh thanh”, “nao nao” không chỉ biểu đạt sắc thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Hai cảnh vật cảm giác bâng khuâng xao xuyến về một ngày vui xuân đang còn mà sự linh cảm về điều sắp xảy ra. Dòng nước uốn quanh "nao nao" như báo trước Kiều sẽ gặp chàng thư sinh "phong tư tài mạo tót vời: Kim Trọng.
1. Những câu thơ của Nguyễn Du gợi tả không khí lễ hội bằng cả một hệ thống từ ngữ giàu sức biểu đạt.
▪️ Từ ghép danh từ: yến anh, chị em, tài tử, giai nhân;Gợi tả sự đông vui, nhiều người, tấp nập mà chủ yếu là trai thanh gái lịch.
▪️ Từ ghép động từ: sắm sửa, dập dìu;Gợi tả không khí rôn ràng, náo nhiệt của ngày hội.
▪️ Từ ghép tính từ: gần xa, nô nức.diễn tả tâm trạng náo nức, vui tươi, rộn ràng của những người đi hội.
Tám câu thơ tả cảnh lễ hội ngày Thanh minh mà khắc họa được cả truyền thống văn hóa lễ hội xưa: Phong tục tảo mộ (viếng mộ, sửa sang phần mộ của người thân) và du xuân (hội đạp thanh). Lễ tảo mộ có tính chất truyền thống mang nhiều ý nghĩa nhân văn. Hội đạp thanh là một lễ hội đẹp, đây còn là một dịp tốt cho những trai tài, gái sắc được gặp gỡ, hẹn hò.
2. Khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh Minh gợi tả trong tám câu thơ:
- Phần lễ tảo mộ và du xuân
- Không khí rộn ràng của lễ hội mùa xuân:
▪️ Nô nức yến anh
▪️ Dập dìu tài tử giai nhân
▪️ Ngựa xe như nước, áo quần như nêm
- Các danh từ: yến anh, chị em, tài tử, giai nhân. Từ ghép tính từ: gần xa, nô nức. Là động từ: sắm sửa, dập dìu
→ Hình ảnh gợi lên không khí náo nhiệt, tươi vui và không gian nhiều màu sắc, giàu sức sống của mùa xuân.
Chi tiết gợi lên đặc điểm riêng của mùa xuân trong bốn câu thơ đầu:
▪️ Hình ảnh chim én đưa thoi giữa trời xuân trong sáng
▪️ Cỏ xanh non tới chân trời, điểm xuyết hoa lê trắng
▪️ Không gian mùa xuân khoáng đạt, rộng rãi
- Màu sắc có sư hài hòa gợi lên vẻ tinh khôi, mới mẻ, tràn đầy sức sống của mùa xuân
- Bút pháp ước lệ tượng trưng gợi không gian mùa xuân, tác giả còn dùng nhiều từ ngữ gợi hình ảnh, cái hồn cảnh vật.
Hai bức chân dung Thúy Vân và Thúy Kiều đều đặc sắc “mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”. Hai bức chân dung đều có những nét đẹp riêng của hai vẻ đẹp phúc hậu và sắc sảo. Nhưng để đi sâu hơn vào phân tích có thể thấy được bức chân dung Thuý Kiều nổi bật hơn. Điều này phù hợp với dụng ý nghệ thuật của tác giả khi sáng tạo Truyện Kiều: toàn bộ tác phẩm tập trung xoay quanh câu chuyện về cuộc đời đầy đau khổ của nàng Kiều. Điều này thể hiện ngay ở sự chênh lệch về số lượng câu thơ dành cho việc miêu tả hai nhân vật. Số câu dành cho Thúy Vân là 4, trong khi số câu dành cho Thúy Kiều là 16. Thúy Vân cũng được nói đến là có sắc, có tài, nhưng Nguyễn Du dành nhiều câu thơ để tả về tài năng của Thúy Kiều. Vẻ đẹp của Thuý Vân chủ yếu là ngoại hình, còn vẻ đẹp của Kiều là cả nhan sắc, tài năng, tâm hồn. Và mặc dù Thuý Vân là em nhưng lại được tả trước là vì tác giả muốn tạo ra một phông nền làm nổi bật chân dung của Kiều
Người ta thường nói: sắc đẹp của Thúy Vân "mây thua nước tóc tuyết nhường màu da", còn sắc đẹp của Thúy Kiều "hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh" là dự báo số phận hai người. Chỉ với hai câu thơ đã đủ để thấy được số phận của hai người đã được định sẵn:
Cũng như khi miêu tả Thuý Vân, những nét riêng về tài và sắc của Thuý Kiều còn gợi ra những dự cảm về số phận, chỉ khác là những nét riêng về tài sắc của Kiều lại gợi ra cái nghiệt ngã, éo le của số phận (theo quan niệm “tài mệnh tương đố” của tư tưởng trung đại). Cho nên, nói: Sắc đẹp của Thuý Vân “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da",
Bên cạnh vẻ đẹp hình thức, nhan sắc, tác giả còn nhấn mạnh vẻ đẹp tài năng, tâm hồn của Kiều.
Ở Kiều hội tụ đầy đủ mọi tài năng theo quan niệm của tư tưởng phong kiến: cẩm - kì - thi - hoạ. Trong đó, tác giả đặc biệt nhấn mạnh tài đánh đàn của Kiều (Nghề riêng ăn đứt hổ cầm một trương) và gợi tả về tính cách đa sầu, đa cảm của Kiểu qua khúc nhạc nàng tự sáng tác - một thiên “bạc mệnh”.
- Vẻ đẹp của Thúy Kiều được miêu tả bằng những hình ảnh có tính ước lệ: thu thủy, xuân sơn, hoa liễu
+ Sắc sảo, mặn mà trí tuệ, tài trí
+ Đặc tả đôi mắt “làn thu thủy”: vẻ đẹp trong sáng như nước mùa thu, gợi vẻ lanh lợi, sắc sảo hơn người
- Tác giả không tả chi tiết nhân vật Thúy Kiều như khi tả Thúy Vân
→ Kiều mang đẹp của trang tuyệt thế giai nhân.
Tác giả sử dụng biện pháp ước lệ tượng trưng gợi tả vẻ đẹp Thúy Vân:
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
- Đó là những hình ảnh thường xuất hiện trong văn học trung đại
- Vẻ đẹp của sự hòa hợp êm đêm với thiên nhiên, vạn vật xung quanh, báo hiệu cuộc đời bình lặng, suôn sẻ
→ Diễn tả vẻ đẹp phúc hậu, quý phái của thiếu nữ
- Kết cấu của đoạn thơ là:
+ Bốn câu thơ đầu: giới thiệu về khái quát về hai chị em Thuý Kiều;
+ Bốn câu thơ tiếp: vẻ đẹp của Thuý Vân;
+ Mười sáu câu thơ còn lại: vẻ đẹp của Thuý Kiều.
- Trình tự miêu tả các nhân vật:
+ Bốn câu đầu khái quát vẻ đẹp chung và riêng của từng người. Sau đó mới đi sâu miêu tả vẻ đẹp từng nhân vật.
+ Bốn câu tiếp khắc họa rõ hơn vẻ đẹp Thúy Vấn từ khuôn mặt, đôi mày, mái tóc, làn da,... đều cho thấy vẻ đẹp đầy đặn, phúc hậu.
- Bức chân dung Thúy Vân miêu tả trước có tác dụng làm nền để nổi bật lên vẻ đẹp Thúy Kiều ở mười hai câu thơ tiếp theo.
+ Mười hai câu tiếp khắc họa vẻ đẹp Thúy Kiều với cả sắc, tài, tình. Đó là vẻ đẹp toàn diện.
+ Bốn câu cuối khái quát cuộc sống phong lưu, nền nếp, đức hạnh của chị em Kiều
=> Một kết cấu như trên vừa chặt chẽ, vừa hợp lí, vừa góp phần làm nổi bật vẻ đẹp chung và riêng của hai chị em Thúy Kiều.