Theo Nghị định 147/2024/ND-CP, bạn cần xác thực tài khoản trước khi sử dụng tính năng này. Chúng tôi sẽ gửi mã xác thực qua SMS hoặc Zalo tới số điện thoại mà bạn nhập dưới đây:
- Những kiến thức và kĩ năng về kiểu văn bản tự sự của phần Tập làm văn giúp học sinh hiểu rõ hơn đặc điểm nghệ thuật, nội dung tác phẩm, giúp học sinh thực hiện tốt hơn yêu cầu đọc - hiểu các tác phẩm văn học tương ứng.
- Ví dụ: Những đoạn độc thoại, độc thoại nội tâm, miêu tả nội tâm trong tác phẩm Làng của Kim Lân đã giúp người đọc hiểu được tâm trạng, tính cách của nhân vật ông Hai; vai người kể chuyện trong Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng giúp làm rõ hơn nội dung tư tưởng và làm tăng thêm chất chân thực của tác phẩm.
- Một số tác phẩm tự sự được học trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 6 đến lớp 9 không phải bảo giờ cũng phân biệt bố cục rõ ràng ba phần: Mở bài, Thân bài và Kết bài vì
+ Thể hiện sự sáng tạo của nhà văn và quan trọng hơn là gây được sự hứng thú, tò mò cho người đọc
+ Hầu hết những bài tự sự không có đủ bố cục ba phần trong chương trình Ngữ Văn từ lớp 6 đến lớp 9 đều là của những nhà văn lớn hoặc những người đã làm việc với ngôn ngữ, văn bản trong nhiều năm nên họ có nhiều kinh nghiệm viết.
- Bài tập làm văn tự sựu của học sinh vẫn phải có đủ ba phần đã nêu vi: Hiện tại, học sinh chỉ mới đang "Tập" làm văn chứ chưa phải là viết văn, sáng tạo văn bản thực sự. Chính vì thế nên học sinh cần phải đi theo từng bước để nắm vững được cách thức làm bài.
Giải thích tại sao trong một văn bản có đủ các yếu tố miêu tả, biểu cảm, nghị luận mà vẫn gọi đó là văn bản tự sự. Theo em, liệu có một văn bản nào chỉ vận dụng một phương thức biểu đạt duy nhất không?
Trả lời:
– Tên gọi cho một loại văn bản căn cứ vào phương thức biểu đạt nào là chính. Bên cạnh phương thức chính bao giờ cũng có các phương thức biểu đạt khác.
– Trong một văn bản ít có trường hợp một văn bản chỉ vận dụng một phương thức biểu đạt duy nhất.
Các nội dung văn bản tự sự đã học ở lớp 9 có gì giống và khác so với các nội dung về kiểu văn bản này đã học ở những lớp dưới?
Trả lời:
– Giống: Đều lấy tự sự là phương thức biểu đạt chính.
– Khác: ở các lớp dưới, khi phân tích tác phẩm cũng như khi học ở phân tích Tập làm văn, lấy sự kiện và chi tiết làm nội dung chính. Còn lên lớp 9, ngoài nội dung đó, văn tự sự còn có sự kết hợp giữa yếu tố miêu tả (tả cảnh, chân dung nhân vật, miêu tả nội tâm nhân vật), nghị luận, độc thoại, đối thoại, người kể chuyện.
– Đoạn (a) chủ yếu dùng phương thức miêu tả để làm nổi bật sự thay đổi về diện mạo của nhân vật Nhuận Thổ.
– Đoạn (b) chủ yếu dùng phương thức tự sự kết hợp với phương thức biểu cảm để nói về tình cảm gắn bó của nhân vật “tôi” và Nhuận Thổ thời thơ ấu.
– Đoạn (c) chủ yếu dùng phương thức nghị luận trong đó hình ảnh con đường khép lại mang chiều sâu ý nghĩa về niềm hi vọng về một ngày mai tươi sáng của cả dân tộc.
Tác giả đã dùng biện pháp miêu tả và kể chuyện để làm nổi bật sự thay đổi của Nhuận Thổ.
- Khi còn nhỏ, Nhuận Thổ là một cậu bé linh lợi, hùng dũng: “khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng”.
- Tác giả kể chuyện Nhuận Thổ biết nhiều thứ: bẫy chim, nhặt vỏ sò, canh dưa, nhìn thấy cá nhảy, hai chân như chân nhái. Bây giờ, sau nhiều năm xa cách, gặp lại, Nhuận Thổ được miêu tả: “Anh cao gấp hai trước, khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật trước kia nay đổi thành vàng sạm, lại có thêm những nếp răn sâu hoắm. Cặp mắt giống hệt cặp mắt bố anh ngày trước, mi mắt viền đỏ húp mọng lên... Anh đội một cái mũ lông chiên rách tươm, mặc một chiếc áo bông mỏng dính, người co ro cúm rúm... Bàn tay này cũng không phải là bàn tay tôi còn nhớ, hồng hào, lanh lẹn, mập mạp, cứng rắn, mà vừa thô kệch vừa nặng nề, nứt nẻ như vỏ cây thông”.
=> Qua việc kể lại cách xưng hô, cách đối xử của Nhuận Thổ, tác giả làm nổi bật sự thay đổi về hình dáng bề ngoài, sự thay đổi trong suy nghĩ, đối xử. Nhưng đồng thời vẫn nêu ra những nét không đổi của anh: chân thành, cần cù, chịu khó làm lụng.
- Ngoài sự thay đổi của Nhuận Thổ, tác giả còn nêu sự thay đổi của nhân vật khác như chị Hai Dương. Vốn là một người đẹp, nhưng chị Hai Dương bây giờ “lưỡng quyền nhô ra, môi mỏng dính, hai tay chống nạnh, không buộc thắt lưng, chân đứng chạng ra, giống hệt cái com-pa trong bộ đồ vẽ, có hai chân bé tí". Chị trở nên chanh chua, mỉa mai, tranh thủ lấy được cái gì thì lấy (giật đôi bít tất tay của mẹ Tân, lấy chiếc “cẩu khí sát”). Có một số người đến hỏi mua đồ, nhưng tiện tay cứ mang bừa đi. Nông thôn thay đổi. “Chỗ nào cũng hỏi tiền, chẳng có luật lệ gì cả” và “mùa mất, thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào đày đọa". Điều đó đã khiến cho người nông dân khốn cùng.
- Các nhân vật xuất hiện trong truyện: người mẹ, nhân vật tôi, cháu Hoàng, Nhuận Thổ, thím Hai Phương, Thuỷ Sinh.
Truyện có hai nhân vật chính: Nhuận Thổ và tôi (anh Tấn) - người bạn thời ấu thơ của Nhuận Thổ. Nhân vật tôi là nhân vật trung tâm vì thông qua nhân vật này đã miêu tả mọi thay đổi của làng quê và nhân vật Nhuận Thổ.
Phần 1: Từ đầu đến “làm ăn sinh sống” đây là hành trình trở về quê hương của nhân vật “tôi”.
Phần 2: Tiếp đến “mang đi sạch trơn”: Nói về hình ảnh quê hương và con người trong quá khứ và thực tại của nhân vật.
Phần 3: Còn lại: Những suy nghĩ của nhân vật tôi trên đường ra đi.
Đoạn văn tự sự kể theo ngôi thứ ba:
Ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác, rồi đi thẳng. Tiếng cười nói xôn xao của đám người tản cư lên ấy vẫn dõi theo.
…
Ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi. Ông thoáng nghĩ đến mụ chủ nhà.
(Làng- Kim Lân)
=> Người kể chuyện giấu mặt, không tham dự vào câu chuyện.
Đoạn văn tự sự kể theo ngôi thứ nhất:
Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được, anh đưa tay vào túi móc cây lược đưa cho tôi và nhìn tôi một hồi lâu. Tôi không đủ lời lẽ để tả lại cái nhìn ấy… đôi mắt của anh.
(Chiếc lược ngà)
– Vai trò kể theo ngôi thứ nhất: sự kiện, nhân vật được nhìn dưới mắt nhân vật tôi với những nhận xát, cảm xúc chủ quan nên sinh động nhưng cũng có thể phiến diện, một chiều trong cách nhìn, đánh giá.
– Vai trò của người kể theo ngôi thứ ba: tất cả được đánh giá theo điểm nhìn của tác giả. Tuy nhiên, đối với một số tác phẩm hiện đại, người kể chuyện có thể đứng ở nhiều điểm nhìn, do đó sự kiện, nhân vật hiện lên ở nhiều chiều, nhiều cách đánh giá.
– Nội dung chính của văn bản tự sự là kể chuyện (hay trần thuật), bao gồm các yếu tố: các sự kiện, nhân vật, người kể chuyện. Bên cạnh đó còn có miêu tả, nghị luận.
– Miêu tả nội tâm trong văn tự sự làm cho những suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật bộc lộ ra ngoài.
– Nghị luận trong văn bản tự sự vừa có thể bộc lộ tính cách, vừa thấy được quan điểm, thái độ đánh giá của tác giả đối với sự việc ấy.
Các ví dụ:
- Đoạn văn tự sự sử dụng yếu tố miêu tả nội tâm:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”
(Kiều ở lầu Ngưng Bích – Truyện Kiều – Nguyễn Du)
- Đoạn văn tự sự dùng yếu tố nghị luận:
“Tôi nghĩ bụng: Đã gọi là hi vọng thì không thể nói đâu là thực đâu là hư. Cũng giống như những con đường trên mặt đất, kì thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì cũng thành đường thôi”.
(Cố hương – Lỗ Tấn)
- Đoạn văn sử dụng kết hợp yếu tố miêu tả nội tâm và nghị luận:
“Thứ suy rộng ra và chua chắn nhận ra rằng cái sự buồn cười ấy là bất thương, chẳng riêng gì nhà ý mà có lẽ chung cho khắp mọi nơi. Bao giờ và ở đâu cũng thế thôi. Thằng nào chịu khổ quen rồi thì cứ mà chịu mãi đi! Mà thương những kẻ ăn nhiều nhất, hưởng nhiều nhất thì lại chính là những kẻ không cần ăn một tí nào hoặc không đáng hưởng một ly nào”.
(Sống mòn, Nam Cao)