(*) Bài viết tham khảo:
- Với bề dày truyền thống ngàn năm văn hiến, Việt Nam có một kho tàng vô cùng phong phú các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Kho tàng đó là nguồn tài nguyên nhân văn quý giá để các thế hệ hôm nay kế thừa, khai thác, phát huy phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội.
- Việc cân đối, hài hòa giữa bảo tồn di sản với phát triển kinh tế - xã hội là khuynh hướng ứng xử với di sản lý tưởng nhất và được khuyến khích nhất. Khi gắn phát triển du lịch với công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản, chúng ta sẽ đạt được “mục tiêu kép” vừa bảo vệ được di sản, vừa đạt được mục tiêu kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế, đây cũng là một bài toán khó không dễ gì thực hiện và hiện nay chỉ có một số di sản đạt tới.
+ Hội An là một ví dụ tiêu biểu về sự kết hợp hài hòa giữa bảo tồn di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội. Các ngôi nhà cổ với những nét kiến trúc Nhật Bản và Trung Hoa đa phần được quan tâm trùng tu, tôn tạo, bảo vệ đúng quy cách; các đền, chùa, hội quán vẫn giữ được bản sắc riêng; những đêm Rằm phố cổ vừa giữ được không khí cổ xưa, vừa mang hơi thở cuộc sống mới…
+ Quần thể di tích cố đô Huế, sau một thời gian bị UNESCO đưa vào “danh sách đen”, đến nay đã trở thành nơi bảo tồn khá tốt các giá trị cảnh quan, kiến trúc, nghệ thuật cũng như các giá trị văn hóa phi vật thể gắn với vùng đất cố đô, với con người Huế. Những kỳ festival với sự góp mặt của các làng nghề thủ công truyền thống, ẩm thực, trang phục phối hợp cùng với các sự kiện văn hóa mới đã ngày càng khẳng định thương hiệu. Năm 2019, tổng lượng khách tham quan các di tích cố đô Huế đạt hơn 3,5 triệu lượt, tổng doanh thu bán vé đạt gần 388 tỷ đồng (tăng 1,6% so năm 2018), doanh thu dịch vụ đạt gần 19 tỷ đồng.
+ Tại Vịnh Hạ Long, sau khi bị UNESCO đưa vào danh sách khuyến nghị, chính quyền tỉnh Quảng Ninh đã có nhiều cố gắng cải thiện và đạt nhiều bước tiến trong việc kết hợp giữa khai thác cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp với những hình thức lễ hội mới như trình diễn đường phố, carnaval, ẩm thực đường phố… Năm 2019, Vịnh Hạ Long đã đón được 4,4 triệu khách, trong đó có 2,9 triệu khách quốc tế, doanh thu từ du lịch đạt 1.237 tỷ đồng.
- Nhằm xử lý mối quan hệ giữa bảo tồn di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội, có thể tập trung vào một số giải pháp như sau:
+ Một là, tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.
+ Hai là, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về di sản.
+ Ba là, phát huy vai trò của cộng đồng trong công cuộc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
+ Bốn là, tận dụng vai trò của các nhà khoa học, chuyên gia, phản biện xã hội trong bảo tồn và phát huy di sản văn hóa.
- Một dân tộc muốn phát triển đi lên không thể không giữ gìn và phát huy các di sản văn hóa quý giá từ quá khứ. Bên cạnh đó, trong quá trình phát triển đòi hỏi sự sáng tạo không ngừng, sự chủ động linh hoạt vận dụng các nguyên tắc khoa học để lựa chọn phương án bảo tồn tối ưu, làm sao vừa khai thác được tiềm năng kinh tế của di sản, vừa giữ gìn được các giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, nghệ thuật của chúng, đồng thời đảm bảo sự phát triển bền vững của di sản.
- Nếu được giao nhiệm vụ tư vấn để bào tồn di tích đó, em sẽ đề xuất việc: ưu tiên bảo tồn nguyên trạng di tích; tiến hành trùng tu, tôn tạo di tích với nguyên tắc: giữ nguyên kết cấu và hình thức ban đầu; hạn chế việc thay thế các chi tiết, vật liệu khác….
- Một số biện pháp bảo tồn và phát huy giá trị của các công trình, di sản văn hóa ở Huế:
+ Trùng tu, tôn tạo các công trình/ di sản văn hóa theo đúng yêu cầu trùng tu; yêu cầu giữ nguyên kết cấu kiến trúc ban đầu…
+ Nghiên cứu và phục dựng thành công nhiều loại hình nghệ thuật, nhiều lễ hội…
+ Tăng cường quảng bá hình ảnh của Huế tới công chúng trong và ngoài nước
+ Bảo tồn giá trị của di tích gắn liền với phát triển du lịch
+ Nâng cao ý thức của người dân trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản.
+…
- Một số di tích lịch sử, di sản văn hóa ở Thừa Thiên Huế:
+ Nhã nhạc cung đình
+ Quần thể di tích Cố đô Huế (Đại nội, Ngọ môn; Điện Thái Hòa; Lăng tẩm các vua Nguyễn; Đàn Nam Giao; Văn Miếu…)
+ Miếu Bà Giàng
+ Lăng mộ và nhà thờ Trần Đình Bá
+ Địa đạo An Hô
+ …
- Vai trò của du lịch đối với công tác bảo tồn di tích lịch sử, văn hóa.
+ Nhu cầu tham quan, tìm hiểu, trải nghiệm của du khách đã thôi thúc các cấp chính quyền và nhân dân biết quý trọng, tự hào, quan tâm hơn nữa đến việc gìn giữ, bảo tồn, phục dựng, phát huy những giá trị của di tích, di sản. Ví dụ: quần thể di tích Cố đô Huế của Việt Nam hiện nay là một trong những địa điểm thu hút khách du lịch trong và ngoài nước. Để bảo tồn và phát huy giá trị của di sản này, tháng 6/2010, chính phủ Việt Nam đã phê duyệt khoản đầu tư 2300 tỉ đồng với mục tiêu: hoàn thiện bảo tồn tổng thể quần thể di tích Cố đô Huế vào năm 2020.
+ Một phần doanh thu từ du lịch đã được tái đầu tư vào việc bảo tồn, tôn tạo, tôn vinh, phục dựng và quản lí di tích, di sản. Các di sản văn hoá phi vật thể nhờ đó cũng được sưu tầm, nghiên cứu, phục dựng, truyền dạy và tổ chức trình diễn,... Ví dụ: để bảo tồn và phát triển Nhã nhạc cung đình (di sản văn hóa phi vật thể), thành phố Huế đã tổ chức nhiều Tour du lịch đưa du khách tới tham quan, trải nghiệm và thưởng thức nhã nhạc.
- Vai trò của lịch sử và văn hóa đối với du lịch:
+ Các di tích lịch sử, di tích cách mạng…. là nguồn tài nguyên quý giá để phát triển ngành du lịch
+ Cung cấp các tri thức để hỗ trợ việc quảng bá, thúc đẩy ngành du lịch phát triển một cách bền vững
+ Cung cấp các bài học kinh nghiệm, hình thành ý tưởng để lên kế hoạch, xây dựng chiến lược phát triển ngành du lịch.
- Các tư liệu số 2, 3, 4 đều phản ánh về: vai trò của lịch sử đối với sự phát triển của ngành du lịch.
- Khi công nghiệp văn hoá phát triển đồng nghĩa với việc các thành tựu của Sử học được quảng bá, lan toả rộng rãi dưới nhiều hình thức sinh động, hấp dẫn. Nhờ vậy, những giá trị và truyền thống lịch sử - văn hoá tốt đẹp ngày càng được củng cố, truyền lại cho các thế hệ sau.
- Mặt khác, sự phát triển của công nghiệp văn hoá đã đóng góp một nguồn lực vật chất đáng kể để tái đầu tư cho công tác nghiên cứu, bảo tồn và phát huy các giá trị của các công trình lịch sử - văn hoá.
- Lựa chọn: phân tích vai trò của sử học với ngành điện ảnh: sử học cung cấp tri thức, ý tưởng và cảm hứng sáng tạo cho ngành điện ảnh. Ví dụ:
+ Bộ phim điện ảnh Thủ lĩnh nô lệ (công chiếu vào năm 1960) được lấy cảm hứng từ cuộc khởi nghĩa nô lệ do Xpac-ta-cút lãnh đạo.
+ Bộ phim điện ảnh Hoàng đế cuối cùng (công chiếu vào năm 1987) được lấy cảm hứng từ cuộc đời của Phổ Nghi - vị vua cuối cùng trong lịch sử phong kiến Trung Quốc.
- Các chất liệu lịch sử - văn hóa cung cấp tri thức, ý tưởng và cảm hứng sáng tạo cho các ngành như xuất bản, điện ảnh, thời trang, kiến trúc,... thông qua các nguồn sử liệu (chữ viết, hình ảnh, hiện vật,...) và các thành tựu nghiên cứu về lịch sử - văn hoá của dân tộc và nhân loại.
- Công nghiệp văn hóa Việt Nam bao gồm các ngành như: Quảng cáo; Kiến trúc; Phần mềm và các trò chơi giải trí; Thủ công mĩ nghệ; Điện ảnh; xuất bản; Thời trang; nghệ thuật biểu diễn; mĩ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; truyền hình và phát thanh; du lịch và văn hóa.
- Theo em, tất cả các ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp văn hóa đều cần sử dụng những chất liệu về lịch sử - văn hóa trong quá trình phát triển.