Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Giải SBT Ngữ văn 10 Kết nối tri thức bài 7

Giải SBT Ngữ văn 10 bài 7: Đọc hiểu và thực hành Tiếng Việt có đáp án chi tiết cho từng câu hỏi chương trình sách mới. Thông qua đây các em học sinh đối chiếu với lời giải của mình, hoàn thành bài tập hiệu quả.

Bài: Đọc hiểu và thực hành Tiếng Việt

Bài tập 1 trang 14 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Đọc lại văn bản Hiền tài là nguyên khí của quốc gia trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 74 - 75) và trả lời các câu hỏi:

Câu 1 trang 14 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Theo bạn, những thông tin nào về bối cảnh, điều kiện ra đời của văn bản được nêu trong SGK cần được đặc biệt chú ý? Tại sao bạn lại xác định như vậy?

Trả lời:

- Năm 1484, Thân Nhân Trung vâng mệnh vua Lê Thánh Tông soạn Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ ba để khắc lên bia đặt ở Quốc Tử Giám.

- Truyền thống dựng bia ghi danh tiến sĩ được khởi đầu từ năm 1484 sau sự kiện này.

- Bài kí của Thân Nhân Trung được khắc trên bia ghi tên các tiến sĩ đỗ năm 1442 (niên hiệu Đại Bảo thứ ba), điều đó có nghĩa là bia được dựng sau kì thi năm 1442 đến 42 năm.

Những thông tin trên rất quan trọng vì nó chứng tỏ đất nước và triều Hậu Lê đang bước vào thời kì phát triển mới, mọi việc đang được xếp đặt lại theo quy củ. Cũng nhờ những thông tin này, người đọc hiểu được tư cách của tác giả là người truyền đạt “thánh ý” thể hiện tư tưởng về văn hóa - giáo dục do vị vua anh minh Lê Thánh Tông đề xướng.

Câu 2 trang 14 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Dựa vào văn bản, hãy liệt kê theo mức độ tăng tiến những việc làm chứng tỏ các “đấng thánh đế minh vương” đã “quý chuộng kẻ sĩ không biết thế nào là cùng”.

Trả lời:

Văn bản đã điểm lại những việc làm chứng tỏ các “đấng thánh đế minh vương” đã “quý chuộng kẻ sĩ không biết thế nào là cùng”:

- Tôn trọng danh tiếng của người thi đỗ (“yêu mến cho khoa danh”).

- Phong chức tước và cấp bậc cho người thi đỗ (“đề cao bằng tước trật”).

- Ghi tên người đỗ đạt nơi trang trọng, ban danh hiệu tiến sĩ, mở tiệc khoản đãi (“nêu tên ở tháp Nhạn, ban danh hiệu Long hổ, bày tiệc Văn hỉ”).

- Dựng bia đá ghi tên người đỗ tiến sĩ ở nhà Thái học của Trường Quốc Tử Giám (“dựng đá đề danh đặt ở cửa Hiền Quan”).

→ Qua những gì đã liệt kê ở trên, có thể thấy sự đãi ngộ của triều đình đối với kẻ sĩ tăng tiến theo thời gian.

Câu 3 trang 14 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Tác giả đã nói như thế nào về tác dụng của việc dựng bia vinh danh những người đỗ đại khoa?

Trả lời:

Tác dụng của việc dựng bia vinh danh những người đỗ đại khoa đã được tác giả nêu rất rõ:

- Khuyến khích kẻ sĩ trông vào mà phấn chấn hâm mộ, rèn luyện danh tiết, gắng sức giúp vua.

- Cảnh báo xu hướng thoái hoá trong lớp người đỗ đạt vốn được triều đình tin dùng (nhờ được ghi tên trên bia mà lòng thiện tràn đầy, ý xấu bị ngăn chặn).

- Góp phần làm chấn hưng đất nước (“củng cố mệnh mạch cho nhà nước”).

Câu 4 trang 14 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Khi soạn bài văn bia, tác giả Thân Nhân Trung nhắm đến đối tượng tiếp nhận chính nào? Hãy nêu những căn cứ mà bạn dựa vào đó để giải đáp vấn đề này.

Trả lời:

Các đối tượng tiếp nhận chính mà tác giả Thân Nhân Trung nhắm đến khi soạn bài văn bia:

- Vua Lê Thánh Tông - người đã ban lệnh cho tác giả viết bài kí đề danh (văn bia).

- Những người đỗ đại khoa qua các kì thi, được ghi danh trên bia đá ở Quốc Tử Giám.

- Tất cả kẻ sĩ và những “ai xem bia? nghĩa là những người có mối quan tâm đến chủ trương phát triển văn hoá - giáo dục của triều đình, đến con đường phát triển của đất nước và nuôi hoài bão phò vua giúp nước.

Để xác định đối tượng chính được tác giả Thân Nhân Trung nghĩ đến đầu tiên, có thể dùng phép suy luận, nhưng suy luận đó phải có căn cứ trong văn bản. Khi bài kí để danh được viết theo uỷ thác thì trước hết tác giả phải nghĩ tới người uỷ thác (ở đây là vua Lê Thánh Tông). Chính câu đầu trong văn bản cho biết điều đó. Tiếp theo, một khi nội dung bài kí mang tính chất răn bảo, thì kẻ được răn bảo phải hiện diện trong đầu của người viết, đó là những người đỗ tiến sĩ qua các kì thi được nhà nước tổ chức định kì. Nhiều câu trong văn bản, nhất là những câu có hình thức nghi vấn đều thể hiện điều này. Câu cuối cùng của văn bản thì nói thẳng về đối tượng “xem bia” (“Ai xem bia nên hiểu ý sâu này”).

Câu 5 trang 14 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Liệt kê các từ ngữ chỉ vua chúa và nhận xét về quy ước xưng hô được thể hiện trong văn bản (Lưu ý: bản dịch đã dùng lại đúng các từ ngữ chỉ vua chúa trong nguyên tác).

Trả lời:

Các từ ngữ chỉ vua chúa được sử dụng trong văn bản: “đấng thánh đế minh vương”, “thánh minh”, “thánh thần”. Các từ ngữ được liệt kê ở trên không nằm trong lời đối thoại trực tiếp với vua mà là từ ngữ dùng để nói về vua với tư cách là đối tượng thứ ba. Tất cả đều toát lên sự tôn kính hết mức, xem vua chúa như đấng siêu phàm, luôn là người anh minh, thấu tỏ mọi điều. Rõ ràng, cách xưng hô này thể hiện uy quyền tuyệt đối của vua chúa trong xã hội phong kiến - một điều được mặc nhiên xem là chân lí, được củng cố bởi học thuyết Nho giáo và toàn bộ các thiết chế xã hội được xây dựng trên nền tảng học thuyết này.

Câu 6 trang 14 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Chỉ ra nét khác biệt về nghĩa giữa ba câu sau:

- Hiền tài là báu vật của quốc gia.

- Hiền tài là vốn quý của quốc gia.

- Hiền tài là nguyên khí của quốc gia.

Theo bạn, từng câu văn trên được dùng trong những ngữ cảnh nào thì phù hợp?

Trả lời:

Ba câu đã nêu tuy có nội dung gần gũi nhưng vẫn toát lên những sắc thái nghĩa khác nhau:

- Câu “Hiền tài là báu vật của quốc gia” so sánh hiền tài với vật thể quý, gợi lên ứng xử cần có là phải nâng niu, gìn giữ, không thể để mất.

- Câu “Hiền tài là vốn quý của quốc gia” xác định hiền tài như một giá trị tinh thần đặc biệt của đất nước, cần trân trọng và biết cách khai thác, phát huy đúng hướng.

- Câu “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” thể hiện một nhận thức có tầm triết học, xem xét vấn đề hiền tài trong mối quan hệ với sự thịnh suy của vận nước, nhìn hiền tài như là yếu tố trung tâm trong cấu trúc xã hội, phải được quan tâm thường xuyên mỗi khi xây dựng các quyết sách của quốc gia.

Bài tập 2 trang 14, 15 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Đọc lại văn bản Yêu và đồng cảm trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 77 - 80) và trả lời các câu hỏi:

Câu 1 trang 14 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Nêu cảm nhận chung nhất của bạn về văn bản Yêu và đồng cảm.

Trả lời:

Bạn có thể nêu cảm nhận chung nhất của mình về văn bản từ các góc độ khác nhau:

- Đặc điểm và tính chất của văn bản (Cũng thuộc loại văn bản nghị luận nhưng văn bản này có điểm độc đáo gì trong cách triển khai, làm sáng tỏ luận đề?).

- Nội dung được văn bản đề cập (Tác giả có kiến giải mới mẻ như thế nào về vấn đề đồng cảm trong thưởng thức, sáng tạo nghệ thuật và trong quan hệ giao tiếp với cuộc đời?).

- Sức thuyết phục của văn bản (Văn bản thuyết phục người đọc bằng yếu tố gì? Ở đây, sự trải nghiệm đã đóng vai trò như thế nào?).

Câu 2 trang 14 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Trong văn bản, từ “đồng cảm” đã được tác giả giải thích như thế nào và từ góc độ nào? Đâu là khía cạnh được chú ý nhấn mạnh?

Trả lời:

Trong văn bản, từ “đồng cảm” đã được tác giả lần lượt giải thích như sau:

- Đồng cảm là khả năng hiểu thấu nỗi niềm của vạn vật và biết cách chia sẻ với chúng.

- Đồng cảm là việc biết đặt mình vào vị trí, trạng thái, tình cảm của đối tượng (thậm chí hoá thân vào đối tượng) khi miêu tả, thể hiện đối tượng đó.

- Đồng cảm là điều kiện thiết yếu để con người có thể bước chân vào thế giới của cái Mĩ.

- Đồng cảm là phẩm chất tự nhiên vốn có ở con người nhưng được bộc lộ rõ nhất trong cách giao hoà với vạn vật của trẻ em.

- Đồng cảm là phẩm chất cần được gìn giữ và phát triển để cho cuộc đời ngày càng tốt đẹp.

Tác giả đã giải thích về từ “đồng cảm” từ góc độ của một người sáng tạo nghệ thuật và là người luôn hướng đến một thế giới đại đồng, bình đẳng.

Một khía cạnh của “đồng cảm” được tác giả chú ý nhấn mạnh là khía cạnh thứ ba: đồng cảm là điều kiện thiết yếu để con người có thể bước chân vào thế giới của cái Mĩ. Nội dung của các đoạn 2, 3, 4, 6 đều góp phần tô đậm, làm rõ khía cạnh này.

Câu 3 trang 14 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Văn bản đã giúp bạn hiểu thêm gì về đặc trưng của nghệ thuật (trong đó có văn học)?

Trả lời:

Văn bản đã đưa lại một số hiểu biết về đặc trưng của nghệ thuật (trong đó có văn học):

- Nghệ thuật thường quan sát, tìm hiểu sự vật, hiện tượng từ góc nhìn thẩm mĩ, đưa lại cho người thưởng thức một cách cảm nhận khác về thế giới.

- Nghệ thuật được tạo nên nhờ tấm lòng đồng cảm với vạn vật và khả năng hóa thân vào mọi sinh thể (có tình), vật thể (không có tình) của người nghệ sĩ, nhằm làm phát lộ tiếng nói riêng của các đối tượng được miêu tả, thể hiện.

- Nghệ thuật là nơi gặp gỡ giữa người sáng tác và người tiếp nhận trong niềm cảm thông, chia sẻ (“Thực ra nếu chúng ta bước được vào thế giới của Mĩ, mở rộng lòng ra để biết đồng cảm nhiều hơn với vạn vật thì sẽ cảm nhận được rõ rệt những tình cảnh ấy”).

Câu 4 trang 14 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Trong văn bản, yếu tố tự sự đã được tác giả sử dụng như thế nào và nhằm mục đích gì?

Trả lời:

Trong văn bản, yếu tố tự sự đã được tác giả sử dụng một cách rất chủ động ở đoạn 1 (“Một đứa bé vào phòng tôi, giúp tôi sắp xếp đồ đạc.”) và đoạn 2 (“Hôm sau tới trường cấp ba dạy nghệ thuật, tôi cũng giảng cho các em thế này...). Các câu chuyện được kể lại khá vắn tắt, đều hướng tới việc làm nổi bật nhận thức của tác giả về vấn đề đồng cảm. Nhờ đưa yếu tố tự sự thể hiện những trải nghiệm riêng vào văn bản, tác giả đã tạo được không khí trò chuyện gần gũi, thân mật, khiến độc giả cảm thấy lí lẽ thuyết phục trở nên dễ hiểu và không hề khô khan. Khi nói về nghệ thuật - một lĩnh vực chú trọng tác động vào người đọc, người xem, người nghe bằng con đường tình cảm - rõ ràng, đây là một sự lựa chọn hết sức phù hợp.

Câu 5 trang 15 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Nêu đánh giá khái quát của bạn về hiệu quả thuyết phục của văn bản trên phương diện lập luận.

Trả lời:

Văn bản đã đạt hiệu quả thuyết phục cao với những nét riêng trong cách tác giả dùng lí lẽ và bằng chứng:

- Lí lẽ thường được nêu lên sau khi tác giả mời người đọc cùng trải nghiệm những tình huống gần gũi trong cuộc sống. Sự thực, bản thân những mẩu tự sự cũng hàm chứa lí lẽ, hay nói cách khác, ở đó lí lẽ và bằng chứng đã quyện chặt vào nhau.

- Lí lẽ thường được triển khai qua những so sánh hợp lí nhằm làm nổi bật vấn đề (ở đoạn 2, tác giả phân biệt cách nhìn nhận thế giới giữa nhà khoa học, bác làm vườn, chú thợ mộc với anh họa sĩ; ở đoạn 4, tác giả nêu sự khác nhau mà thống nhất giữa họa sĩ và nhà thơ trong việc chọn hình thức biểu hiện sự đồng cảm; ở đoạn 5 - 6, tác giả chỉ ra mức độ đồng cảm khác nhau giữa người lớn và trẻ em để nhấn mạnh việc cần học trẻ em ở cách nhìn thế giới).

- Tác giả nêu nhiều bằng chứng lấy từ hội hoạ là lĩnh vực ông rất thông thuộc, nhưng đó đều là những bằng chứng có ý nghĩa điển hình, có thể đại diện cho nhiều lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật khác.

Nhìn chung, cách thuyết phục của tác giả nhẹ nhàng mà thấm thía, xuất phát từ những nếm trải thực tế của một nghệ sĩ thực thụ, luôn đề cao cách sống hồn nhiên và lòng nhân ái.

Câu 6 trang 15 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Nêu một số bằng chứng cho thấy tác giả đã rất quan tâm tới việc đảm bảo mạch lạc và liên kết khi viết văn bản này.

Trả lời:

Văn bản mang màu sắc của một bản phiếm đàm về nghệ thuật nhưng có sự kết nối chặt chẽ giữa các ý, câu, đoạn:

- Chuyện về chú bé giúp tác giả sắp xếp đồ đạc (đoạn 1) thường xuyên được nhắc đến và phát triển trong các đoạn tiếp sau (rõ nhất là trong đoạn 3, 5, 6), tạo thành một mạch ý tưởng xuyên suốt.

- Từ “đồng cảm” liên tục xuất hiện, có thể xem là từ khoá của văn bản.

- Khái niệm “thế giới của Mĩ” cũng được dùng nhiều lần, cho thấy tác giả luôn muốn độc giả nhìn ra đặc trưng của nghệ thuật và hoạt động sáng tạo nghệ thuật.

- Những ví dụ lấy từ hội hoạ được tác giả đưa vào nhiều đoạn của văn bản (đoạn 1, 2, 3, 4) gây được ấn tượng rất rõ rằng tác giả đã duy trì góc nhìn và thể hiện trải nghiệm của mình một cách nhất quán.

Tất cả những điều nêu trên đã chứng minh tác giả luôn có ý thức làm rõ mạch lạc và liên kết trong văn bản.

Bài tập 3 trang 15 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Đọc lại văn bản Yêu và đồng cảm trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 77 - 78), đoạn từ “Tôi phục sát đất tấm lòng đồng cảm phong phú” đến “vạn vật có tình cũng như không có tình” và trả lời các câu hỏi:

Câu 1 trang 15 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Làm rõ mạch triển khai nội dung đoạn văn bằng một sơ đồ đơn giản.

Trả lời:

Câu 2 trang 15 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Tác giả đã “sực nhận ra” những vấn đề quan trọng gì qua cuộc tiếp xúc với chú bé?

Trả lời:

Qua cuộc tiếp xúc với chú bé, tác giả đã “sực nhận ra” những vấn đề quan trọng:

- Đồ vật cũng có linh hồn, cũng có cảm giác dễ chịu hay không dễ chịu trước các kiểu sắp đặt khác nhau của con người. Việc nhận thức được điều này rất có ý nghĩa trong sáng tác, bố cục tác phẩm hội hoạ, nhất là loại hội hoạ về đề tài tĩnh vật. Tương tự như vậy là ý nghĩa của bố cục trong một bài văn miêu tả.

- Người nghệ sĩ dứt khoát phải “có lòng đồng cảm bao la quảng đại như tấm lòng trời đất” - đồng cảm theo nghĩa thấy, nghe, cảm nhận, chia sẻ được với mọi đối tượng khác nhau.

Câu 3 trang 15 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Theo những gì được nói tới trong đoạn văn, bạn hiểu như thế nào về ý nghĩa của sự đồng cảm?

Trả lời:

Theo những gì được nói tới trong đoạn văn, có thể nói về ý nghĩa của sự đồng cảm như sau:

- Đồng cảm giúp con người nhìn thấy được cái đẹp ở mọi nơi, mọi lúc.

- Đồng cảm giúp con người sống hòa đồng với thế giới, biết trân trọng tiếng nói riêng hay đời sống của vạn vật.

Câu 4 trang 15 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Nêu suy đoán của bạn về những điều sẽ được tác giả tiếp tục triển khai sau đoạn văn ở trên. Dựa vào đâu mà bạn có suy đoán như vậy?

Trả lời:

Ngay khi mới đọc đoạn văn trên, có thể suy đoán được phần nào những điều tác giả sẽ tiếp tục triển khai sau đó:

- Đồng cảm là gì? Đồng cảm có biểu hiện thế nào? (Ngay ở đoạn này, từ “đồng cảm” đã được dùng tới bốn lần, có thể được xem như một phát hiện cơ bản của tác giả, đòi hỏi phải được bàn luận thấu đáo.)

- Tác phẩm nghệ thuật cần được cấu trúc thế nào, nhấn mạnh vào điều gì để thể hiện được tấm lòng cảm thông với vạn vật? (Các cụm từ “Từ đó tôi quả thực...; “Bấy giờ tôi mới sực nhận ra.." báo hiệu sự xuất hiện của một ý tưởng mới cần được phát triển trọn vẹn.)

- Người nghệ sĩ cần có hoặc thể hiện được những phẩm chất gì để chứng tỏ “sứ mệnh” đặc thù của mình trong cuộc sống? (Tác giả bước đầu so sánh “người bình thường” với nghệ sĩ trên vấn đề “đồng cảm” - điều phải được bàn sâu hơn mới thực sự khiến vấn đề sáng tỏ.).

Câu 5 trang 15 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Chỉ ra các phương tiện liên kết được sử dụng trong đoạn văn.

Trả lời:

Các phương tiện liên kết đã được sử dụng trong đoạn văn:

- Dùng nhiều lần từ “đồng cảm” trong các câu khác nhau để đảm bảo có một vấn đề đang được tập trung bàn bạc ở đây.

- Các cụm từ “từ đó/ “bấy giờ” báo hiệu sự nối tiếp liên tục theo một mạch thống nhất của các câu trong đoạn văn.

- Các đại từ “chúng”, “đó” “những thứ đó” cho thấy các câu văn kế tiếp nhau cùng nói về một đối tượng.

Bài tập 4 trang 15 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Đọc lại văn bản Chữ bầu lên nhà thơ trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 82 - 84) và trả lời các câu hỏi:

Câu 1 trang 15 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Nhan đề của văn bản đã gợi cho bạn những suy nghĩ gì?

Trả lời:

– Chữ: không chỉ hiểu đơn giản là vỏ âm thanh mà quan trọng đó chính là ngôn ngữ được sử dụng, tổ chức một cách nghệ thuật.

– Chữ bầu lên nhà thơ: là khẳng định vai trò của ngôn ngữ đối với nhà thơ. Ngôn ngữ góp phần: chuyên chở điệu hồn thi nhân; khẳng định tài năng, phong cách của người nghệ sĩ; tôn vinh vị thế nhà thơ.

– Ngôn ngữ là chất liệu, yếu tố đầu tiên của văn học. Ngôn ngữ thơ là tinh hoa tối cao của ngôn ngữ, là kiến trúc ngôn từ đặc biệt.

– Bản chất của thơ là trữ tình. Tiếng lòng của nhà thơ chỉ có thể được vang lên, được hữu hình hóa thành câu chữ, âm thanh, nhịp điệu.

– Lao động thơ thực chất là lao động chữ nghĩa, đòi hỏi tài năng, sự sáng tạo và tâm huyết của nhà thơ.

Câu 2 trang 15 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Bạn thích nhất ý kiến nào được nêu trong văn bản? Vì sao?

Trả lời:

Văn bản tuy ngắn nhưng nêu được nhiều ý kiến rất thú vị của chính tác giả hay của người khác về thơ và về nhà thơ. Có thể chọn một ý kiến bất kì khiến bạn thích thú và cần nêu được lí do khiến bạn có cảm giác như vậy, chẳng hạn:

- Hình thức diễn đạt độc đáo, gây ấn tượng ngay tức khắc.

- Nội dung ý kiến mang đậm tính đối thoại, buộc phải chú ý.

- Ý kiến có tính chất khác thường, khiến ta phải nghĩ lại, nghĩ mới về một đối tượng ngỡ đã quá quen thuộc, không còn gì phải nói nữa.

Câu 3 trang 15 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Các luận điểm chính trong văn bản được xây dựng dựa trên cảm hứng đối thoại với những quan điểm và ý kiến khác về thơ, nhà thơ, lao động thơ, chữ trong thơ. Hãy phân tích một ví dụ lấy từ văn bản để làm sáng tỏ điều này.

Trả lời:

Hầu hết các luận điểm chính trong văn bản được xây dựng dựa trên cảm hứng đối thoại với những quan điểm và ý kiến khác về thơ, nhà thơ, lao động thơ, chữ trong thơ. Bạn có thể chọn một trong các luận điểm đó để phân tích. Trong khi phân tích, phải chỉ ra được thực chất của vấn đề được tác giả đưa ra để xem xét lại và lí do của việc xem xét đó. Ví dụ, với luận điểm: “Tôi rất biết những câu thơ hay đều kì ngộ, nhưng là kì ngộ kết quả của một thành tâm kiên trì, một đa mang đắm đuối, làm động lòng quỷ thần, chứ không phải may rủi đơn thuần” cần phải nói được các ý:

- Quan niệm “những câu thơ hay đều kì ngộ” xuất hiện từ xưa và được nhiều người tán đồng, nhấn mạnh cách sáng tác trông cậy chủ yếu vào yếu tố ngẫu hứng, bột phát, đôi khi may mắn và nhà thơ lúc này như nhận được sự trợ giúp của thần linh.

- Tác giả không bác bỏ yếu tố “kì ngộ” (cuộc gặp gỡ lạ lùng gây cảm xúc hân hoan) nhưng ông cho rằng không nên nghĩ một cách hời hợt về những cái thường được nói tới khi tán đồng quan niệm này như “thần hứng; “thần trợ” Từ kinh nghiệm của bản thân và kinh nghiệm của nhiều nhà thơ khác mà tác giả quan sát được, ông cho rằng cuộc “kì ngộ” ấy chỉ đến một cách có điều kiện, khi nhà thơ đã trải qua nhiều trăn trở, vật vã, tìm cách làm nổi bật được điều thường xuyên ám ảnh mình. Như vậy, không thể sáng tác thơ theo kiểu cầu may, chỉ ngồi chờ thành quả mà không phải “kiên trì, “đa mang “đắm đuối” gì cả.

Câu 4 trang 15 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Quan niệm “Chữ bầu lên nhà thơ” đã được tác giả triển khai như thế nào ở đoạn cuối phần 2?

Trả lời:

Ở đoạn cuối phần 2, tác giả đã triển khai quan niệm “Chữ bầu lên nhà thơ” theo cách:

- Dẫn ý kiến của các nhà thơ, nhà văn lớn trên thế giới (Ét-mông Gia-bét - Edmond Jabès, Gít-đơ - Gide, Pét-xoa - Pessoa), xem như đó là sự hậu thuẫn tích cực cho cách lí giải vấn đề của mình.

- Diễn giải ý kiến của Ét-mông Gia-bét theo hướng bám sát ý tưởng đã được đề cập từ nhan đề và phần đầu văn bản. Nếu trong phát biểu của mình, Ét-mông Gia-bét gần như chỉ nói đến vai trò của sáng tạo ngôn từ trong việc xác định danh vị đích thực của nhà thơ, thì Lê Đạt lại phát triển thêm, cho rằng mỗi lần sáng tạo tác phẩm mới lại một lần nhà thơ phải vật lộn với chữ. Rõ ràng, “nhà thơ” không phải là danh vị được tạo một lần cho mãi mãi. Nó có thể bị tước đoạt nếu nhà thơ không chịu khổ công lao động với ngôn từ mỗi khi viết một bài thơ mới.

Câu 5 trang 15 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Văn bản chủ yếu được viết bằng những câu văn ngắn và xuống hàng liên tục. Mặc dù vậy, người đọc vẫn cảm nhận được một mạch văn, mạch ý thông suốt. Theo bạn, điều gì đã khiến văn bản tạo được ấn tượng ấy?

Trả lời:

Văn bản chủ yếu được viết bằng những câu văn ngắn và xuống hàng liên tục. Mặc dù vậy, người đọc vẫn cảm nhận được một mạch văn, mạch ý thông suốt. Có thể chỉ ra một số lí do khiến văn bản tạo được ấn tượng này:

- Tất cả những điều được viết ra đều cho thấy đó là kết quả của một quá trình nghiền ngẫm lâu dài, có tính hệ thống về thơ với toàn bộ các vấn đề, khía cạnh liên quan.

- Trữ lượng thông tin trong từng câu văn khá dồi dào vì tác giả chọn cách viết nén chặt, cô đúc, gợi nhiều liên tưởng, so sánh. Người biết phát triển các thông tin trong ấy sẽ nhận ra ngay mạch kết nối giữa các câu, các ý bề ngoài tưởng chừng rời rạc.

Bài tập 5 trang 15, 16 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Đọc lại văn bản Chữ bầu lên nhà thơ trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 83), đoạn từ “Tôi rất ghét cái định kiến quái gở” đến “đổi bát mồ hôi lấy từng hạt chữ” và trả lời các câu hỏi:

Câu 1 trang 15 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Đoạn trích cho biết quan điểm của tác giả về vấn đề gì?

Trả lời:

Đoạn trích thể hiện quan điểm của tác giả về sự công phu, nhọc nhằn của hoạt động sáng tạo thơ (hay lao động thơ).

Câu 2 trang 15 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Xác định luận điểm chính của đoạn trích và chỉ ra nét độc đáo trong cách nêu luận điểm của tác giả.

Trả lời:

Luận điểm chính của đoạn trích là bày tỏ sự đồng cảm, đồng tình với những “nhà thơ một nắng hai sương, lầm lũi, lực điền trên cánh đồng giấy, đổi bát mồ hôi lấy từng hạt chữ:

Nét độc đáo trong cách nêu luận điểm của tác giả:

- Đầu tiên, tác giả gây chú ý bằng việc tỏ thái độ bác bỏ thẳng thừng đối với định kiến mà ông gọi là “quái gở”: “các nhà thơ Việt Nam thường chín sớm nên cũng tàn lụi sớm”. Theo ông, đây hẳn là một cách cắt nghĩa hời hợt dựa vào thuyết định mệnh.

- Tiếp theo, tác giả xác định lí do “tàn lụi sớm” không ở chỗ “chín sớm” mà ở thái độ không đúng của nhiều nhà thơ khi nghĩ về nghề và làm nghề - nghề thơ. Quả là nhiều người “chủ yếu sống bằng vốn trời cho” mà theo tác giả, “những người “cho” đều bủn xỉn” chẳng nên kì vọng gì nhiều. Cách liên hệ - so sánh của tác giả rất thú vị, giúp người đọc nhanh chóng nhìn ra bản chất của vấn đề.

- Luận điểm chính của đoạn trích được nêu cuối cùng, sau bước “dọn đường "bằng những lí lẽ phản biện sắc sảo với cả người nêu nhận định về “chín sớm” lẫn những nhà thơ chưa có ý thức đầy đủ về công phu lao động chữ nghĩa của nghề thơ.

Câu 3 trang 15 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Theo bạn, vì sao tác giả ghét cái định kiến cho rằng “các nhà thơ Việt Nam thường chín sớm nên cũng tàn lụi sớm”?

Trả lời:

Tác giả ghét định kiến cho rằng “các nhà thơ Việt Nam thường chín sớm nên cũng tàn lụi sớm” có thể vì:

- Định kiến này xuất phát từ một cách nhìn nhận, đánh giá phiến diện về lĩnh vực sáng tạo thơ.

- Định kiến này có thể ru ngủ nhà thơ, khiến họ cam chịu trước điều vẫn được cho là “định mệnh”, không muốn vượt lên với nỗ lực cao nhất.

Câu 4 trang 16 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Nêu dự đoán về những lí lẽ mà người đọc có thể đưa ra để phản bác ý kiến của tác giả. Về phần mình, bạn muốn đối thoại với tác giả ở điểm nào?

Trả lời:

Ý kiến đã nêu của tác giả đi ngược với quan niệm của nhiều người, cũng là đi ngược với một nhận thức phổ biến lâu nay, nhất là khi thơ lãng mạn đang tạo ảnh hưởng lan rộng trong đời sống văn học. Hiển nhiên, những người không đồng tình với tác giả có thể đưa ra một số lí lẽ phản bác như:

- Không thể bác bỏ sự tồn tại của những yếu tố thường được gọi là “định mệnh” bao hàm trong nhận định “chín sớm nên cũng tàn lụi sớm”. Thực tế văn học có thể cung cấp vô số ví dụ minh chứng cho điều này.

- Không thể đánh đồng lao động thơ với các loại lao động khác. Sự gắng sức, “lầm lũi” lao động, “đổi bát mồ hôi lấy từng hạt chữ” trong sáng tạo nghệ thuật không phải bao giờ cũng đưa lại kết quả như mong muốn. Có khi, nó chỉ góp thêm bằng chứng cho thấy sự bất lực của nhà thơ, người nghệ sĩ mà thôi.

Trên tinh thần tôn trọng sự khác biệt và quan điểm riêng của mỗi người, bạn có thể triển khai cuộc đối thoại với tác giả ở những điểm mà mình có cơ sở để nghĩ khác.

Câu 5 trang 16 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Phân tích nghệ thuật ẩn dụ được sử dụng trong câu cuối của đoạn trích.

Trả lời:

Câu cuối của đoạn trích là: “Tôi ưa những nhà thơ một nắng hai sương, lầm lũi, lực điền trên cánh đồng giấy, đổi bát mồ hôi lấy từng hạt chữ” - ở đây, tác giả đã dùng biện pháp ẩn dụ để biểu đạt luận điểm của mình: một nắng hai sương, lực điền, cánh đồng giấy, hạt chữ. Rõ ràng, đằng sau những từ ngữ ấy là một so sánh ngầm, dựa trên sự phát hiện về mối tương đồng giữa hoạt động sáng tạo của nhà thơ và lao động của người nông dân trên đồng ruộng, xét trên cả hai mặt: sự lao khổ và thành tựu cuối cùng có được. Đối với một đất nước lấy nông nghiệp làm hoạt động sản xuất chính, ẩn dụ này dễ được tiếp nhận một cách thích thú. Nhờ đó, câu văn trở nên dễ hiểu, dễ nhớ, có màu sắc của một châm ngôn.

Bài tập 6 trang 16 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Đọc lại văn bản Thế giới mạng và tôi trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 95 — 96) và trả lời các câu hỏi:

Câu 1 trang 16 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Xác định ý tưởng chính mà tác giả muốn trình bày qua văn bản.

Trả lời:

Ý tưởng chính mà tác giả muốn trình bày qua văn bản: Thế giới mạng đưa lại cho người tham gia một cuộc sống phong phú, đa dạng nhưng cũng đặt ra nhiều thử thách để họ nhìn ra giá trị thật của chính mình và của người khác.

Câu 2 trang 16 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Dựa vào nội dung của văn bản, hãy thử trả lời câu hỏi: Thế giới mạng là gì?

Trả lời:

Dựa vào nội dung của văn bản, có thể trả lời câu hỏi Thế giới mạng là gì? như sau:

- Thế giới mạng tuy ảo mà thật, là nơi mỗi người tham gia tìm được cảm giác bình đẳng với tất cả, có thể đặt mình vào những tư cách, vị trí khác nhau; được tự do thể hiện tâm trạng, cảm xúc.

- Thế giới mạng là thế giới của sự tương tác, chia sẻ, cộng hưởng, giao kết (kết bạn và huỷ kết bạn), cho phép người tham gia được nói, viết những gì mình muốn và lựa chọn, nhưng cũng có tác động ngược trở lại, khiến người nói, người viết có thể phải chịu những “va đập” rất mạnh.

- Thế giới mạng có khả năng mê hoặc rất lớn nhưng đồng thời cũng là sức mạnh có thể huỷ diệt một cá nhân trong chốc lát; có khi nó làm tan loãng những nỗi cô đơn nhưng ngược lại cũng có thể làm nỗi cô đơn thêm “đậm đặc”

- Thế giới mạng làm hiện hình cá tính, tính cách của mỗi người, giúp mỗi cá nhân tự nhận ra con người đích thực của mình.

Câu 3 trang 16 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Bạn có thể nói gì về đối tượng “tôi” được đề cập trong văn bản? Hãy chỉ ra những điểm khiến bạn nhận thấy giữa bạn và đối tượng “tôi” có sự gặp gỡ, tương đồng.

Trả lời:

“Tôi” trong văn bản có thể được hiểu là chính tác giả, cũng có thể là một cư dân nào đó của thế giới mạng. Những điều có thể nói về “tôi”:

“Tôi” là người đã nếm trải nhiều cung bậc cuộc sống mà thế giới mạng đưa lại, vì vậy, có cơ sở và thẩm quyền đưa ra những nhận định bao quát, trầm tĩnh về cõi mạng tuy ảo mà rất thật này.

- “Tôi” có sự chủ động, tự tin khi đối diện với mọi điều phức tạp, xô bồ của thế giới mạng.

- “Tôi” tham gia vào thế giới mạng để có cơ hội hiểu thêm chính mình cũng như cuộc đời nói chung.

Để trả lời ý hỏi sau của câu 3, bạn cần thể hiện được thái độ tự xét mình một cách nghiêm túc. Có thể bạn không thấy sự gặp gỡ, tương đồng nào giữa mình và đối tượng “tôi” nhưng dù sao, qua việc trả lời hai ý hỏi này cũng đã tạo cho bạn một cơ hội tự soi chiếu, điều chỉnh thái độ của mình khi gia nhập cộng đồng mạng.

Câu 4 trang 16 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Theo bạn, điều gì đã làm nên nét riêng của cách nghị luận ở văn bản này?

Trả lời:

Nét riêng của cách nghị luận ở văn bản này:

- Dùng đại từ “ta” (một lần) và “bạn” (thường xuyên) để tạo sự gần gũi trong giao tiếp giữa người viết và người đọc. Với hai đại từ này, tác giả đã khách quan hoá đối tượng “tôi để “tôi” gần như hòa lẫn với người đọc, trong “tôi” có “bạn” trong “bạn” có “tôi”. Người đọc cảm thấy mỗi lời nói đều hướng về mình, nói “câu chuyện” của chính mình, do vậy, dễ có được sự đồng cảm với chính tác giả trên vấn đề đang được bàn bạc. Ở cuối văn bản, đại từ “tôi” mới chính thức hiện diện, cất lên tiếng nói sau cùng của tác giả, thể hiện quan điểm rõ ràng về mối quan hệ giữa thế giới mạng với cuộc sống của mỗi cá nhân.

- Giọng văn dí dỏm đã được sử dụng rất hợp lí, có tác dụng tạo nên không khí dân chủ cho cuộc đối thoại ngầm ẩn được triển khai trong văn bản (mỗi ý hay luận điểm được nêu lên đều kích thích sự kiểm nghiệm, xác nhận từ phía người đọc).

Câu 5 trang 16 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Bạn nhận ra những đặc điểm quen thuộc gì của loại văn bản ta vẫn thường gặp trên mạng xã hội? (Lưu ý: Khi nêu đặc điểm, cần đưa ra các bằng chứng cụ thể).

Trả lời:

Có thể nhận ra ở Thế giới mạng và tôi những đặc điểm quen thuộc của loại văn bản ta vẫn thường gặp trên mạng xã hội:

- Văn bản có kết cấu khá tự do, việc gợi mở, triển khai và kết thúc vấn đề được thực hiện một cách tự nhiên, gây cảm giác người viết đang chuyện trò trực tiếp với người đọc (chính khả năng tương tác cao, nhạy bén của mạng xã hội tạo ra đặc điểm này).

- Văn bản sử dụng nhiều kí hiệu và từ ngữ quen thuộc của loại văn bản trên mạng xã hội. Về kí hiệu, gạch chéo (/) được dùng để chỉ tương quan đồng đẳng giữa các đối tượng được liệt kê và mỗi đối tượng này có thể ứng với một trường hợp nào đó tuỳ người đọc lựa chọn khi liên hệ với bản thân mình. Về từ ngữ, có sự xuất hiện của nhiều tiếng lóng: “nhà” (tài khoản trên mạng của từng cá nhân), “sến như con hến” (thành ngữ mới, chỉ loại văn, lời nói hay kiểu biểu hiện tình cảm sướt mướt quá độ), “tinh tướng” (từ chỉ một kiểu ứng xử có phần “ghê gớm” thái quá, khiến xung quanh phải kiêng dè, nể sợ hoặc chán ghét). Bên cạnh đó là những từ trong tiếng Anh (được để nguyên dạng) chỉ các đối tượng hay hoạt động gắn liền với internet: “status” “comment”, “note”, “entry”.

Bài tập 7 trang 16, 17 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:

Tác phẩm văn học và đọc văn học thật là một hiện tượng diệu kì. Theo các nhà khoa học quan sát, khi chưa đọc, văn bản in chỉ là một vật, một khách thể, nhưng khi đã đọc thì dần dần khách thể đó biến mất, sách vẫn còn đó nhưng đồng thời lại “biến mất” để nhường chỗ cho thế giới hình tượng, sách từ bên ngoài chuyển vào trong nội tâm người đọc, người đọc hóa thân vào nhân vật trong sách. Tại sao khi đọc sách ta bỗng toàn tâm toàn ý suy nghĩ vào những điều chưa bao giờ nghĩ tới? Hoá ra ta suy nghĩ bằng những ngôn từ, hình tượng của nhà văn, còn nhà văn thì phát biểu bằng tâm hồn, trí tuệ của ta! Cho nên tuy biết rõ tác phẩm là của nhà văn mà ta vẫn thấy có toàn quyền giải thích, hứng thú giải thích và khi nói là ta giải thích, ta ấy đâu phải là chính ta! Nhà văn chiếm chỗ trong tâm trí ta, còn ta thì chiếm tác phẩm của họ! Cho nên tác phẩm văn học là một sản phẩm lạ lùng, nó gần như xóa bỏ ranh giới giữa ta và tác giả. Người đọc không phải “đệm? mà đã “chơi” tác phẩm trên bản nhạc của nhà văn, do vậy tùy theo người “chơi” mà tác phẩm có sự khác nhau.

(Trần Đình Sử, Đọc văn học văn, NXB Giáo dục, 2001, tr. 6 — 7)

Câu 1 trang 16 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Xác định câu chủ đề của đoạn trích. Vì sao bạn xác định như vậy?

Trả lời:

Có thể xác định câu đầu tiên là câu chủ đề của đoạn trích: “Tác phẩm văn học và đọc văn học thật là một hiện tượng diệu kì”.

Lí do xác định như vậy:

- Nội dung đoạn trích tập trung bàn về hai khái niệm: “tác phẩm văn học” và “đọc văn học”.

- Tất cả các lí lẽ và bằng chứng được nêu trong đoạn trích đều nhằm làm sáng tỏ tính chất “diệu kì” của tác phẩm văn học và hoạt động đọc văn học.

Câu 2 trang 16 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Theo những gì được tác giả dẫn giải, sự “diệu kì” của tác phẩm văn học và hoạt động đọc văn học thể hiện ở những điểm nào?

Trả lời:

Theo những gì được tác giả dẫn giải, sự “diệu kì” của tác phẩm văn học được thể hiện ở các điểm:

- Tác phẩm văn học không phải là một vật thể bất động (khi bất động, đó chỉ là văn bản - cơ sở tồn tại ban đầu của tác phẩm), mà có sự vận động và biến hóa qua sự đọc, qua từng trường hợp đọc.

- Tác phẩm văn học chứa đựng hình tượng và hình tượng ấy được chuyển hoá vào tâm trí người đọc để biến thành xúc cảm, nhận thức và gây ra những hành động tương ứng với xúc cảm, nhận thức ấy.

Sự “diệu kì” của hoạt động đọc văn học thể hiện ở các điểm:

- Làm sống dậy và cụ thể hoá thế giới hình tượng tồn tại tiềm tàng trong tác phẩm, chuyển hóa nó thành “câu chuyện” của chính bản thân người đọc, buộc người đọc phải “toàn tâm toàn ý” suy nghĩ về nó, cũng có nghĩa là bận lòng, bận trí về “những điều chưa bao giờ nghĩ tới” trước khi đọc văn học.

- Xoá bỏ ranh giới giữa độc giả và nhà văn; độc giả thì “suy nghĩ bằng những ngôn từ, hình tượng của nhà văn”, còn nhà văn thì phát biểu quan niệm, cảm nhận của mình nhờ những hoạt động tích cực của tâm hồn, trí tuệ độc giả.

- Đọc văn học cho phép độc giả có những cách cụ thể hoá khác nhau, diễn giải khác nhau về hình tượng trong tác phẩm. Tất cả những điều này làm cho thế giới hình tượng trở nên có tính chất mở, phát triển phong phú thêm lên qua từng trường hợp đọc.

Câu 3 trang 16 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Dựa vào những trải nghiệm của mình khi đọc văn học, hãy bày tỏ ý kiến về nhận định sau: “Nhà văn chiếm chỗ trong tâm trí ta, còn ta thì chiếm tác phẩm của họt.!”

Trả lời:

Dựa vào những trải nghiệm của mình khi đọc văn học để bày tỏ ý kiến về nhận định: “Nhà văn chiếm chỗ trong tâm trí ta, còn ta thì chiếm tác phẩm của họ!” Các câu hỏi có thể đặt ra để hình thành ý kiến của bạn:

- Trước khi đọc, có phải ta chưa hề nghĩ tới những câu chuyện, sự việc, vấn đề được đề cập, thể hiện trong tác phẩm?

- Sức hút khó cưỡng của tác phẩm có phải là minh chứng sống động cho điều được gọi là “nhà văn chiếm chỗ trong tâm trí ta”?

- Có phải trong khi đọc, ta đã tuỳ ý liên hệ, mở rộng, kết nối những điều được nói tới trong tác phẩm với trải nghiệm của riêng ta? Đây có phải là biểu hiện của hiện tượng người đọc “chiếm tác phẩm” của nhà văn hay không?

Câu 4 trang 16 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Hãy viết thêm từ 1 - 2 câu triển khai ý “tuỳ theo người “chơi” mà tác phẩm có sự khác nhau” được nêu ở cuối đoạn trích.

Trả lời:

Tuỳ theo người “chơi” mà tác phẩm có sự khác nhau. Hiểu như vậy, người đọc có vai trò rất lớn. Đọc văn không bao giờ giản đơn chỉ là đọc văn bản, mà còn bao hàm sự ý thức cả cái cách mà mình hiểu tác phẩm nào đó, là tìm ra cái tác phẩm “của mình”.

Câu 5 trang 17 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Lập luận của tác giả đoạn trích có thể giúp bạn hiểu thêm gì về các thuật ngữ văn bản và tác phẩm?

Trả lời:

Lập luận của tác giả đoạn trích có thể đưa lại những hiểu biết sâu về các thuật ngữ văn bản và tác phẩm:

- Văn bản và tác phẩm chỉ các khái niệm thống nhất nhưng không đồng nhất với nhau.

- Văn bản là cơ sở hay điều kiện tồn tại của tác phẩm, cũng có thể xem là giai đoạn tồn tại đầu tiên của tác phẩm khi chưa xuất hiện người đọc.

- Tác phẩm là văn bản trong sự tiếp nhận của độc giả, có đời sống, sinh mệnh riêng trong thời gian và không gian, ngày càng được bồi đắp thêm những giá trị mới.

Câu 6 trang 17 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Theo bạn, vì sao những từ, cụm từ như “biến mất”, “đệm”, “chơi” lại được tác giả đặt trong ngoặc kép?

Trả lời:

“Biến mất”, “đệm”, “chơi” được tác giả đặt trong ngoặc kép là vì những từ, cụm từ đó không còn mang nghĩa gốc khi được đưa vào văn bản (đoạn trích) và người đọc cần hiểu chúng theo nghĩa ẩn dụ (tác giả đã sử dụng các hình ảnh ẩn dụ để giúp người đọc dễ hiểu, dễ tiếp thu ý tưởng, suy luận trừu tượng của mình).

Câu 7 trang 17 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Phân tích quyền hạn và chức năng của người đọc trong mối quan hệ với tác phẩm văn học.

Trả lời:

Để phân tích quyền hạn và chức năng của người đọc trong mối quan hệ với tác phẩm văn học, bạn cần trả lời được các câu hỏi chính sau:

- Người đọc đóng vai trò gì trong việc tạo nên đời sống đích thực cho tác phẩm? Nếu không có người đọc, tác phẩm sẽ rơi vào tình trạng như thế nào?

- Khi thâm nhập một tác phẩm văn học, những hoạt động tinh thần gì sẽ được người đọc thực hiện?

- Người đọc có quyền như thế nào khi đưa ra những nhận định, giải thích của riêng mình về giá trị của tác phẩm?

- Việc giải thích của tác giả và người đọc về nội dung, ý nghĩa tác phẩm có nhất thiết phải trùng nhau hoàn toàn?

- Người đọc có quyền suy diễn về nội dung, ý nghĩa của tác phẩm bất chấp những dữ kiện được trình bày trong tác phẩm hay không?

>>> Bài tiếp theo: Giải SBT Ngữ văn 10 Kết nối tri thức bài 8

Trên đây là toàn bộ lời giải Giải SBT Ngữ văn lớp 10 bài 7: Đọc hiểu và thực hành Tiếng Việt sách Kết nối tri thức. Các em học sinh tham khảo thêm Ngữ văn 10 Chân trời sáng tạo Ngữ văn lớp 10 Cánh Diều. VnDoc liên tục cập nhật lời giải cũng như đáp án sách mới của SGK cũng như SBT các môn cho các bạn cùng tham khảo.

Chia sẻ, đánh giá bài viết
1
3 Bình luận
Sắp xếp theo
  • mineru
    mineru

    😍😍😍😍😍😍

    Thích Phản hồi 13:02 11/12
    • Song Tử
      Song Tử

      🤟🤟🤟🤟🤟🤟🤟

      Thích Phản hồi 13:03 11/12
      • Thần Rồng
        Thần Rồng

        🤙🤙🤙🤙🤙🤙🤙

        Thích Phản hồi 13:03 11/12
        🖼️

        Gợi ý cho bạn

        Xem thêm
        🖼️

        Giải SBT Ngữ văn 10

        Xem thêm