- Rễ luôn hướng đất dương và hướng sáng âm
- Chồi luôn hướng đất âm hướng sáng dương
Cơ chế điều hòa thân nhiệt: Sự thay đổi thân nhiệt ở các động vật hằng nhiệt có thể gây ra rối loạn các quá trình sinh lí. Do đó, cơ thể phải có cơ chế đảm bảo sự cân bằng giữa quá trình sinh nhiệt và tỏa nhiệt để thân nhiệt được ổn định.
Khi trời nóng, hoạt động mạnh, tuyến mồ hôi sẽ hoạt động mạnh, lỗ chân lông nở ra, dãn mạch máu để → nhiệt được thải ra bên ngoài. Ngược lại khi trời lạnh, chân lông co lại (hiện tượng nổi da gà), co mạch → để giảm thải nhiệt ra bên ngoài.
Sự điều chỉnh pH của nội môi: Sự thay đổi pH của nội môi rất nhỏ cũng gây những biến đổi lớn đối với tế bào. Vì vậy, điều hòa pH của nội môi tức là điều hòa cân bằng axit - bazơ hay điều hòa cân bằng toan kiềm, ở người pH trung bình của máu dao động trong giới hạn 7,35 - 7,45. Giữ được pH tương đối ổn định để bảo đảm mọi hoạt động sống của tế bào là nhờ hệ thống đệm.
Chất đệm là chất có khả năng lấy đi ion H+ hoặc ion OH- khi các ion này xuất hiện trong môi trường trong và làm cho pH của môi trường thay đổi rất ít.
Trong cơ thể có những hệ đệm chủ yếu sau:
- Hệ đệm bicacbonat: NaHCO3/ H2CO3 (HCO−3HCO3− /CO2).
- Hệ đệm phôtphat: Na2HPO4/ NaH2PO4 (HPO2−4HPO42− / H2PO−4H2PO4−).
- Hệ đệm prôtêinat (prôtêin).
* Hệ đệm bicacbonat là hệ đệm không có khả năng đệm tối đa nên không phải là hệ đệm tối ưu.
Tuy nhiên, hệ đệm bicacbonat vẫn đóng vai trò quan trọng vì nồng độ của cả hai thành phần của hệ đệm đều có thể được điều chỉnh:
- Nồng độ CO2 được điều chỉnh bởi phổi (sự thông khí phổi).
- Nồng độ bicacbonat được thận điều chỉnh.
- Tốc độ điều chỉnh pH của hệ đệm này rất nhanh.
* Hệ đệm phôtphat đóng vai trò đệm quan trọng trong dịch ống thận vì phôtphat tập trung nhiều ở ống thận, nên có khả năng đệm tối đa ở vùng này.
Tuy nhiên, nồng độ hệ đệm phôtphat chỉ bằng 1/6 hệ đệm bicacbonat nên không có vai trò quan trọng trong điều chỉnh pH của nội môi nói chung.
* Hệ đệm prôtêinat: Các prôtêin của hệ đệm có các gốc axit tự do -COOH khả năng phân li thành -COO- và H+ đồng thời cũng có các gốc kiềm -NH3OH phân li thành NH+3NH3+ và OH-. Do đó, prôtêin có thể hoạt động như những hệ thống đệm để điều chỉnh cả độ toan hoặc kiềm tùy môi trường ở thời điểm đó. Hệ đệm prôtêinat là một hệ đệm mạnh của cơ thể.
∗ Điều hòa glucôzơ huyết:
- Sau bữa ăn, nồng độ glucôzơ trong máu ở tĩnh mạch ở ruột cao, tĩnh mạch này sẽ đổ về gan để kiểm soát ở đây một phần glucozo được gan điều chỉnh bằng cách biến đổi thành glicôgen dự trữ trong gan và cơ, phần glucôzơ dư thừa nữa sẽ được chuyển thành các phân tử mỡ và được chuyển tới dự trữ trong các mô mỡ, đảm bảo cho nồng độ glucôzơ trong máu giữ tương đối ổn định.
- Sự hoạt động của các cơ quan làm lượng glucôzơ máu có xu hướng giảm, gan sẽ chuyển glicôgen dự trữ thành glucôzơ
∗ Điều hòa prôtêin trong huyết tương:
Hầu hết các dạng prôtêin trong huyết tương như fibrinogen, các glôbulin và anbumin được sản xuất ở gan và chúng cũng phân hủy ở gan, vì thế mà gan có thể điều hòa được nồng độ của chúng. Chính vì lí do này mà nếu người bệnh gan thì lượng protein huyết tương tăng làm tăng độ nhớt của máu gây phù nề.
∗ Điều hòa lượng nước:
- Khi khối lượng nước trong cơ thể giảm, sẽ tạo ra 2 đáp ứng thứ nhất tạo cảm giác khát để ta bổ sung nước thứ hai là kích thích thùy sau tuyến yên tăng cường tiết hoocmôn chống đa niệu (ADH), mặt khác gây co các động mạch thận từ đó làm giảm lượng nước tiểu bài xuất.
- Trái lại, khi lượng nước trong cơ thể tăng làm giảm áp suất thẩm thấu và tăng huyết áp, một cơ chế ngược lại sẽ làm tăng bài tiết nước tiểu để giúp cân bằng nước trong cơ thể bằng cách giãn động mạch tới thận, giảm tái hấp thu nước và muối ở ống thận…
∗ Điều hòa muối khoáng:
- Điều hòa muối chính là điều hòa hàm lượng Na+ trong máu. Khi hàm lượng Na+ giảm, kích thích vỏ tuyến thượng thận tiết ra hoocmôn anđostêron, có tác dụng tăng khả năng tái hấp thu Na+ của các ống thận.
- Ngược lại, khi lượng muối NaCl được lấy vào quá nhiều làm áp suất thẩm thấu tăng sẽ gây cảm giác khát, uống nhiều nước. Lượng nước và muối dư thừa sẽ được thải loại qua nước tiểu để bảo đảm cân bằng nội môi.
Ý nghĩa cân bằng nội môi: Các hệ thống sống dù ở mức độ nào cũng chỉ tồn tại và phát triển khi môi trường bên trong luôn duy trì được sự cân bằng và ổn định, gọi tắt là cân bằng nội môi. Sự cân bằng và ổn định đó bao hàm sự cân bằng khối lượng nước, cân bằng về nồng độ các chất như glucôzơ, các ion, các axit amin, các axit béo, các muối khoáng... để duy trì áp suất thẩm thấu, huyết áp và độ pH của môi trường bên trong (nội môi) được ổn định, đảm bảo cho sự tồn tại và thực hiện được chức năng sinh lí của các tế bào cơ thể với sự tham gia của hàng ngàn các enzim khác nhau.
Lao động nặng, CO2 sinh ra nhiều mà nếu không thải CO2 đủ thì cơ thể sẽ bị "đầu độc", ngoài ra hàm lượng O2 giảm mà cơ thể không kịp cung cấp, tế bào sẽ chuyển sang hô hấp kị khí, các axit lactic sẽ sinh ra và tích trữ nhiều trong cơ gây mỏi cơ, hiệu suất lao động giảm. Vì thế nên lao động không được quá sức và phải có nghỉ ngơi hợp lí.
Gan là cơ quan có vai trò quan trọng trong điều hòa ổn định hàm lượng glucozơ
Sau bữa ăn, nồng độ glucôzơ trong máu cao, một phần glucozo được gan điều chỉnh bằng cách biến đổi thành glicôgen dự trữ trong gan và cơ, phần glucôzơ dư thừa sẽ được chuyển thành các phân tử mỡ và được chuyển tới dự trữ trong các mô mỡ, đảm bảo cho nồng độ glucôzơ trong máu giữ tương đối ổn định.
Cảm giác khát nước do hệ thần kinh thực vật tạo ra thường xảy ra khi cơ thể bị mất nước, hoặc thiếu nước: Vừa lao động nặng, tập thể dục, mồ hồi tiết ra nhiều, ăn nhiều muối,…