Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Giải SBT Ngữ văn 7 Kết nối tri thức bài 7

VnDoc xin giới thiệu bài Giải SBT Ngữ văn 7 bài 7: Cội nguồn yêu thương (Đọc hiểu và thực hành tiếng Việt) sách Kết nối tri thức chi tiết giúp học sinh dễ dàng xem và so sánh lời giải từ đó biết cách làm bài tập trong SBT Ngữ văn 7.

Bài: Cội nguồn yêu thương (Đọc hiểu và thực hành tiếng Việt)

Bài tập 1. Đọc lại văn bản Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ trong SGK (tr. 59 – 63) và trả lời các câu hỏi:

1. Em hãy tóm tắt nội dung văn bản.

2. Nhân vật “tôi” đã đoán ra các loài hoa trong vườn và nhận ra bước chân của bố bằng cách nào?

3. Tìm một số chi tiết miêu tả suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật “tôi” về bố. Từ các

chi tiết đó, em hãy nêu nhận xét về tính cách của nhân vật người bố.

4. Em hãy kể lại sự việc Tí được cứu sống bằng lời của nhân vật người bố.

Lời giải

1. Truyện kể về một cậu bé được bố dạy cho những bài học quý giá. Đầu tiên, cậu phải nhắm mắt lại, rồi chạm vào những bông hoa và đoán. Trò chơi này không chỉ diễn ra trong vườn mà còn trong nhà. Nhân vật tôi còn đoán được các đồ vật trong gia đình và đoán được bố đang đứng cách mình bao xa. Ngay cả việc chỉ cần ngửi đã biết được đó là loại hoa gì và không bao giờ nhầm lẫn. Điều này làm nhân vật tôi rất vui và mãn nguyễn vì nhớ những điều đó mình có thể cảm nhận được cả vườn hoa theo cách rất riêng. Cậu nhận ra những bông hoa là người đưa đường, dẫn lối cho cậu trong khu vườn.

2. Nhân vật "tôi" đã đoán ra các loại hoa trong vườn và nhận ra bước chân của bố bằng cách:

- Đoán ra các loài hoa bằng cách:

Nhân vật "tôi" đã được bố dạy cho cách "nhìn" đặc biệt để nhận ra những bông hoa trong vườn:

- Nhắm mắt lại, chạm từng bông hoa một.

- Ngửi hương hoa rồi gọi tên loài hoa.

Nhân vật "tôi" nhận ra bước chân của bố bằng cách: Những lúc rảnh rỗi, bố hay đứng trong vườn và đố tôi tìm ra bố.

3. Chi tiết miêu tả suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật tôi về bố:

- Bố tôi bơi giỏi lắm

- Tôi hay gọi bố chỉ để nghe âm thanh

=> Nhân vật bố là một người cha hết mực yêu thương con cái, luôn chăm sóc, chỉ dạy đứa con của mình. Không chỉ thế người bố còn là một người cha tài giỏi.

4. Hôm đó tôi trốn ra bờ sông vọc nước, không may bị té xuống cái hụp xoáy, lúc đó tôi dường như không biết gì nữa, chỉ biết những ngón chân của tôi là ở trên mặt đất, còn lại tôi đã bị rơi xuống cái hụp xoáy này rồi. May có bố của bạn tôi đến cứu tôi, bụng của tôi lúc đó toàn nước, chú ấy đã làm cách nào đó để tôi bớt nước và tỉnh lại.

Bài tập 2. Đọc lại văn bản Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ (từ Bạn hãy tưởng tượng đến lối đi an toàn và thơm ngát) trong SGK (tr. 62 – 63) và trả lời các câu hỏi:

1. Theo nhân vật “tôi”, điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta “vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ”?

2. Bí mật mà nhân vật “tôi” muốn chia sẻ là gì?

3. Khi nào chúng ta có thể “nhìn” thấy bông hồng ngay trong đêm tối và không bao giờ lạc lối trong những khu vườn?

4. Những cảm xúc, suy nghĩ về khu vườn và các loài hoa thể hiện nét tính cách nào ở nhân vật “tôi”?

5. So sánh cặp câu dưới đây và nhận xét về tác dụng của việc mở rộng vị ngữ của câu bằng cụm từ.

a. Đó chính là một điều bí mật.

b. Đó chính là một điều bí mật mà tôi muốn chia sẻ với bạn.

Lời giải

1. Theo nhân vật tôi điều chúng ta "vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ"

+ Bấy giờ là mùa gì và bông hoa nào đang nở, tên là gì.

+ Biết được từng tiếng bước chân trong vườn, biết chính xác đó là bố hay mẹ, người đó cách xa mình bao nhiêu mét.

2. Bí mật mà nhân vật tôi muốn chia sẻ:

- Những "bí mật" ấy giúp cho cuộc sống hằng ngày của nhân vật "tôi" có thể giúp ích mọi người và được mọi người quý mến.

- Bí mật mà bố đã cứu Tí bằng cách nào

3. Khi ta ngửi được mùi hương và nhớ vị trí của chúng

4. Những cảm xúc, suy nghĩ về khu vườn và các loài hoa thể hiện nét tính cách yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và đang tận hưởng cuộc sống một cách thoải mái, thư giãn.

5.

a. Chỉ có một cụm chủ vị

b. Đã có thêm một cụm chủ vị ở thành phần vị ngữ

Bài tập 3. Đọc văn bản Người thầy đầu tiên trong SGK (tr. 65 – 70) và trả lời các câu hỏi:

1. Câu chuyện được kể bằng lời của những nhân vật nào? Hãy giới thiệu ngắn gọn về họ.

2. Đọc văn bản, em hình dung như thế nào về cô bé An-tư-nai (hoàn cảnh sống, đặc điểm tính cách,...)?

3. Nêu cảm nhận của em về nhân vật thầy Đuy-sen. Điều gì ở thầy Đuy-sen gây ấn tượng nhất với em?

4. Hãy kể lại một sự kiện trong câu chuyện bằng lời của nhân vật thầy Đuy-sen.

Lời giải

1. Những ngôi kể trong chuyện:

- Phần (1): ngôi kể thứ nhất - họa sĩ.

- Phần (2): ngôi kể thứ nhất - bà An-tư-nai Xu-lai-ma-nô-va.

- Phần (3): ngôi kể thứ nhất - bà An-tư-nai Xu-lai-ma-nô-va.

- Phần (4): ngôi kể thứ nhất - họa sĩ.

Các nhân vật người kể chuyện trong đoạn trích có mối quan hệ đồng hương với nhau. Họ đều sinh ra và lớn lên ở làng Ku-ku-rêu; hiện cùng sống ở Mát-xcơ-va và có quen biết nhau. Họ cùng được mời về dự lễ khánh thành ngôi trường mới của quê hương

2. Nhân vật chính là An-tư-nai, một cô bé mồ côi, phải sống với gia đình chú thím, bị đối xử tàn nhẫn, nhưng luôn tin vào cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn.

3. Đặc điểm tính cách nhân vật thầy Đuy-sen: có mục đích sống cao đẹp, cương nghị, kiên nhẫn, nhân hậu, vị tha… trong đó, nổi bật nhất là tình cảm yêu thương, hết lòng vì học trò.

- Điều gây ấn tượng đối với em đó chính là: một mình sửa sang nhà kho cũ thành lớp học; bế các em nhỏ qua suối giữa mùa đông buốt giá; kiên trì dạy chữ cho các em bất chấp hoàn cảnh thiếu thốn, khắc nghiệt, khắc nghiệt, sự đơn độc; mơ ước về một tương lai tươi sáng cho học trò.

4. Mùa thu năm ngoái, tôi nhận được một bức thư điện từ làng gửi đến mời tôi về dự buổi khánh thành ngôi trường mới. Tôi sẽ về làng dạo quanh, ngắm cảnh và vẽ ít bức kí họa. Ở đó tôi gặp bà An-tư-nai Xu-lai-ma-nô-va. Bà đã viết cho tôi một bức thư khi tôi trở về thành phố. Bà An-tư-nai đã nhờ tôi kể lại câu chuyện cuộc đời bà cho mọi người, nhất là lứa tuổi trẻ. Và tôi đã quyết định sẽ kể câu chuyện đó.

Bài tập 4. Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi: Tôi chợt nảy ra một ý nghĩ bất ngờ.

- Này các cậu ơi – tôi gọi các bạn – ta đổ ki-giắc vào trường đi, đến mùa đông sẽ có nhiều cái đốt sưởi hơn.

- Thế về nhà tay không à? Chà, khôn đấy nhỉ!

– Nhưng ta sẽ quay lại nhặt thêm nữa.

- Thôi muộn mất, về nhà lại phải mắng đấy. Và bọn con gái không chờ tôi, cứ rảo cẳng về nhà.

Cho đến nay tôi vẫn không hiểu hôm ấy cái gì xui khiến tôi dám làm một việc như thế. Không biết vì tôi giận các bạn đã không nghe tôi nên cứ muốn làm theo ý mình, hay từ thuở bé mọi ước nguyện, mọi ý muốn của tôi đều bị chôn vùi dưới những lời mắng chửi, những cái bạt tai của những con người phũ phàng; chỉ biết là tôi vẫn thấy muốn làm việc gì để cảm ơn con người thật ra không quen biết ấy, để đền đáp lại nụ cười đã sưởi ấm lòng tôi, đền đáp lòng tin cậy của người ấy đối với tôi, đền đáp mấy câu nói nhân từ ấm áp. [...] Khi các bạn bỏ tôi lại, tôi chạy trở về trường Đuy-sen, trút bao ki-giắc xuống dưới cửa và cắm đầu chạy men theo các khe rãnh, các hẻm đá ở chân núi nhặt ki-giắc.

Tôi cứ chạy mãi, không còn biết mình đi đâu nữa, như thể vì quá dư sức mà tim tôi sung sướng đập rộn rã trong lồng ngực, tựa hồ như tôi đã làm nên công trạng gì vô cùng to lớn. Và cả mặt trời cũng như biết rõ vì đâu tôi sung sướng đến thế. Phải, tôi tin rằng mặt trời cũng biết vì đâu tôi lại chạy tung tăng nhẹ nhàng như thế. Bởi vì tôi đã làm được một việc nhỏ hữu ích.

Mặt trời đã xế bóng ngang các sườn đồi, nhưng tôi cảm thấy dường như còn chần chừ không muốn lặn, còn muốn nhìn tôi. Ánh mặt trời tô điểm con đường tôi đi, mặt đất rắn mùa thu trải ra dưới chân tôi nhuộm thành màu đỏ, màu hồng, màu tím. Từng cụm bông lau khô vun vút bay hai bên như những tia lửa lập loè. Mặt trời rọi lửa lên những chiếc cúc mạ bạc trên tấm áo đầy mụn và tôi mặc. Và tôi cứ chạy đi, trong lòng hoan hỉ nói với đất trời, với gió mây: “Hãy nhìn tôi đây! Hãy nhìn xem tôi đang kiêu hãnh chừng nào! Tôi sẽ học hành, tôi sẽ đến trường và sẽ dẫn các bạn khác đến!...”

(Trin-ghi-dơ Ai-tơ-ma-tốp, Gia-mi-li-a (Jaymilya) – Truyện núi đồi và thảo nguyên, Phạm Mạnh Hùng – Nguyễn Ngọc Bằng – Cao Xuân Hạo – Bồ Xuân Tiến dịch, NXB Kim Đồng, Hà Nội, 2019, tr. 369 – 371)

1. Vì sao nhân vật An-tư-nai quyết định trút lại bao ki-giắc ở trường Đuy-sen?

2. Nêu những cảm xúc, suy nghĩ của An-tự-nai sau khi trút lại bao ki-giắc ở trường. Theo em, điều gì khiến An-tư-nai có tâm trạng như vậy?

3. Liên hệ với nội dung phần (3) của văn bản Người thầy đầu tiên trong SGK và chỉ ra những chi tiết cho thấy thầy Đuy-sen biết người trút lại bao ki-giắc ở trường chính là An-tư-nai. Điều đó có ý nghĩa như thế nào với An-tư-nai?

4. Em hãy dựa vào các chi tiết miêu tả hành động, cảm xúc, suy nghĩ của An-tư-nai trong đoạn trích trên để khái quát đặc điểm tính cách của nhân vật.

5. Tìm các phó từ bổ nghĩa cho danh từ trong đoạn văn sau và cho biết mỗi phó từ bổ sung ý nghĩa gì:

Không biết vì tôi giận các bạn đã không nghe tôi nên cứ muốn làm theo ý 1 mình, hay từ thuở bé mọi ước nguyện, mọi ý muốn của tôi đều bị chôn vùi dưới những lời mắng chửi, những cái bạt tai của những con người phũ phàng; chỉ biết là tôi vẫn thấy muốn làm việc gì để cảm ơn con người thật ra không quen biết ấy, để đền đáp lại nụ cười đã sưởi ấm lòng tôi, đền đáp lòng tin cậy của người ấy đối với tôi, đền đáp mấy câu nói nhân từ ấm áp.

6. Tìm các phó từ bổ nghĩa cho động từ trong những câu sau và cho biết mỗi phó từ bổ sung ý nghĩa gì:

a. Cho đến nay tôi vẫn không hiểu hôm ấy cái gì xui khiến tôi dám làm một việc như thế.

b. Bởi vì tôi đã làm được một việc nhỏ hữu ích.

c. Hãy nhìn xem tôi đang kiêu hãnh chừng nào!

Lời giải

1. Nhân vật An-tư-nai quyết định trút lại bao ki-giắc ở trường Đuy-sen vì: đến mùa đông sẽ có nhiều cái đốt sưởi hơn.

2. - Những cảm xúc, suy nghĩ của An-tự-nai sau khi trút lại bao ki-giắc ở trường. Theo em, điều gì khiến An-tư-nai có tâm trạng là "Không biết vì tôi giận các bạn đã không nghe tôi nên cứ muốn làm theo ý mình, hay từ thuở bé mọi ước nguyện, mọi ý muốn của tôi đều bị chôn vùi dưới những lời mắng chửi, những cái bạt tai của những con người phũ phàng; chỉ biết là tôi vẫn thấy muốn làm việc gì để cảm ơn con người thật ra không quen biết ấy, để đền đáp lại nụ cười đã sưởi ấm lòng tôi, đền đáp lòng tin cậy của người ấy đối với tôi, đền đáp mấy câu nói nhân từ ấm áp. [...] Khi các bạn bỏ tôi lại"

3. Những chi tiết cho thấy thầy Đuy-sen biết người trút lại bao ki-giắc ở trường chính là An-tư-nai là:

- Thầy Đuy-sen cố gắng đi kiếm đủ gỗ để bắc một cây cầu qua suối

- An-tư-nai em ngồi đây cho âm không cần xuống nữa, một mình thầy xuống là đủ.

- Thầy hỏi An-tư-nai có phải người bỏ lại ki-giắc ở lại trường không.

=> Ý nghĩa: Đó là một niềm vui lớn của An-tư-nai

4. An-tư-nai là một cô bé thông minh, nhanh nhẹn, biết nghĩ cho mọi người.

5. Phó từ: đã. => chỉ thời gian đã và đang xảy ra

6.

a. Phó từ: Vẫn => chỉ sự tiếp diễn

b. Phó từ: Đã => chỉ thời gian

c. Phó từ: Hãy => chỉ sự cầu khiến

Bài tập 5. Đọc lại văn bản Trong lòng mẹ trong SGK (tr. 84 – 87) và trả lời các câu hỏi:

1. Xác định đề tài, người kể chuyện và tóm tắt ngắn gọn nội dung của đoạn trích

2. Nhân vật bé Hồng phải sống trong hoàn cảnh như thế nào?

3. Những lời gièm pha của người cô có khiến bé Hồng oán giận mẹ của mình không? Chi tiết nào giúp em nhận biết điều đó?

4. Chỉ ra diễn biến tâm trạng của nhân vật bé Hồng trong đoạn văn từ Nhưng đến ngày giỗ thầy tôi, tôi không viết thư gọi mẹ tôi cũng về đến hết.

5. Nêu cảm nhận của em về nhân vật bé Hồng.

Lời giải

1.

- Đề tài: Gia đình ( hồi kí)

- Người kể chuyện: tác giả- nhân vật tôi

- Tóm tắt: Gần đến ngày giỗ đầu bố Hồng, cậu lại rất thương và nhớ mẹ mình thì một hôm, người cô gọi cậu đến và hỏi có muốn gặp mẹ, gặp “em bé” không. Sau đó, bà ta làm cho Hồng đau lòng bằng cách nói về cuộc sống của mẹ Hồng. Bà ta càng nói Hồng càng im lặng và cậu bắt đầu khóc. Cậu càng thấy thương mẹ hơn, càng căm ghét những hủ tục lạc hậu trước những lời bôi nhọ mẹ mình của bà cô thâm hiểm, tàn nhẫn. Một hôm, trên đường đi học về, Hồng thoáng thấy một người ngồi trên xe kéo rất giống mẹ. Hồng liền đuổi theo và gọi to. Vài giây sau, Hồng đuổi kịp xe kéo. Và nhận ra đúng là mẹ mình. Hồng òa khóc nằm trong lòng mẹ. Cậu cảm nhận được tất cả vẻ đẹp, sự yêu thương và dịu dàng của mẹ. Cậu quên hết mọi lời nói độc ác của bà cô, chỉ còn niềm xúc động và tình yêu thương mẹ vô bờ.

2. Hoàn cảnh sống:

- Bố nghiện ngập, mất sớm; gia đình sa sút;

- Mẹ cùng túng quá phải bỏ con cái đi tha hương cầu thực

- Sống với bà cô và trong sự ghẻ lạnh của họ hàng

→ Bất hạnh, thiếu tình thương yêu

3. Không oán trách mẹ mình ngược lại còn rất yêu thương mẹ của mình. Toan trả lời nhưng lại cúi đầu không đáp mà chỉ cười đáp lại - nhận ra những ý nghĩ cay độc và nét mặt rất kịch của bà cô

→ Bé Hồng rất nhạy cảm, nhận ra sự giả dối trong lời nói của bà cô

- Lòng càng thắt lại, khoé mắt cay cay

- Nước mắt ròng ròng rớt xuống, chan hòa đầm đìa ở cằm, ở cổ.

- Cười dài trong tiếng khóc, cổ họng nghẹn ứ, khóc không ra tiếng.

- Căm ghét những cổ tục phong kiến đã đày đọa mẹ.

- BPNT: so sánh, lời văn dồn dập với các hình ảnh, các động từ mạnh: cắn, nhai, nghiến

→ Khắc họa rõ nét nỗi đau đớn, phẫn uất đến cực điểm của bé Hồng đối với bà cô, với cổ tục lạc hậu

=> Thể hiện niềm tin mãnh liệt và tình yêu thương mẹ vô cùng sâu sắc của bé Hồng.

4. Diễn biến tâm trạng của nhân vật bé Hồng: nhìn thấy một người giống mẹ - gọi - sợ nhận nhầm, lũ bạn chê cười - ngại, tủi nhục - thở hồng hộc - khóc nức nở - sung sướng - hạnh phúc.

5. Nhân hồng là một cô bé tội nghiệp, vì hoàn cảnh mà không được ở với bố mẹ, nhưng ngược lại bé Hồng lại là một người rất hiểu chuyện và yêu thương mẹ của mình.

Bài tập 6. Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:

Tôi có một cái răng khểnh. Khi đến trường, tụi bạn bảo đó là cái răng bừa cào. Mỗi lần tôi cười chúng cứ chỉ vào đó:

Ha ha, bừa cào kìa! Mày cho tao mượn về chải chỉ đi!

Từ đó, tôi không dám cười nữa. Tôi rất đau khổ. Tôi ghét những đứa có hàm răng đều. Chúng còn chỉ vào mặt tôi nói: “Đó là vì mày không chịu đánh răng, Những người đánh răng, răng mòn đều

Một hôm, bố tôi hỏi:

- Sao dạo này bố không thấy con cười?

Tôi nói:

- Tại sao con phải cười hả bố?

– Đơn giản thôi. Khi cười, khuôn mặt con sẽ rạng rỡ. Khuôn mặt đẹp nhất - là nụ cười.

– Nhưng khi con cười sẽ rất xấu xí.

– Tại sao vậy? Bố ngạc nhiên. Ai nói với con?

- Không ai cả, nhưng con biết nó rất xấu, xấu lắm bố ơi!

– Bố thấy nó đẹp. Bố nói nhỏ con nghe nhé! Nụ cười của con đẹp nhất! - Nhưng làm sao đẹp được khi nó có cái răng khểnh?

- Ái chà! Bố bật cười. Thì ra là vậy. Bố thấy đẹp lắm! Nó làm nụ cười của con khác với những đứa bạn. Đáng lí con phải tự hào vì nó. Mỗi đứa trẻ có một điều kì lạ riêng. Có người có một đôi mắt rất kì lạ. Có người có một cái mũi kì lạ. Có người lại là một ngón tay. Con hãy quan sát đi rồi con sẽ thấy. Con sẽ biết rất nhiều điều bí mật về những người xung quanh mình.

Tôi biết một điều bí mật về cô giáo: cô có cái mũi hồng hơn những người khác. Và tôi đã nói điều đó cho cô hay. Cô ngạc nhiên lắm.

- Thật không? Cô trợn mắt.- Em nói thật! Mũi cô rất hồng. Em còn phát hiện một điều nữa, khi trợn mắt, mắt cô thật to. Những người có con mắt nhỏ không làm được như vậy đâu. Bố em nói đó là một điều bí mật. Cô đừng nói cho ai biết nhé. Khi cô nói điều bí mật ra, cô sẽ quên cái mũi cô ngay.

- Vậy à! Em có nhiều điều bí mật không?

- Dạ có. Nhưng em sẽ không kể cho cô nghe đâu. Em sợ em sẽ quên nó. Không sao đâu. Khi em kể điều bí mật cho một người biết giữ bí mật thì bí

mật vẫn còn. Khi gặp cô, em sẽ nhớ là có hai người cùng giữ chung một bí mật.

(Nguyễn Ngọc Thuần, Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2014, tr. 18 – 20)

1. Câu chuyện trong đoạn trích được kể bằng lời của người kể chuyện ngôi thứ mấy?

2. Tại sao nhân vật “tôi” rất đau khổ và không dám cười nữa?

3. Người bố đã giải thích cho nhân vật “tôi” như thế nào về nụ cười của em và nhiều điều bí mật ở những người xung quanh mình?

4. Nhân vật “tôi” đã nói với cô giáo điều bí mật gì?

5. Hãy nêu cảm nhận của em về nhân vật người bố trong đoạn trích. 6. Nêu một bài học em rút ra được từ đoạn trích.

7. Tìm số từ trong các câu sau và giải thích ý nghĩa của chúng:

a. Tôi có một cái răng khểnh.

b. Khi gặp cô, em sẽ nhớ là có hai người cùng giữ chung một bí mật.

8. Tìm các phó từ bổ nghĩa cho danh từ trong những câu sau và cho biết mỗi phó từ bổ sung ý nghĩa gì:

a. Tôi ghét những đứa có hàm răng đều.

b. Mỗi đứa trẻ có một điều kì lạ riêng.

9. Tìm các phó từ bổ nghĩa cho động từ, tính từ trong những câu sau và cho biết mỗi phó từ bổ sung ý nghĩa gì:

a. Từ đó, tôi không dám cười nữa.

b. Tôi rất đau khổ.

c. Khi cười, khuôn mặt con sẽ rạng rỡ.

d. Con hãy quan sát đi rồi con sẽ thấy.

Lời giải

1.Câu chuyện được kể theo: Ngôi thứ nhất

2. Vì nhân vật tôi bị các bạn trêu chiếc răng khểnh là chiếc răng bừa cào.

3. Người bố đã giải thích cho nhân vật “tôi” về nụ cười của em và nhiều điều bí mật ở những người xung quanh mình:

- Đơn giản thôi. Khi cười, khuôn mặt con sẽ rạng rỡ. Khuôn mặt đẹp nhất - là nụ cười.

- Bố thấy nó đẹp. Bố nói nhỏ con nghe nhé! Nụ cười của con đẹp nhất!

- Nó làm nụ cười của con khác với những đứa bạn. Đáng lí con phải tự hào vì nó. Mỗi đứa trẻ có một điều kì lạ riêng. Có người có một đôi mắt rất kì lạ. Có người có một cái mũi kì lạ. Có người lại là một ngón tay. Con hãy quan sát đi rồi con sẽ thấy. Con sẽ biết rất nhiều điều bí mật về những người xung quanh mình.

4. Nhân vật “tôi” đã nói với cô giáo điều bí mật: Em nói thật! Mũi cô rất hồng. Em còn phát hiện một điều nữa, khi trợn mắt, mắt cô thật to. Những người có con mắt nhỏ không làm được như vậy đâu. Bố em nói đó là một điều bí mật.

5. Nhân vật người bố trong đoạn trích là một người yêu thương, chăm sóc, ân cần giải thích cho cô con gái của mình.

6. Bài học: Dù gặp khuyết điểm nào trên cơ thể thì bản thân vẫn luôn phải tự tin, và yêu lấy nó, bản thân mình.

7.

a. Số từ: một => chỉ số lượng ít

b. Số từ: Hai => chỉ số lượng

8.

a. Những => Chỉ ý nghĩa tập hợp hay phân phối

b. Có => Chỉ sự tiếp diễn.

9.

a. Không => chỉ sự phủ định

b. Rất => chỉ mức độ

c. Sẽ => chỉ khả năng

d. Hãy => chỉ cầu khiến

Bài tập 7. Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:

Tôi muốn kể với các em về thầy giáo dạy vẽ của tôi. Thầy dạy chúng tôi cách đây mười bảy năm, khi đó chúng tôi mới học lớp Năm mà thấy thì mái tóc đã bạc phơ...

[...] Thầy ăn mặc theo kiểu xưa: bộ com-lê đen đã cũ lắm, nhưng chiếc ca-vật vẫn luôn thắt chỉnh tề trên cổ. Thầy thường đội mũ nồi, bộ râu mép rậm lấm tấm bạc, đôi giày cũ và chiếc cặp da nâu cũng đã sờn rách.

Thầy luôn đăm chiêu nhưng hiền hậu. Chẳng bao giờ thấy cáu giận, gắt gỏng với chúng tôi. Cũng chẳng bao giờ thầy bỏ một tiết lên lớp nào, kể cả những hôm thầy yếu mệt, sốt cao, giọng run run.

Các cô giáo, thầy giáo trong trường kể rằng thầy là một trong những hoạ sĩ học khoá đầu tiên của Trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương. Bạn học của thầy, hầu hết đều đã trở thành những hoạ sĩ tên tuổi, có người nổi tiếng cả ở nước ngoài, riêng thầy Bản chỉ là một giáo viên dạy vẽ bình thường ở một trường cấp hai.

Thầy dạy chúng tôi kẻ chữ, vẽ cái sọt giấy, lọ mực, viên gạch, thỉnh thoảng mới có một bài “vẽ tự do”: cảnh chùa hoặc cảnh lao động ở vườn trường. Thầy dạy rất ân cần, tỉ mỉ, chỉ bảo cho chúng tôi từng li từng tí: cách tô màu, đánh bóng, cả cách gọt bút chì thế nào cho đẹp và dễ vẽ. Nhưng thú vị hơn cả là những câu chuyện của thầy. Thầy thường nói say sưa với chúng tôi về hội họa, về màu sắc và đường nét, về cái thế giới thứ hai, thế giới rực rỡ, kì lạ của những bức tranh, những cánh cửa mở tới những khu vườn tốt lành và đẹp đẽ. Có những lần, thầy đưa chúng tôi về nhà thầy chơi, về gian gác hẹp xếp đầy sách vở và tranh ảnh. Thầy đưa chúng tôi xem những quyển sách của các bậc danh họa. Thầy cũng cho chúng tôi xem những bức tranh thầy vẽ, những bức tranh nhỏ, vẽ rất tỉ mỉ những bình hoa nhiều màu, những ngôi nhà, những em bé hàng xóm... Thầy vẽ chậm, vẽ kĩ, không hiểu có đẹp không, nhưng tranh của thầy ít được mọi người chú ý. Chúng tôi có đi hỏi nhưng chẳng mấy ai biết tên hoạ sĩ Nguyễn Thừa Bản.

(Xuân Quỳnh, Thầy giáo dạy vẽ của tôi, Trần Hoài Dương tuyển chọn, Tuyển tập truyện ngắn hay Việt Nam dành cho thiếu nhi, tập 5, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2016, tr. 178 – 180)

1. Câu chuyện trong đoạn trích được kể bằng lời của người kể chuyện ngôi thứ mấy?

2. Tìm một số chi tiết miêu tả trang phục của thầy giáo dạy vẽ. Những chi tiết đó cho em cảm nhận gì về nhân vật?

3. Nhân vật “tôi” đã cảm nhận như thế nào về tính cách của thầy giáo dạy vẽ?

4. Tìm số từ trong các câu sau và giải thích ý nghĩa của chúng:

a. Thầy dạy chúng tôi cách đây mười bảy năm, khi đó chúng tôi mới học lớp Năm mà thầy thì mái tóc đã bạc phơ...

b. Thầy thường nói say sưa với chúng tôi về hội hoạ, về màu sắc và đường nét, về cái thế giới thứ hai, thế giới rực rỡ, kì lạ của những bức tranh, những cánh cửa mở tới những khu vườn tốt lành và đẹp đẽ.

5. Tìm các phó từ bổ nghĩa cho danh từ trong những câu sau và cho biết mỗi phó từ bổ sung ý nghĩa gì:

a. Nhưng thú vị hơn cả là những câu chuyện của thầy.

b. Thầy vẽ chậm, vẽ kĩ, không hiểu có đẹp không, nhưng tranh của thầy ít được mọi người chú ý.

6. Tìm các phó từ bổ nghĩa cho động từ, tính từ trong những câu sau và cho biết mỗi phó từ bổ sung ý nghĩa gì:

a. Thầy dạy rất ân cần, tỉ mỉ, chỉ bảo cho chúng tôi từng li từng tí: cách tô màu, đánh bóng, cả cách gọt bút chì thế nào cho đẹp và dễ vẽ.

b. Thầy cũng cho chúng tôi xem những bức tranh thầy vẽ, những bức tranh nhỏ, vẽ rất tỉ mỉ những bình hoa nhiều màu, những ngôi nhà, những em bé hàng xóm...

Lời giải

1. Ngôi kể thứ nhất.

2. Chi tiết miêu tả trang phục của thầy giáo dạy vẽ: Thầy ăn mặc theo kiểu xưa: bộ com-lê đen đã cũ lắm, nhưng chiếc ca-vật vẫn luôn thắt chỉnh tề trên cổ. Thầy thường đội mũ nồi, bộ râu mép rậm lấm tấm bạc, đôi giày cũ và chiếc cặp da nâu cũng đã sờn rách.

=> Thầy là một người ăn mặc giản dị, mộc mạc.

3. Nhân vật tôi thấy thầy giáo là một người: Thầy luôn đăm chiêu nhưng hiền hậu. Chẳng bao giờ thấy cáu giận, gắt gỏng với chúng tôi. Cũng chẳng bao giờ thầy bỏ một tiết lên lớp nào, kể cả những hôm thầy yếu mệt, sốt cao, giọng run run.

4.

a. - Mười bảy năm => chỉ số lượng của sự việc

- Học lớp năm => chỉ lượng từ của sự vật

b. - Thứ hai => chỉ lượng từ của sự việc

5.

a. Phó từ: là => chỉ sự tiếp diễn

b. Phó từ: không, nhưng => chỉ sự phủ định

6.

a. Phó từ: cho => chỉ sự cầu khiến

b. Phó từ: cũng cho => chỉ sự tiếp diễn

Bài tập 8. Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:

Tôi muốn kể với các em về thầy giáo dạy vẽ của tôi. Thầy dạy chúng tôi cách đây mười bảy năm, khi đó chúng tôi mới học lớp Năm mà thầy thì mái tóc đã bạc phơ...

[...] Chẳng hiểu vì thầy không có tài hay không gặp may, tuy thầy rất yêu hội hoạ, dành hết sức lực và tiền bạc cho nó. Vợ con thầy đều đã mất từ lâu, thầy bảo: “Giờ đây, nguồn vui của thầy chỉ là công việc và các em học sinh”. Chúng tôi đều rất quý và thương thầy. Có lần, thầy đến lớp, vẻ nghiêm trang, xúc động, thầy nói với chúng tôi:

- Ở triển lãm mĩ thuật thành phố người ta có bày một cái tranh của tôi...

Thầy mỉm cười rụt rè, khẽ nói thêm: “Các em đến xem thử... Chiều hôm ấy, mấy đứa chúng tôi trong đó có Châu và Hiển – rủ nhau đến phòng triển lãm. Trong gian phòng chan hòa ánh sáng, bức tranh của thầy Bản treo ở một góc. So với những bức tranh to lớn trang trọng khác, bức tranh của thầy thật bé nhỏ, trong một chiếc khung cũ. Bởi tranh vẽ rất cẩn thận một lọ hoa cúc, mấy quả cam, những cánh hoa vàng rơi trên mặt bàn... Mọi người đi lướt qua, chẳng ai để ý tới bức tranh của thầy. Chúng tôi ngồi xuống cạnh bàn ghi cảm tưởng của người xem: chẳng thấy ý kiến nào khen ngợi hoặc nhắc đến bức tĩnh vật của thầy giáo chúng tôi. Lúc ấy, chúng tôi thấy thầy Bản cũng đến, thầy đi lại trong phòng triển lãm, nhìn người xem rồi lại nhìn về cái tranh của mình, bồn chồn, hồi hộp. Rồi sau cảm thấy đứng mãi ở đấy không tiện, thầy lại lóc cóc ra lấy xe đạp, đạp đi.

Càng thương thầy, chúng tôi càng giận những người xem vô cùng. Nảy ra một ý, chúng tôi bàn khẽ với nhau, rồi mở quyển sổ ghi cảm tưởng, chúng tôi thay nhau viết:

“Trong phòng triển lãm này, chúng tôi rất thích bức tranh của hoạ sĩ Nguyễn Thừa Bản!”

“Bức tranh tĩnh vật của hoạ sĩ Nguyễn Thừa Bản rất đẹp. Hoạ sĩ là một người có tài năng và cần cù lao động. Kính chúc hoạ sĩ mạnh khoẻ...” Rồi chúng tôi kí những cái tên giả dưới các ý kiến đó. Ngoài mấy đứa chúng tôi, không ai biết việc này.

Vài hôm sau, thầy Bản đến lớp. Bối rối vì cảm động, thầy báo tin:

– Các em ạ.. bức tranh ở triển lãm của tôi... cũng được một số người thích... họ có ghi cảm tưởng... Ban tổ chức có đưa cho tôi đọc... tôi có ghi lại...

Thầy húng hắng ho rồi nói thêm vẻ ân hận:

– Bức tranh ấy tôi vẽ chưa được vừa ý... Nếu vẽ lại, tôi sẽ sửa chữa nhiều... Thương thầy quá, chúng tôi suýt oà lên khóc. [...]

Có lẽ đến phút cuối cuộc đời, thầy cũng không biết rằng: chính chúng tôi – những học trò nhỏ của thầy – đã viết vào quyển sổ cảm tưởng trong kì triển lãm ấy. Bây giờ thầy Bản không còn nữa!Tối ấy, ngồi với nhau, chúng tôi nhắc nhiều và nhớ nhiều đến thầy... “Thưa thầy giáo dạy vẽ kính yêu! Viết những dòng này, chúng em muốn xin thầy tha lỗi cho chúng em, và

muốn một lần nữa được thưa với thầy rằng: chúng em biết ơn thầy, mãi mãi biết ơn thầy...

(Xuân Quỳnh, Thầy giáo dạy vẽ của tôi, Trần Hoài Dương tuyển chọn, Tuyển tập truyện ngắn hay Việt Nam dành cho thiếu nhi, tập 5, Sđd, tr. 180 – 182)

1. Bức tranh của thầy Bản trong phòng triển lãm được miêu tả như thế nào?

2. Tại sao các học trò của thầy Bản lại ghi cảm tưởng về bức tranh của thầy?

3. Những lời nói của thầy Bản với học trò về bức tranh của mình cho em cảm nhận về nhân vật như thế nào?

4. Tại sao nhân vật “tôi” và các bạn lại muốn “xin thầy tha lỗi”?

5. Em có đồng tình với hành động ghi cảm tưởng và kí những cái tên giả của nhân vật “tôi” và các bạn trong phòng triển lãm không? Vì sao?

6. Nêu một bài học em rút ra được từ câu chuyện.

7. So sánh các cặp câu dưới đây và nhận xét về tác dụng của việc mở rộng thành phần trạng ngữ, vị ngữ của câu bằng cụm từ.

a. – Trong gian phòng, bức tranh của thầy Bản treo ở một góc. – Trong gian phòng chan hòa ánh sáng, bức tranh của thầy Bản treo ở một góc.

b. – Bức tranh tĩnh vật của hoạ sĩ Nguyễn Thừa Bản đẹp.

- Bức tranh tĩnh vật của hoạ sĩ Nguyễn Thừa Bản rất đẹp.

8. Tìm các phó từ bổ nghĩa cho động từ trong những câu sau và cho biết mỗi phó từ bổ sung ý nghĩa gì:

a. Chúng tôi đều rất quý và thương thầy.

b. Các em ạ... bức tranh ở triển lãm của tôi... cũng được một số người thích...

9. Tìm các phó từ bổ nghĩa cho danh từ trong những câu sau và cho biết mỗi phó từ bổ sung ý nghĩa gì: a. So với những bức tranh to lớn trang trọng khác, bức tranh của thầy thật bé

nhỏ, trong một chiếc khung cũ.

b. Mọi người đi lướt qua, chẳng ai để ý tới bức tranh của thầy.

Lời giải

1. Bức tranh của thầy Bản trong phòng triển lãm được miêu tả: Trong gian phòng chan hòa ánh sáng, bức tranh của thầy Bản treo ở một góc. So với những bức tranh to lớn trang trọng khác, bức tranh của thầy thật bé nhỏ, trong một chiếc khung cũ. Bởi tranh vẽ rất cẩn thận một lọ hoa cúc, mấy quả cam, những cánh hoa vàng rơi trên mặt bàn...

2. Vì: Mọi người đi lướt qua, chẳng ai để ý tới bức tranh của thầy. Chúng tôi ngồi xuống cạnh bàn ghi cảm tưởng của người xem: chẳng thấy ý kiến nào khen ngợi hoặc nhắc đến bức tĩnh vật của thầy giáo chúng tôi. Lúc ấy, chúng tôi thấy thầy Bản cũng đến, thầy đi lại trong phòng triển lãm, nhìn người xem rồi lại nhìn về cái tranh của mình, bồn chồn, hồi hộp. Rồi sau cảm thấy đứng mãi ở đấy không tiện, thầy lại lóc cóc ra lấy xe đạp, đạp đi.

3. Những lời nói của thầy Bản với học trò về bức tranh của mình cho em cảm nhận về nhân vật: thầy là một người khiêm tốn.

4. Vì "chính chúng tôi – những học trò nhỏ của thầy – đã viết vào quyển sổ cảm tưởng trong kì triển lãm ấy"

5. Em có đồng tình với hành động ghi lại cảm tưởng và kí những cái tên của nhân vật tôi và các bạn trong phòng triển lãm. Vì là chỉ muốn mọi người chú ý đến chức tranh của thầy giáo mình , và không muốn thầy buồn.

6. Bài học: Nếu có cơ hội hãy nói với những người xung quanh ta những lời tốt đẹp, khen một chút cũng được.

7. Tác dụng của việc mở rộng thành phần trạng ngữ, vị ngữ của câu bằng cụm từ:

a. Làm góp phần làm cho nội dung của câu được đầy đủ, chính xác

b. Làm góp phần làm cho nội dung của câu được trở lên đúng độ chính xác, thực tế.

8.

a. rất => chỉ mức độ

b. cũng được => chỉ sự tiếp diễn

9.

a. So với => chỉ sự khả năng

b. Chẳng => chỉ sự phụ định

Bài tập 9. Đọc văn bản Chiều dày của bức tường của Phạm Sông Hồng và trả lời các câu hỏi:

Tôi đang ở trong căn phòng cũ của mình.

Chỗ này ngày xưa tôi treo một bức tranh phong cảnh. Bức tranh ấy đã làm tôi như được gần thiên nhiên hơn giữa các tòa nhà khối hộp góc cạnh khô khan và đơn điệu.

Còn bây giờ chị treo ở đấy cái lồng bàn nhựa xanh.

Chỗ kia là chỗ của chiếc lá phong tôi mang từ Nga về với bao kỉ niệm. Rồi gió to, rồi nắng to, rồi độ ẩm lớn, tất cả đã ập tới đập vào cái lá mỏng manh ấy cho đến khi nó chỉ còn là những cái gân nhỏ xíu yếu ớt và cuối cùng tan ra, bay đi. Nhưng với tôi bao giờ chiếc lá phong vẫn cứ ở chỗ đó, ở chỗ của nó. Còn bây giờ cái tủ đã che kín khoảng tường ấy. Chỗ kia nữa với những dáng người buồn vui trên bức tường, có được từ i những lần tôi nhìn rất lâu vào những vệt vôi vô tình và tưởng tượng ra, nay phủ lớp ve xanh. Chẳng còn ở đấy dáng người giống dáng tôi hồi bé. Không thấy đâu hai mái đầu đang chụm lại thì thầm.

Cái mũi cao hếch với hàng mi rợp buồn ở góc tường kia làm tôi thẫn thờ bao lần giờ nơi nao?

Tất cả, tất cả đều xa lạ, xa lạ quá... Cuộc đến thăm căn phòng cũ đã không như tôi tưởng.

[...] Về đến nhà mình, nhìn mọi vật trong phòng, tôi bỗng nhớ tới người chủ cũ của nó. Không biết chỗ hiện nay tôi đặt giá sách người chủ cũ đã gửi gắm tình cảm gì vào đó? Bức tường ấy đã chứng kiến những gì trong phần đời của họ? Chẳng hiểu lớp vôi quét đã phủ lên những kỉ niệm nào của người chủ trước đây?

Rồi tôi chợt giật mình nhận ra: Lớp kỉ niệm của tôi trên những bức tường sẽ luôn nằm ở giữa lớp kỉ niệm của người đến trước và người đến sau tôi.

Và những bức tường cứ dày lên cùng với những lớp kỉ niệm ấy.

(Phạm Sông Hồng, Chiều dày của bức tường, Trần Hoài Dương tuyển chọn, Tuyển tập truyện ngắn hay Việt Nam dành cho thiếu nhi, tập 3, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2016, tr. 118 – 119)

1. Câu chuyện được kể bằng lời của người kể chuyện ngôi thứ mấy?

2. Căn phòng cũ của nhân vật “tôi” đã thay đổi như thế nào? Trước sự thay đổi đó, nhân vật “tôi” có cảm xúc gì?

3. Tại sao nhân vật “tôi” chợt giật mình nhận ra lớp kỉ niệm của mình trên những bức tường sẽ luôn nằm giữa lớp kỉ niệm của người đến trước và người đến sau?

4. Em hiểu thế nào về ý nghĩa nhan đề: Chiều dày của bức tường?

5. Tìm một từ thuộc từ loại số từ trong văn bản trên.

6. Câu nào sau đây có phó từ đi kèm danh từ?

a. Tôi đang ở trong căn phòng cũ của mình.

b. Còn bây giờ chị treo ở đấy cái lồng bàn nhựa xanh. c. Chẳng còn ở đấy dáng người giống dáng tôi hồi bé.

d. Và những bức tường cứ dày lên cùng với những lớp kỉ niệm ấy.

7. Tìm một câu trong đoạn trích có hai phó từ khác nhau và giải thích ý nghĩa của các phó từ đó.

Lời giải

1. Câu chuyện được kể bằng lời của người kể chuyện ngôi thứ nhất

2. Căn phòng cũ của nhân vật “tôi” đã thay đổi:

"Chỗ này ngày xưa tôi treo một bức tranh phong cảnh. Bức tranh ấy đã làm tôi như được gần thiên nhiên hơn giữa các tòa nhà khối hộp góc cạnh khô khan và đơn điệu.

Còn bây giờ chị treo ở đấy cái lồng bàn nhựa xanh.

Chỗ kia là chỗ của chiếc lá phong tôi mang từ Nga về với bao kỉ niệm. Rồi gió to, rồi nắng to, rồi độ ẩm lớn, tất cả đã ập tới đập vào cái lá mỏng manh ấy cho đến khi nó chỉ còn là những cái gân nhỏ xíu yếu ớt và cuối cùng tan ra, bay đi. Nhưng với tôi bao giờ chiếc lá phong vẫn cứ ở chỗ đó, ở chỗ của nó.

Còn bây giờ cái tủ đã che kín khoảng tường ấy.

Chỗ kia nữa với những dáng người buồn vui trên bức tường, có được từ i những lần tôi nhìn rất lâu vào những vệt vôi vô tình và tưởng tượng ra, nay phủ lớp ve xanh. Chẳng còn ở đấy dáng người giống dáng tôi hồi bé."

- Cảm xúc: xa lạ, xa lạ quá

4. Ý nghĩa nhan đề: Chiều dày của bức tường: Có nghĩa là chỉ những kỉ niệm theo thời gian.

5. Một từ thuộc từ loại số từ trong văn bản: Các tòa nhà

6. Câu a, d có phó từ đi kèm danh từ.

7. Câu có hai phó từ: Không biết chỗ hiện nay tôi đặt giá sách người chủ cũ đã gửi gắm tình cảm gì vào đó?

- Không biết => chỉ sự khẳng định

- Đã => chỉ sự quan hệ thời gian.

>>>> Bài tiếp theo: Giải SBT Ngữ văn 7 Kết nối tri thức bài 8

Trên đây là toàn bộ lời giải Giải SBT Ngữ văn lớp 7 bài 7: Cội nguồn yêu thương (Đọc hiểu và thực hành tiếng Việt) sách Kết nối tri thức. Các em học sinh tham khảo thêm Ngữ văn 7 Chân trời sáng tạo Ngữ văn lớp 7 Cánh Diều. VnDoc liên tục cập nhật lời giải cũng như đáp án sách mới của SGK cũng như SBT các môn cho các bạn cùng tham khảo.

Chia sẻ, đánh giá bài viết
1
Chọn file muốn tải về:
Chỉ thành viên VnDoc PRO/PROPLUS tải được nội dung này!
79.000 / tháng
Đặc quyền các gói Thành viên
PRO
Phổ biến nhất
PRO+
Tải tài liệu Cao cấp 1 Lớp
Tải tài liệu Trả phí + Miễn phí
Xem nội dung bài viết
Trải nghiệm Không quảng cáo
Làm bài trắc nghiệm không giới hạn
Mua cả năm Tiết kiệm tới 48%
3 Bình luận
Sắp xếp theo
  • Bé Gạo
    Bé Gạo

    😍😍😍😍😍😍

    Thích Phản hồi 15/09/23
    • Lang băm
      Lang băm

      🤝🤝🤝🤝🤝🤝

      Thích Phản hồi 15/09/23
      • Kim Ngưu
        Kim Ngưu

        🧕🧕🧕🧕🧕

        Thích Phản hồi 15/09/23
        🖼️

        Gợi ý cho bạn

        Xem thêm
        🖼️

        Ngữ văn 7 KNTT Tập 1

        Xem thêm