Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Phân tích nét độc đáo, mới mẻ của hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến

Phân tích nét độc đáo, mới mẻ của hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến vừa được VnDoc.com tổng hợp và xin gửi tới bạn đọc. Bài viết cho thấy được những nét mới mẻ và độc đọc hình ảnh người lính. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết và tải về tại đây.

1. Dàn ý nét độc đáo, mới mẻ của hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Quang Dũng, bài thơ "Tây Tiến" và hình ảnh người lính trong bài thơ.

2. Thân bài

- Vẻ đẹp hào hùng của người lính Tây Tiến:

+ Vượt qua điều kiện chiến đấu khắc nghiệt, gian khổ

+ Thái độ và tư thế người lính trước những thử thách

- Hình ảnh người lính Tây Tiến lãng mạn, hào hoa

+ Ngây ngất đắm say vẻ đẹp con người và văn hoá miền Tây

+ Khát vọng tình yêu và giấc mơ đôi lứa trong tâm hồn người lính

- Hình ảnh người lính đậm chất bi tráng:

+ Tác giả nhiều lần nhắc đến cái chết

+ Thái độ của người lính trước cái chết

- Đặc sắc nghệ thuật: Hình tượng người lính được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn, lí tưởng hoá.

3. Kết bài

Khẳng định vẻ đẹp hình tượng người lính trong bài thơ

2. Nét độc đáo, mới mẻ của hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến mẫu 1

Trong thời kì kháng chiến, văn học Việt Nam có rất nhiều người vừa tham gia chiến đấu, vừa sáng tác văn học phục vụ. Một trong số đó là Quang Dũng, người nghệ sĩ có tâm hồn tài hoa, phóng khoáng. Điều đó đã được thể hiện trong các tác phẩm của ông, nhất là bài thơ "Tây Tiến". Hình tượng người lính trong bài thơ vừa có nét độc đáo, mới mẻ lại rất chân thực.

Đề tài người lính và chiến tranh cực kì quen thuộc trong thơ ca Cách mạng Việt Nam. Tuy mỗi bài thơ đều có nét đặc sắc riêng, không trộn lẫn vào nhau nhưng hình tượng người lính vẫn có những phẩm chất chung. Trong "Đồng chí" của Chính Hữu, ta biết được hoàn cảnh xuất thân của người chiến sĩ là ở những vùng quê nghèo. Họ rời xa quê hương để chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Chính vì những điểm chung nên những người lính đã có sự liên kết, gắn bó với nhau như tri kỉ. Họ cùng nhau vượt qua những khó khăn, gian khổ trên mặt trận và hiên ngang chờ giặc tới. Người lính trong "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật cũng có một tinh thần lạc quan, yêu đời. Họ vẫn hoàn thành nhiệm vụ lái xe cứu trợ, chi viện cho miền Nam mặc dù chiếc xe đã trở nên tồi tàn, hỏng hóc. Nhìn chung, hình tượng người lính trong thơ ca luôn là những người anh hùng cách mạng kiên cường, bất khuất, lạc quan, yêu đời, không ngại khó khăn gian khổ.

Ở bài thơ "Tây Tiến", Quang Dũng đã kể về binh đoàn Tây Tiến. Họ sống và chiến đấu trên địa bàn rừng núi. Nhiệm vụ của họ là tuyên truyền vận động nhân dân tham gia cách mạng, kết hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao lực lượng địch, bảo vệ biên giới phía Tây Bắc. Chính vì hoàn cảnh như vậy, người lính Tây Tiến phải đối mặt với cả chiến trường ác liệt, vừa phải băng qua những chặng hành quân đầy gian nan. Thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ nhưng cũng ẩn chứa rất nhiều hiểm nguy. Đó là dốc núi cheo leo thách thức con người, là màn sương mờ ảo làm giảm tầm nhìn, là âm thanh đáng sợ của chốn rừng thiêng nước độc và những loài thú dữ luôn rình mò trêu chọc con người. Tất cả đều mang tới muôn vàn thách thức cho những người lính trẻ tại binh đoàn Tây Tiến. Đã có lúc họ kiệt sức, gục ngã trên chặng đường hành quân "Anh bạn dãi dầu không bước nữa/Gục lên súng mũ bỏ quên đời". Thế nhưng, họ luôn luôn giữ cho mình một tinh thần thép, một lí tưởng vững vàng "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Người chiến sĩ sẵn sàng hiến dâng cả tuổi xuân và cuộc đời mình cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Hình tượng người lính Tây Tiến đã được Quang Dũng thể hiện rất chân thực. Tuy phải đối mặt với rất nhiều khó khăn nhưng trong mỗi người vẫn giữ vững được cho mình khát vọng cao cả, đẹp đẽ cùng lí tưởng cống hiến, không màng gian khổ

Không những thế, điều kiện thiếu thốn trong sinh hoạt cũng khiến người chiến sĩ mắc nhiều bệnh tật, nhất là bệnh sốt rét rừng. Những cơn sốt rét khiến cả đoàn binh rụng hết tóc. Làn da ai trông cũng gầy gò, xanh xao, ốm yếu. Thế nhưng họ đều rất lạc quan, tích cực, biến khó khăn thành động lực để tiếp tục cố gắng. Những người lính tự cho rằng ngoại hình kì dị đó là để "dữ oai hùm", thể hiện sức mạnh và tư thế chủ động của họ trước kẻ thù.

Đặc biệt, Quang Dũng đã thể hiện nét hào hoa, lãng mạn, hiếm khi xuất hiện ở hình tượng người lính trong văn học. Chỉ bằng một câu thơ "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm", tác giả đã cho ta thấy được tâm hồn trẻ trung, thơ mộng của người lính Tây Tiến. Đa số họ đều là những thanh niên Hà Nội, nhập ngũ khi còn ở độ tuổi học sinh viên. Thế nên, khi ra đi, trong lòng mỗi người đều mang trong mình một "dáng kiều thơm". Bóng dáng xinh đẹp, thanh lịch, duyên dáng của người con gái chính là sức mạnh, là động lực để họ chiến đấu, đối mặt với vô vàn vất vả gian lao nơi chiến trường ác liệt. Từ đó, ta thấy được nét hào hoa, lãng mạn, thanh lịch của người lính Tây Tiến. Đồng thời, cũng là điểm độc đáo khác lạ trong hình tượng người lính mà Quang Dũng xây dựng.

Đặc biệt hơn, tinh thần bi tráng đặc trưng của bài thơ đã giúp cho tác giả viết về sự hi sinh của người lính một cách đầu kiêu hãnh, oai hùng. "Áo bào thay chiếu anh về đất/Sông Mã gầm lên khúc độc hành". Sự hi sinh này không mang lại nhiều nỗi đau thương, day dứt mà các tác phẩm văn học thường đem đến. Đọc hai câu thơ, ta thấy được sắc thái trang trọng. Cái chết của người lính được ví như sự ra đi của một người anh hùng có chiến công lẫy lừng, có áo bào trên vai, được mọi người và cả núi sông tiễn biệt. Hai từ "gầm lên" thể hiện cảm xúc đau đớn, bi thương nhưng lại vang dội vào lòng người, tạo cho ta cảm giác trầm buồn nhưng hùng tráng, oai phong.

Vậy, hình tượng người lính trong bài thơ đã được tác giả Quang Dũng khắc họa, chân thực rõ nét. Ông không hề tô hồng hiện thực mà thẳng thắn viết ra những nỗi đau mà người lính phải chịu. Từ đó làm đòn bẩy cho sức mạnh bản lĩnh, vẻ đẹp hào hoa, thanh lịch giữa nơi bom đạn. Ngoài ra, việc miêu tả hiện thực cũng cho người đọc thấy được khoảng thời gian kháng chiến trường kì đầu khó khăn của dân tộc. Tuy đã có thời gian bài thơ "Tây Tiến" bị chối bỏ, bị coi là "ủy mị", "rơi rớt chất lãng mạn tiểu tư sản", bị đứng ra ngoài rìa văn học. Thế nhưng sau này, bài thơ đã khôi phục lại vị trí xứng đáng trong nền thơ hiện đại, được yêu thích vì sự chân thực, sống động mà tác phẩm này đem lại.

Hình tượng độc đáo, mới mẻ của người lính Tây Tiến chính là một trong những lí do khiến bài thơ có sức sống riêng mãnh liệt trong lòng độc giả. Dù chiến tranh đã lùi xa, thế hệ trẻ đã được sống trong hòa bình nhưng mỗi khi đọc "Tây Tiến", ta lại nhớ đến hình tượng người anh hùng kiên cường, bất khuất, dám đương đầu với mọi thử thách nhưng cũng có một trái tim tràn đầy tình yêu.

3. Nét độc đáo, mới mẻ của hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến mẫu 2

Quang Dũng - một nhà thơ, người nghệ sĩ đa tài và ông cũng đã từng là một người chiến sĩ cách mạng (đại đội trưởng của đoàn quân Tây Tiến). Quang Dũng sáng tác bài thơ "Tây Tiến" tại Phù Lưu Chanh, khi Quang Dũng rời binh đoàn Tây Tiến, chuẩn bị đến nhận công tác ở một đơn vị khác, "Tây Tiến" đối với nhà thơ là một thời đáng nhớ, một thời kì gian khổ nhưng rất đỗi anh hùng. Và "Tây Tiến" còn gắn liền với những đồng đội của ông, đó là những chiến binh Tây Tiến hào hoa, bi tráng.

Không khó để người đọc có thể nhận ra vẻ đẹp hào hùng, oai phong và hiên ngang của những người lính Tây Tiến. Bởi ngay từ những câu thơ đầu tác giả đã nói về hoàn cảnh sống và chiến đấu của chiến sĩ, những người lính Tây Tiến sống và chiến đấu trong điều kiện đầy gian khổ, khắc nghiệt, trải qua và đương đầu với vô vàn khó khăn thử thách. Đó là sự khắc nghiệt của địa bàn hoạt động hiểm trở

"Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời"

Tác giả đã sử dụng các từ láy có sức gợi rất hiệu quả "khúc khuỷu" diễn tả con đường nhỏ vắt qua những sườn núi cao chênh vênh, đường đi ngoắt ngoéo, gập ghềnh, "thăm thẳm" mô tả độ cao của con dốc và độ sâu của vực núi, thêm vào đó là không gian "heo hút" hoang vu, quạnh quẽ thiếu bóng dáng con người. Điệp từ "dốc" lặp lại giống như diễn tả những con dốc cứ liên tiếp hiện ra tương ứng với những thử thách đối với người lính. Không chỉ địa hình khắc nghiệt mà thời tiết nơi miền núi Tây Bắc cũng khắc nghiệt:

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm"

Trong hoàn cảnh bị bệnh tật hoành hành đặc biệt là bệnh sốt rét rừng khiến cho các chiến sĩ bị rụng tóc, ốm yếu xanh xao như màu lá, hơn thế lại luôn phải đối mặt với thú dữ rình rập. Khắc nghiệt là vậy nhưng người lính Tây Tiến vẫn giữ vững tư thế hiên ngang bất khuất trước những thử thách "Mường lát hoa về trong đêm hơi" là hình ảnh tưởng tượng của người lính tô đậm tâm hồn lãng mạn của người lính, "Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người" cho thấy thái độ ngạo nghễ, hiên ngang đối mặt với những thú rừng nguy hiểm. Có thể nói người lính đã hoà nhập vào cuộc sống hoang dã nơi này, hoà nhập với thái độ chủ động, tinh thần lạc quan, yêu đời. Quang Dũng mang đến cho chúng ta một cái nhìn thật mới mẻ và độc đáo về người lính, đó không chỉ là vẻ đẹp kiêu hùng, bất khuất còn là sự hào hoa lãng mạn, tâm hồn thơ mộng.

"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ"

Trước vẻ đẹp của con người và văn hoá miền Tây Bắc Tổ quốc đã khiến những người lính Tây Tiến ngây ngất đắm say. Doanh trại là nơi gắn liền với những quy định, kỉ luật nghiêm khắc nhưng nay lại tràn ngập ánh sáng và màu sắc lãng mạn với hội đuốc hoa. Hình ảnh các thiếu nữ vùng sơn cước xúng xính trong những bộ váy xiêm y khiến người như bị choáng ngợp trong những cảm xúc lãng mạn. Người lính không chỉ ngỡ ngàng mà còn đắm say thưởng thức vẻ đẹp ấy với trí tưởng tượng của tình yêu, cuộc sống.

"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

Trong tâm hồn người lính có mộng và mơ, mộng là giấc mộng công danh, khát vọng lập công xuất phát từ lòng yêu nước. Còn mơ ấy là giấc mơ gửi về mảnh đất quê nhà, gửi đến các thiếu nữ hà thành duyên dáng mang khát vọng về tình yêu đôi lứa xuất phát từ khát vọng hạnh phúc của tuổi trẻ. Như vậy người lính Tây Tiến mang khát vọng tình yêu đôi lứa vẫn luôn hướng tới khát vọng hoà bình của dân tộc. Có lẽ chẳng ai nói về người lính mà lại nhắc đến cái chết nhiều như Quang Dũng, nhưng chính điều đó đã khẳng định vẻ đẹp đậm chất bi tráng của người lính Tây Tiến:

"Anh bạn dãi dầu không bước nữa,

Gục lên súng mũ bỏ quên đời"

"Áo bào thay chiếu anh về đất,

Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

Mặc dù cái chết là điều khắc nghiệt nhất của chiến tranh nhưng tác giả không những không né tránh mà còn đề cập rất nhiều lần. Phải chăng với Quang Dũng cái chết đã không còn là thảm hoạ ám ảnh nữa mà trở thành nhiệm vụ tất yếu thiêng liêng và cao cả. "Không bước nữa" không phải không bước được nữa, "bỏ quên đời" không phải bị đời bỏ quên mà là chủ động dừng bước, chủ động đón nhận cái chết với tư thế sẵn sàng, coi như hoàn thành nhiệm vụ tất yếu. Những từ Hán Việt như "biên cương", "mồ", "viễn xứ", "áo bào", "khúc độc hành" cùng nói đến một thực tế rằng người lính khi hi sinh phải gửi thân mình dưới lòng đất với những nấm mồ vô chủ rải rác nơi biên cương hoang lạnh. Đó là sự bất hạnh và khốc liệt của chiến tranh và tác giả gửi vào đó sự kính cẩn nghiêng mình trước sự ra đi cao cả của đồng đội. Người lính khi đối diện với cái chết hoàn toàn bình thản, chủ động "Chiến trường đi chẳng tiếc trời xanh". Người lính dứt khoát, không đắn đo hay lưu luyến, tiếc nuối điều gì, không ham sống sợ chết mà sẵn lòng "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", "anh về đất" coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, chết cũng giống như bao nhiệm vụ khác. Để làm nổi bật hình tượng người lính Tây Tiến với vẻ đẹp độc đáo và mới lạ tác giả đã tận dụng tối đa sức biểu đạt của phép tương phản giữa hoàn cảnh chiến đấu với thái độ, tư thế và phẩm chất người lính. Bên cạnh đó việc sử dụng từ chỉ địa danh đã gợi tả vùng đất xa xôi, gợi kỉ niệm về một thời chiến đấu gian khổ. Ngoài ra còn rất nhiều những từ láy tượng hình tô đậm vẻ đẹp người lính, phép điệp từ, điệp vần và hình ảnh nhân hoá.

Trong bài thơ "Tây Tiến" Quang Dũng đã có những tái hiện đầy tinh tế về vẻ đẹp của hình tượng người lính, những câu thơ nói về người lính vừa lãng mạn, vừa đậm chất sử thi mang âm điệu hào hùng rắn rỏi. Nhờ đó mà hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên trong lòng người đọc trở nên đẹp lí tưởng, vừa hào hùng, hào hoa lại đậm chất bi tráng.

4. Nét độc đáo, mới mẻ của hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến mẫu 3

“Tây Tiến” là 1 trong những bài thơ hay, tiêu biểu của Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian.

Có người đã từng nói: Nếu chọn 5 tác giả tiêu biểu nhất của thời kỳ chiến tranh chống Pháp (1945-1954) thì chắc hẳn sẽ không có Quang Dũng, nhưng nếu chọn 5 bài thơ tiêu biểu nhất của thời kỳ chiến tranh chống Pháp này thì nhất định bài thơ “Tây Tiến“ của Quang Dũng sẽ đứng ở hàng danh dự. Một nhận xét mà theo tôi nó rất thỏa đáng đối với một bài thơ hay như thế.

“Tây Tiến” là một bài thơ hay nhất, xuất sắc nhất, không chỉ trong đời thơ Quang Dũng, mà là cho cả thời kỳ thơ ca kháng chiến chống Pháp. Với bài thơ này khi đọc lên độc giả thấy tràn ngập một nỗi nhớ Tây Tiến (Đoàn binh). Do nỗi nhớ như thế, cho nên hình tượng trung tâm của bài thơ là người lính. Và người lính Tây Tiến được Quang Dũng vẽ lên bằng một nét độc đáo, mang vẻ đẹp kiêu hùng, hào hoa và đầy thơ mộng.

Đoàn quân Tây Tiến được thành lập năm 1947, phần lớn là nhưng học sinh, sinh viên, trí thức Hà Nội tuổi mới đôi mươi mặc áo lính đi lên chiến trường miền Tây đầy gian nan, khổ ải. Cái chiến trường miền Tây ấy lại gắn bó với đoàn quân Tây Tiến suốt chặng đường dài hành quân. Trong thời gian chiến đấu, sống chung cùng đoàn quân Tây Tiến đã làm cho Quang Dũng càng thêm gắn bó với đồng đội, với núi rừng miền Tây đầy khốc liệt, dữ dội, song cũng không kém phần thơ mộng. Và do yêu cầu công tác Quang Dũng phải xa đoàn quân Tây Tiến. Xa Tây Tiến được một thời gian Quang Dũng cảm thấy nhớ cồn cào, da diết, cháy bỏng. Nỗi nhớ ấy được tích tụ theo năm tháng dần lớn lên và có nguy cơ nổ tung, bật trào ra thành thơ:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi

Rồi cứ từ đó tứ thơ tuôn trào như suối chảy ven dòng sông Đáy thơ mộng, hiền hòa năm 1948.

Đi suốt bài thơ “Tây Tiến” ta thấy có hai hình tượng là đoàn quân và thiên nhiên núi rừng Tây Bắc. Đoàn quân ấy, thiên nhiên ấy hòa quện vào nhau tạo nên nét đa thanh cho bài thơ. Có thiên nhiên dữ dội, mới có những con người oai hùng; có thiên nhiên mơ mộng, mới có những con người mộng mơ…Người lính nổi lên giữa thiên nhiên với một vẻ đẹp lung linh, kỳ diệu.

Vẻ đẹp độc đáo của người lính Tây Tiến, trước hết là một vẻ đẹp bi mà không lụy. Đó là một vẻ đẹp kiêu hùng của người lính một ra đi không bao giờ trở lại. Đã mang áo lính, mang chí lớn quyết quét sạch quân thù ra ngoài biên ải thì có lẽ nào lại nản lòng, có lẽ nào lại không kiêu hùng. Tuy rằng biết khi ra đi là phải chịu nhiều gian khổ, hy sinh, nhưng người lính ấy vẫn ra đi không hẹn ngày trở về.

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường lát hoa về trong đêm hơi.

Chặng đầu hành quân cũng khá vất vả mà cũng khá nên thơ. “Đoàn quân mỏi” bị lấp đi bởi những màn sương giăng giăng mờ ảo như thực, như hư. Đoàn quân ấy ta tưởng tượng như đang đi trên mây khói điệp trùng để rồi thoảng hiện ra một “đêm hơi”, “hoa về” ở Mường Lát thật dịu nhẹ, tha thiết.

Cảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc rất dữ dội, khắc nghiệt. Cho nên đoàn quân Tây Tiến đa số là người Hà Thành này phải đối chọi với biết bao nguy nan đang rình rập trên đường hành quân và có những người phải tách khỏi đội hình nằm lại phía sau:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ, bở quên đời.

Đây là một cái chết rất nhẹ nhàng, thanh thoát mang dáng quân hành rất đậm nét, một cái chết thanh thản nhẹ tựa lông hồng. Những người còn lại, lại tiếp tục hành quân và cũng gặp không biết bao nhiêu là nguy khốn:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Sống chung với loài thú dữ, nhất là cọp thì đó quả là một tinh thần gan góc của người lính. Chất anh hùng ấy như toát lên bao nhiêu phẩm chất kiên trung của người lính và đặc biệt là người lính nơi thành phố lần đầu tiên lên rừng núi mà đã phải đến địa danh Mường Hịch nghe cọp gầm gào suốt đêm thì thật là khiếp sợ.

Cảnh núi rừng hoang dại, ma thiêng nước độc đã làm cho người lính phải lao đao khốn khó chống lại với bệnh tật, nhất là bệnh sốt rét:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Một hiện thực hiện lên thật khốc liệt và đau đớn, bệnh sốt rét đã làm cho những người lính trọc hết tóc, tiều tụy đến kinh người khi da xanh nhợt nhạt vì bệnh tật. Nếu không có ba chữ “dữ oai hùm” thì hẳn câu thơ đã miêu tả người lính vào cái bi lụy. Nhờ có ba chữ ấy mà miêu tả cái bi như vậy nhưng vẫn giữ được hiện thực tàn khốc của bệnh tật. Song cũng nhờ cái bệnh tật đoa Quang Dũng đã đẩy cái bi lên cái tráng làm cho người chiến sĩ ốm mà chẳng yếu. Đó chính là con mắt nhìn thẳng vào những mất mát do chiến tranh mà Quang Dũng đã không hề né tránh. Đặc biệt khi cái chết nổi lên rõ mồn một dọc dài biên giới mà họ vẫn còn “chẳng tiếc đời xanh”:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

“Mồ viễn xứ” rải rác khắp biên cương làm ớn lạnh khi người ta chứng kiến. Một câu thơ mang đầy nét sầu thảm, đau thương. Những cái chết chất ngất, rải ra suốt dọc dài biên giới như những cô hồn không nơi nương tựa. Song với Quang Dũng nhìn thẳng vào hiện thực đó để nhận thấy sự dũng cảm của người lính cứ mỗi lúc lại trào dâng. Do đó “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, có lẽ cũng là một ý tưởng một ra đi thì không bao giờ trở lại. Câu thơ này gợi cho ta nhớ tới câu thơ của Thâm Tâm và câu thơ của Nguyễn Đình Thi:

Chí nhớn không về bàn tay không?

(Tống biệt hành)

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

(Đất nước)

Bản chất anh hùng đó chiếu rọi vào cái bi lại càng thấy thêm phần bi tráng:

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

“Về đất”- một câu nói thật nhẹ nhàng, thanh thản. “Về đất” là về với nơi yên nghỉ cuối cùng khi con người đã hoàn thành xong sứ mênh lịch sử vẻ vang của mình. Hình ảnh “áo bào” thật đẹp, mang dáng dấp cổ kính nên thơ. Quang Dũng dùng hình ảnh này có lẽ là để cho câu thơ có dáng vẻ trang nhã, làm vợi đi nỗi đau khi người lính phải từ biệt cõi trần.

Người tử chiến nếu không so le với lý tưởng tiến bộ nhất của thời đại mình thì cái chết đó sẽ được đời đời ghi nhớ. Sự ghi nhớ tiếc nuối ấy không chỉ đối với con người, mà sự ghi nhớ, tiếc nuối còn thấm cả vào cả vật vô tri, vô giác. Ở Tây Tiến trước sự hy sinh của người lính sông Mã cũng thấy hãng hụt, gầm gào thương nhớ và gầm gào căm ghét kẻ thù xiết bao, muốn cuốn phăng đi những kẻ cướp nước, xóa tan đi đêm trường nô lệ.

Chất anh hùng không phải là một nét riêng của nhà thơ Quang Dũng đã thể hiện trong bài thơ “Tây Tiến” này, mà chất anh hùng của người lính trong thời đại đao binh đã được khá nhiều nhà thơ, nhà văn khai thác. Tuy nhiên, để có một chất anh hùng bi tráng của người lính Tay Tiến thông qua bài thơ cùng tên của thi sĩ Quang Dũng thì dường như nhưng xtcas phẩm khác là không có. Cho nên, chất anh hùng bi tráng ở “Tây Tiến” vẫn được coi là một vẻ đẹp hết sức độc đáo.

Chất anh hùng gắn liền với lãng tử thì chất anh hùng đó càng nên thơ. “Tây Tiến” của thi sĩ Quang Dũng đã hòa chộ hai phẩm chất đó vào nhau để tạo cho người lính vốn đã anh hùng thì lại càng anh hùng hơn, ấy là nét đẹp hào hoa, mơ mộng. Có thể nói nét đẹp hào hoa, mơ mộng là một nét đẹp độc đáo trong nét đẹp độc đáo của người chiến binh Tây Tiến. Chúng ta sẽ bắt gặp một “hội đuốc hoa” hết sức phong tình, ý vị:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khen lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.

Một cảnh sinh hoạt ấm áp tình quân dân. Cảnh sinh hoạt đó thật hiếm có trong lửa đạn chiến tranh. Ở đây cảnh sinh hoạt thật dịu nhẹ như một bức tranh sơn thủy hữu tình thật lãng mạn, thật nên thơ biết bao. Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa ”kéo theo mọi tầm hồn vào cuộc vui ca hát, thả hồn cho gió trăng, chơi vơi cùng sương gió, đắm say từng nốt nhạc, ý thơ. Đặc biệt khi trong đêm hội đuốc hoa lại có những nàng sơn nữ xinh xắn rực rỡ sắc màu đã chắp cánh cho tâm hồn người lính vốn đã đắm say thì lại càng đắm say, mơ mộng. Hai tiếng “kìa em” hiện lên như một nét lếnh loáng, mơ hồ làm cho khoảng không dìu dịu mơ những ảnh mắt, nụ cười tình tứ khiến cho những nàng sơn nữ phải “e ấp” theo tiếng khèn” man điệu”.Cảnh sinh hoạt “hội đuốc hoa” chỉ diễn ra đơn giản như vậy, song nó mang đậm tính trữ tình khiến cho người lính khoác ba lô đi dọc khắp chiến trường vẫn còn mang theo như là động lực, càng thôi thúc người lính chiến đấu đến cùng với kẻ thù. Cái khát khao trở lại cuộc sống thanh bình sinh hoạt vui tươi, rộn ràng như thế càng bùng cháy khát vọng lập chiến công của người lính. Một thoáng mơ mộng, một thoáng lãng mạn cũng là vũ khí, thứ vũ khí vô hình mà lại hữu hình. Cảnh sinh hoạt “hội đuốc hoa” ngân theo khoảng không đi theo người lính tới tận thủ đô Viên Chăn của nước bạn Lào, và thế là người lính lại ngợp hồn thơ, run rún cho những ước mơ chơi vơi tan vào khoảng không đầy mùi khói lửa của chiến trang để nhớ về nơi thanh bình:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

Những hình ảnh ”người đi Châu Mộc”, “hồn lau nẻo bến bờ”, “dáng người trên độc mộc”, “hoa đong đưa” được người lính nhớ tới bằng cả tâm hồn thơ trẻ của mình nâng con người trở nên lãng mạn hơn.

Hào hoa, phong nhã, mơ mộng là những nét hết sức tài tử của người chiến binh Tây Tiến. Người chiến binh Tây Tiến trong trận địa thì anh dũng xông pha, trong mơ mộng thì lãng mạn bay bổng. Tuy nhiên sự mơ mộng của người lính Tây Tiến chủ yếu là mơ mộng một cách lãng mạn, song cũng có những cái mơ mộng cũng hết sức hiện thực:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Những câu thơ kiểu như thế này một thời đã làm cho Quang Dũng phải gánh chịu biết bao nhiêu họa. Và tất nhiên bản thân những câu thơ đó cũng bị tơi bời “trận đánh”, hết những cây bút nọ, lại đến cây bút kia chỉ trích là “tiểu tư sản”, “buồn rớt”, “mộng rớt”. Có lẽ cũng chính vì vậy, mà sau này người ta đem ra suy xét lại, khẳng định nội dung lại thì những câu thơ bị “lên bờ, xuống ruộng” một thời thì giờ đây lại là những câu thơ ngọc ngà nhất. Nói như vậy là tôi không có ý nói tới những câu thơ tầm thường, đơn giản đã từng bị phê phán một thời mà nay lại trở thành những câu thơ hay được như thơ của Bút Tre chẳng hạn.

Hai câu thơ được lọc qua một tâm hồn hào hoa, mơ mộng, lãng tử thì nó cũng mang một dáng dấp như vậy:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Chất anh hùng lại hiện lên khi một ước vọng lại ngân dài, khát khao chiến thắng. Đôi ”mắt trừng” “gửi qua biên giới” là đôi mắt dữ dội, quắc lên vẻ anh hùng muốn giết giặc lập công. Đó là một ước mơ lớn mà bất kỳ một người lính Tây Tiến nào cũng nghĩ tới: chỉ mong diệt được nhiều thù bảo vệ quê hương xóm làng. Song người lính Tây Tiến cũng mang nỗi nhớ của mình nhớ về người thiếu nữ Hà Nội, đó chính là vũ khí làm cho cái mơ ước giết giặc lập công càng cháy bỏng hơn. Với những kỷ niệm một thuở cắp sách tới trường cùng với người yêu dấu, với nụ hôn vụng dại sẽ là hành trang lấn lướt cuộc chiến tranh đầy gian nan khổ ải. Chế Lan Viên đã từng nói về một kỷ niệm như thế:

Kỷ niệm có gì? Một chiếc hôn

Cũng là vũ khí mười năm ta đánh giặc

Ai thử lao qua cuộc chiến tranh mà không có nơi mơ mộng thì khó có thể nhân sức mạnh nội lực và lại càng khó có thể có những chiến công hiển hách. Vì vậy sự mơ mộng của người lính Tây Tiến ở đây tuy nó có mang một nỗi buồn vì phải xa quê hương, xa người yêu. Nhưng nỗi buồn đó là một nỗi buồn sầu hận trút lên đầu kẻ thù xâm lăng.

Vẻ đẹp hào hoa, phong nhã, lịch lãm, mơ mộng là một vẻ đẹp hết sức độc đáo và chỉ có ở “Tây Tiến” của thi sĩ Quang Dũng mới có.

Người chiến binh Tây Tiến hiện lên trong bài thơ cùng tên của Quang Dũng mang một vẻ đẹp hết sức độc đáo: kiêu hùng, hào hoa, mơ mộng. Vẻ đẹp độc đáo đó của người lính đã kết hợp hài hòa với nhau tạo cho người lính Tây Tiến không những là người chiến sĩ trong trận mạc, mà còn là người chiến sĩ trong tâm hồn nghệ sĩ. Do đó, chỉ có những người lính mang cả hai vẻ đẹp như vậy mới băng qua cuộc chiến tranh hết sức lạc quan và tin tưởng ở ngày mai chiến thắng.

5. Nét độc đáo, mới mẻ của hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến mẫu 4

Mỗi lần nhắc tới nhà thơ Quang Dũng là mọi thế hệ độc giả yêu thơ lại nhớ tới một hồn thơ phóng khoáng, lãng mạn và tài hoa. “Tây Tiến” là một tác phẩm đặc sắc cho phong cách thơ của nhà thơ Quang Dũng. Thông qua tác phẩm tác giả đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến một thời và mãi mãi với vẻ đẹp hùng tráng đầy ấn tượng.

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Đoàn binh Tây Tiến được thành lập đầu năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như ở miền Tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa (Lào). Chiến sỹ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên, chiến đấu trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội.

Người lính Tây Tiến hiện ra với một hình dáng đặc biệt và lạ lùng khiến người đọc cảm thấy thương xót:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Quang Dũng miêu tả sự thật về đời sống chiến đấu gian khổ của người lính Tây Tiến vừa thiếu ăn vừa phải đối mặt với căn bệnh sốt rét rừng. Điều này làm cho diện mạo của các anh trở nên khác lạ "không mọc tóc”, da “xanh màu lá”. Với nét vẽ “không mọc tóc” của tác giả Quang Dũng chúng ta có thể hiểu theo hai cách. Người lính Tây Tiến cạo trọc tóc để thuận tiện trong chiến đấu, cũng có thể hiểu đó là hậu quả của những trận sốt rét rừng đã hành hạ họ. Với nét vẽ “xanh màu lá” cũng có hai cách hiểu. Xanh là sắc xanh của lá ngụy trang hay làn da xanh xao, ốm yếu của người chiến sỹ. Dù hiểu theo cách nào thì điều tác giả muốn gửi gắm chính là những khó khăn, gian khổ mà đồng đội mình đã trải qua:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”

Với nhà thơ Quang Dũng vẫn là hình dáng không mọc tóc, xanh màu lá ấy nhưng câu thơ còn gợi lên cái khẩu khí ngang tàn, cái khí thế của người lính. Nghệ thuật đảo trật tự từ “không mọc tóc” cho thấy tư thế ngạo nghễ của những chàng trai Tây Tiến. Cách nói “dữ oai hùm” tạo cho người lính dáng vẻ oai phong như con hổ chốn rừng thiêng để chế ngự sự khắc nghiệt của thiên nhiên, của hoàn cảnh.

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Câu thơ đầu tiên đề cập đến lí tưởng sống và chiến đấu của người lính Tây Tiến. Lí tưởng ấy được gửi gắm qua ánh “mắt trừng” giận dữ, nảy lửa làm kẻ thù phải xóa bỏ đi tham vọng, họ muốn lập công giết chết lũ giặc xâm lược. Song hành cùng lòng căm thù chính là nỗi nhớ quê hương, gia đình, người thân đặc biệt là nỗi nhớ “dáng kiều thơm”. Dáng kiều thơm là ai vậy? Có thể là hình bóng Hà Nội trong nỗi nhớ người lính: vàng son, thanh lịch, hoa lệ. Cũng có thể hiểu đó là người con gái thanh lịch, yêu kiều. Dáng kiều thơm gợi tả cả vóc dáng, hương sắc của người thiếu nữ.

Bốn câu thơ cuối đã lột tả một cách trần trụi về sự thật tàn khốc của chiến tranh. Nhưng với cảm hứng lãng mạn và bút pháp bi tráng tác giả đã tái hiện lại cái chết ấy một cách độc đáo, khác thường mang màu sắc bi tráng:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Trên con đường hành quân các chiến sỹ đã gặp rất nhiều nấm mồ của những người đồng đội nằm lại ven đường hành quân, các anh nằm lại đó cô đơn, côi cút, lạnh lẽo. Điều đặc sắc ở đây là câu thơ của Quang Dũng không gây cảm giác bi lụy mà để lại trong lòng người đọc cảm giác bi tráng, oai hùng. Tác giả dùng một loạt các từ Hán Việt: "biên cương, viễn xứ" tạo sắc thái trang trọng, thiêng liêng, nâng tầm cái chết của người lính. Sức mạnh thiêng liêng giúp người lính vững bước trên con đường hành quân chính là quan niệm lí tưởng về lẽ sống và cái chết. Họ luôn tâm niệm “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. “Đời xanh” là hình ảnh ẩn dụ chỉ tuổi thanh xuân của các chàng trai. Họ cống hiến cho quê hương cho đất nước cả tuổi thanh xuân của mình.

Khi xông pha chiến trường không ai nói trước được sự sống và cái chết:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Một sự thật đau xót hiện ra khiến con tim chúng ta tan nát, khi người chiến sĩ nằm xuống manh chiếu bọc thây cũng không có. Với cái nhìn thương yêu, trân trọng, Quang Dũng đã khâm liệm đồng đội mình trong tấm chiến bào sang trọng của ngôn từ. Họ đã “về đất”, đã trở về với cát bụi. Đất mẹ dang rộng vòng tay đón các anh vào thế giới vĩnh hằng của cha ông. Đất êm đềm đón nhận người lính còn sông Mã hùng vĩ cất lên âm hưởng hùng tráng đưa các anh vào thế giới vĩnh hằng.

Những vần thơ của nhà thơ Quang Dũng đã khắc họa phần nào cuộc sống thiếu thốn của đoàn quân Tây Tiến. Đối với họ cái chết không phải là cái đáng sợ, với họ được cống hiến tuổi xuân cho quê hương cho đất nước là một niềm hạnh phúc. Tác giả đã xây dựng thành công bức tượng đài bất tử về người lính một thời và mãi mãi.

Đánh giá bài viết
1 11.072
Sắp xếp theo

    Ngữ văn lớp 12

    Xem thêm