a) Lời chào cao hơn mâm cỗ: thái độ quý mến, lịch sự quan trọng hơn cả giá trị vật chất của mâm cỗ.
b) Lời nói nhã nhặn, lịch sự không tốn kém gì mà hiệu quả lại lớn.
c) Chiếc kim bằng vàng (vật quý) không ai nỡ uốn làm lưỡi câu (vật tầm thường), vậy người khôn ngoan (hiểu biết) không nên nói nặng lời với nhau (không tương xứng với giá trị của mình)
Tất cả các câu tục ngữ trên đều khuyên mọi người khi giao tiếp cần lịch sự, nhã nhặn.
Văn bản được đặt tên “Đấu tranh cho một thế giới hòa bình", vì vấn đề đặt ra muốn ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hạt nhân thì phải xác định một thái độ hành động tích cực, đấu tranh cho hoà bình vì sự sống của chính con người. Thông điệp này của Mác-két mang ý nghĩa thời đại, có tính nhân văn sâu sắc. Nhan đề ấy thể hiện luận điểm cơ bản của bài văn, đồng thời như một khẩu hiệu, kêu gọi, hướng nhân loại tới một thái độ đấu tranh tích cực.
Chiến tranh hạt nhân xảy ra sẽ phá huỷ, xoá sạch những thành quả tiến hoá của văn minh loài người cũng như tiến trình tiến hoá của sự sống, tự nhiên trên Trái Đất.
Lời cảnh báo của nhà văn G.Macket đã đặt ra trước toàn thể nhân loại một nhiệm vụ cấp bách. Đó là chúng ta phải đoàn kết, kiên quyết ngăn chặn nguy cơ chiến tranh hạt nhân, đấu tranh cho một thế giới hòa bình.
Sự tốn kém và tính phi lí của chiến tranh hạt nhân :
– Sự tốn kém : mỗi chương trình vũ khí hạt nhân tốn hàng trăm tỉ đô la, so sánh gấp hàng trăm nghìn với chi phí y tế, giáo dục.
– Tính phi lí : số tiền cho hủy diệt sự sống lại lớn gấp trăm lần số tiền phát triển, phục hồi sự sống. Chạy đua vũ trang là đi ngược lại lí trí con người và tự nhiên.
Nguy cơ chiến tranh hạt nhân đang đe doạ loài người và toàn bộ sự sống trên Trái Đất. Tác giả đã làm rõ tính nghiêm trọng của nguy cơ này bằng cách lập luận chứng minh.
- Xác định thời điểm cụ thể của thông tin: ngày 8 – 8 – 1986;
- Đưa ra số liệu cụ thể về trữ lượng đầu đạn hạt nhân: 50 000 đầu đạn hạt nhân trên khắp hành tinh;
- Giải thích về khả năng huỷ diệt của nó: mỗi người như đang ngồi trên 4 tấn thuốc nổ, có khả năng huỷ diệt 12 lần toàn bộ sự sống trên Trái Đất, có khả năng tàn phá tất cả các hành tinh đang xoay quanh Mặt Trời, cộng thêm bốn hành tinh khác nữa và phá huỷ thế thăng bằng của hệ Mặt Trời.
Tác giả đã sử dụng phương pháp nêu số liệu, giải thích dựa trên những tính toán lí thuyết khoa học, chính xác, cụ thể hoá để trình bày về nguy cơ của vũ khí hạt nhân.
Luận điểm và hệ thống luận cứ của văn bản:
– Luận điểm: Nguy cơ chiến tranh hạt nhân đang đe dọa toàn thể loài người và sự sống trên trái đất, vì vậy đấu tranh cho hòa bình, ngăn chặn và xóa bỏ nguy cơ chiến tranh hạt nhân là nhiệm vụ thiết thân và cấp bách của mỗi người, toàn thể loài người.
– Hệ thống luận cứ:
+ Cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân làm mất đi khả năng sống tốt đẹp hơn của toàn thế giới. Dẫn chứng: so sánh giữa chi phí cho các lĩnh vực xã hội, cứu trợ y tế, hỗ trợ phát triển sản xuất lương thực, thực phẩm, giáo dục… với chi phí khổng lồ cho việc chạy đua vũ trang, vũ khí hạt nhân từ đó chứng tỏ tính chất điên cuồng, phi lí của các hoạt động này;
+ Chạy đua vũ trang không những là đi ngược lại lí trí của loài người mà còn đi ngược với quy luật tiến hóa của tự nhiên, phi văn minh, phản lại sự tiến bộ của xã hội loài người;
+ Vì vậy phải chống lại chạy đua vũ trang, đấu tranh vì một thế giới không có vũ khí và một cuộc sống hòa bình, công bằng.
Ăn đơm nói đặt: bịa đặt ra những điều không có thực nhằm vu khống cho người khác.
+ Ăn ốc nói mò: nói những điều không đúng sự thật, lời nói chỉ mang tính nửa vời, bâng quơ, không có căn cứ, không chắc chắn.
+ Ăn không nói có: bịa đặt, vu khống, dựng nên những chuyện không có, biến nó thành sự thật để người.
+ Cãi chày cãi cối: lời nói lớn tiếng lấn át đối phương, phản đối đến cùng một điều gì đó không cần biết điều mình nói đúng hay sai, không chịu tiếp thu ý kiến của người khác và chỉ chăm chăm giữ lấy ý kiến của bản thân mình.
+ Khua môi múa mép: nói ba hoa, khoác lác.
+ Nói dơi nói chuột: nói linh tinh, ba hoa nhưng không rõ những điều mình nói có đúng hay không.
+ Hứa hươu hứa vượn: hứa hẹn lấy lòng nhưng không thực hiện
a, Đôi khi người nói phải dùng tới những cách diễn đạt như “tôi được biết”, “tôi tin rằng”, “nếu tôi không lầm thì”, “tôi nghe nói”, “theo tôi nghĩ”, “hình như là”…
- Đảm bảo tuân thủ phương châm hội thoại về chất. Người nói cũng phải dùng cách nói đảm bảo người nghe biết xác thực nhận định, thông tin mà mình được kiểm chứng
b, Đôi khi người nói: như đã trình bày, mọi người đều biết. Cách nói này đều đảm bảo phương châm về lượng
- Mục đích nhấn mạnh ý, chuyển ý, dẫn ý, người nói cần nhắc lại một nội dung nào đó đã nói, giả định là mọi người đã, sẽ biết.
Trong truyện cười Có nuôi được không? với câu nói “Rồi có nuôi được không?”, người nói không tuân thủ phương châm về lượng trong hội thoại. Vì bố của người nói với anh ta đẻ non không nuôi được thì làm sao có anh ta (người nói).
Trả lời:
Hãy chọn các từ ngữ cho bên dưới để điền vào chỗ trống – (…) – trong các câu sau cho thích hợp:
a) Nói có căn cứ chắc chắn là: nói có sách, mách có chứng.
b) Nói sai sự thật một cách cố ý nhằm che giấu điều gì đó là: nói dối.
c) Nói một cách hú họa, không có căn cứ là: nói mò.
d) Nói nhảm nhí, vu vơ là: nói nhăng nói cuội.
e) Nói khoác lác, làm ra vẻ tài giỏi… là: nói trạng.
Các câu sau vi phạm phương châm về lượng như thế nào?
a) Trâu là một loài gia súc nuôi ở nhà. Câu này thừa “nuôi ở nhà” bởi vì từ “gia súc” đã hàm chứa “thú nuôi trong nhà”.
b) Én là một loài chim có hai cánh. Câu này thừa tổ hợp từ “có hai cánh” vì tất cả các loài chim đều có hai cánh.