Theo Nghị định 147/2024/ND-CP, bạn cần xác thực tài khoản trước khi sử dụng tính năng này. Chúng tôi sẽ gửi mã xác thực qua SMS hoặc Zalo tới số điện thoại mà bạn nhập dưới đây:
- Hậu quả là: kết quả xấu.
- Đoạt là: chiếm được phần thắng.
- Tinh tú là: sao trên trời.
Xác định lỗi :
a. Lỗi lặp từ : thắng cảnh là “cảnh đẹp” rồi, không kết hợp với từ "đẹp" nữa.
b. Dùng sai từ dự đoán. Dự đoán là đoán tình hình, sự kiện ở tương lai. Trong trường hợp này nên dùng phỏng đoán, ước tính.
c. Kết hợp từ sai: Đẩy mạnh (thúc đẩy cho phát triển nhanh) không thể đi với quy mô (chỉ mức độ to nhỏ). Nên dùng từ mở rộng.
→ Những lỗi này mắc phải do người viết “không biết dùng tiếng ta”. Cần phải trau dồi vốn từ, nắm đúng nghĩa của từ, biết cách dùng từ hay, chính xác.
+ Tiếng Việt của chúng ta vô cùng phong phú trong cách diễn đạt, có khả năng diễn đạt mọi tư tưởng tình cảm của người Việt Nam.
+ Chúng ta phải biết phát huy mọi khả năng của tiếng Việt.
Đoạn trích thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du đối với số phận của Thúy Kiều hay cũng chính là bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến
◾ Tấm lòng cảm thương, xót xa trước thân phận nhỏ nhoi của con người, giá trị con người bị chà đạp, trở thành một món hàng mua vui cho kẻ quyền thế, giàu có.
◾ Lên án thực trạng xã hội đen tối, đồng tiền có quyền lực tối cao. Đồng thời, tác giả gián tiếp lên án thế lực phong kiến đã đẩy con người vào tình cảnh đau đớn, lên án thế lực đồng tiền bất nhân.
Thể hiện thái độ căm phẫn, khinh bỉ trước bọn buôn người giả dối, bất nhân bất nghĩa.
Hình ảnh Thúy Kiều:
- Tình cảnh tội nghiệp: gia đình bị vu oan, Kiều hi sinh mối tình đầu, nàng phải bán mình cứu cha.
- Nỗi đau đớn, tái tê: Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng / Nét buồn như cúc điệu gầy như mai → nỗi đau đến tột cùng; Trong lòng ngổn ngang, tình duyên đứt đoạn, chưa yên lòng với gia đình, lo lắng về số phận sắp tới.
Bản chất xấu xa của Mã Giám Sinh:
- Ngoại hình: Lai lịch mập mờ, không rõ ràng. Diện mạo chải chuốt, thái quá đến lố bịch Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao không phù hợp với độ tuổi ngoài 40.
- Hành động: nói năng cộc lốc, nhát gừng ; hành động thô lỗ ngồi tót sỗ sàng, đắn đo trả giá, vô học, coi con người như món hàng, cò kè trả giá.
- Tính cách: bản chất con buôn, bất nhân, keo kiệt, lọc lõi lão luyện, giả dối.
Bút pháp tả cảnh ngụ tình:
▪️ Là bút pháp thông qua việc miêu tả cảnh vật (thiên nhiên, cuộc sống xung quanh) để khắc họa tâm trạng, cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật trữ tình.
▪️ Cùng với bút pháp chấm phá, bút pháp ước lệ tượng trưng, bút pháp đòn bẩy, lấy tĩnh tả động, lấy động tả tĩnh...đây là một trong những bút pháp đặc trưng, mang đậm dấu ấn của văn học trung đại. Cũng có thể nói, bút pháp tả cảnh ngụ tình là một yếu tố quan trọng tạo nên sự thành công cho tác phẩm truyện Kiều của Nguyễn Du.
▪️ Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình qua tám câu thơ cuối đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều của Nguyễn Du)
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duyềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Hai cầu đầu:
▪️ Tả cảnh: Những con thuyền với cánh buồm no căng gió tấp nập qua lại ở cửa biển, dưới chân lầu Ngưng Bích, nơi Kiều bị giam lỏng. Cửa biển thuyền qua, thuyền lại như mắc cửi, những cánh buồm được giương lên cao, gió thổi căng phồng đưa con thuyền lướt trên mặt biền, trong chốc lát đã đi ra xa, cánh buồm chỉ còn thấp thoáng, lúc ẩn, lúc hiện.
▪️ Tả tình: Nỗi buồn thương, nỗi nhớ nhà và khao khát được trở về nhà của Kiều. Giờ nàng đã bán thân để cứu cha và em, cũng đã rơi vào tay của những kẻ buôn người, không biết đến bao giờ nàng mới có cơ hội để trở về nhà gặp lại cha mẹ, gặp lại các em, gặp lại cả Kim Trọng - mối tình đầu khắc cốt ghi tâm của mình. Càng nhìn cánh buồm thấp thoáng phía xa cuối tận chân trời, Kiều càng mong mỏi ngày trở về.
Hai câu tiếp:
▪️ Tả cảnh: Hình ảnh của dòng nước đổ từ trên cao xuống dưới thấp hay đúng hơn là thác nước tuyệt đẹp như bay từ trên cao sà xuống mặt đất. Theo dòng nước ấy là những cánh hoa trôi từ phía thượng nguồn đổ về.
▪️ Tả tình: Kiều xót thương cho số phận của mình. Nàng nghĩ mình cũng giống như những cánh hoa kia, đẹp đấy, ngát hương và tài năng đấy nhưng dòng nước dữ dội kia - chính là dòng đời, không biết sẽ mang theo nàng về nơi nào. Bởi lẽ, cuộc đời của nàng bây giờ không còn được quyết định bởi nàng nữa, nó phụ thuộc vào những kẻ buôn người, là Tú Bà, là Mã GIám Sinh.
Hai câu tiếp
▪️ Tả cảnh: Cánh đồng cỏ ngút ngàn trải dài đến tận cuối con đường nhưng không còn là đồng cỏ tràn đầy sức sống như trong tiết thanh minh "cỏ non xanh tận chân trời" nữa, mà thay vào đó là một đồng cỏ đang ở độ úa tàn khi tiết trời đang chuyển dần từ thu sang đông.
▪️ Tả tình: Nỗi buồn rầu, đau khổ của Kiều khi biết mình bị lừa bán vào tay những kẻ buôn người. Nỗi sầu ấy thấm vào cảnh vật khiến chúng cũng trở nên tàn tạ, héo úa.
Hai câu cuối:
▪️ Tả cảnh: Những con gió lớn làm cuộn dòng nước tạo thành những con sóng liên tiếp nhau tấp vào bờ khiến Kiều cảm giác như những con sóng dữ dội ấy đang vỗ mạnh vào ghế, nơi nàng đang ngồi nhìn ngắm cảnh vật xung quanh.
▪️ Tả tình: Sự lo lắng cho thân phận của mình trước những sóng gió của cuộc đời đang chuẩn bị ập đến với nàng mà không một lời dự báo trước. Nàng thấp thỏm không yên khi nghĩ đến tương lai, những ngày tháng sau này nàng không biết sẽ có điều gì đón đợi mình ở đó. Chỉ mong được bình yên.
a. Cảnh vật là hư, đây là tâm trạng chứ không phải cảnh thực. Mỗi cảnh có nét riêng đồng thời lại có nét chung diễn tả tâm trạng của Kiều :
- Cánh buồm nhỏ xa xăm vô định như cuộc đời nàng giữa biển đời vô hướng.
- Cánh hoa bị vùi dập như số kiếp trôi nổi của nàng.
- Nội cỏ rầu rầu một màu đơn điệu như màu sắc cuộc đời nàng tẻ nhạt.
- Gió cuốn, sóng ầm ầm chính là dông bể cuộc đời, một nỗi bàng hoàng lo sợ.
b. Cách dùng điệp ngữ :
Điệp ngữ “Buồn trông” lặp lại bốn lần đặt ở đầu mỗi câu lục. Đôi mắt buồn nhìn và bao trùm lên hết thảy cảnh vật. Kết hợp không gian xa đến gần, thu vào tâm tư người con gái nỗi cô đơn, sầu nhớ, đau đớn và lo sợ
a. Tám câu thơ tiếp theo trực tiếp nói lên nỗi nhớ thương của Kiều. Đầu tiên Kiều nhớ tới Kim Trọng. Trong xã hội phong kiến đề cao chữ hiếu, thế nhưng ở đây Nguyễn Du lại để cho Thuý Kiều nhớ Kim Trọng trước khi nhớ về cha mẹ, điều đó có lí do của nó. Với cha mẹ dẫu sao nàng cũng mới gặp gỡ trước lúc lên đường về với Mã Giám Sinh, thứ nữa hành động bán mình để lấy tiền cứu cha và em của nàng cũng là một phần nào làm nàng yên lòng. Còn đối với Kim Trọng kể từ ngày “ngộ biến” cả hai bên chưa ai nhận được tin gì của nhau. Hơn nữa, nàng cảm thấy mình có lỗi với Kim Trọng bởi vì hoàn cảnh của gia đình mà nàng đã không giữ đúng lời thề hẹn với chàng Kim.
b. Cách thể hiện nỗi nhớ của Kiều rất khác nhau:- Về nỗi nhớ Kim Trọng, nàng nhớ lời thề ước dưới trăng, thương chàng Kim Trọng đêm ngày đau đáu trông chờ uổng công vô ích “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng”.
▪️ Nàng hình dung cảnh Kim Trọng đợi chờ tin nàng ở quê nhà. Đồng thời cũng thể hiện tấm lòng thuỷ chung:
Chân trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?
▪️ Câu thơ là một câu hỏi tu từ thể hiện sự dằn vặt, đau khổ của nàng khi phải chia tay với Kim Trọng. Dù mai sau có phiêu bạt chân trời góc bể nào thì tình cảm của nàng đối với Kim Trọng vẫn nồng thắm, bất biến với không gian và thời gian.
- Nỗi nhớ cha mẹ
▪️ Nàng thương xót cha mẹ già yêu mà nàng không được chăm sóc. Nàng tưởng tượng cảnh nơi quê nhà tất cả đã đổi thay mà sự đổi thay lớn nhất là cha mẹ ngày một thêm già yếu.
▪️ Lần nào khi nhớ về cha mẹ, Kiều cũng "nhớ ơn chín chữ cao sâu" và luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dạy con cái của cha mẹ. Cũng là nỗi nhớ nhưng cách nhớ lại khác nhau với những lí do khác nhau nên cách thể hiện cũng khác nhau.
- Nghệ thuật: trong đoạn trích, tác giả dùng rất nhiều từ ngữ hình ảnh có tính chất ước lệ: chén đồng, tin sương, tấm son, quạt nồng ấp lạnh, sân lai, gốc tử để nói về tình yêu và đạo hiếu. Nhịp thơ đều đều 2/2/2 và 4/4 đã góp phần diễn tả một cách sâu sắc tâm trạng buồn chán của nàng.
c. Như vậy, dù Kiều đã hi sinh thân mình vì đạo hiếu, khi lâm vào tình cảnh đáng thương, nàng lại một lòng nhớ đến Kim Trọng, nhớ thương cha mẹ, quên cả cảnh ngộ của mình. Trong đoạn trích này, Kiều hiện ra với đức hi sinh cao đẹp, một tình yêu thủy chung và lòng hiếu thảo của một người con.
Đặc điểm không gian và thời gian trước lầu Ngưng Bích
- Không gian: lầu Ngưng Bích được mở ra rất nhiều chiều theo cái nhìn của nhân vật từ trên cao xuống.
+ Chiều cao: trên trời vầng trăng vằng vặc, trăng như gần hơn và với nàng bây giờ chỉ có trăng là bầu bạn.
+ Chiều rộng: không gian bao la bát ngát, chỉ có những cồn cát im lìm vắng lặng bụi tung mờ mịt, những dãy núi trùng điệp nhấp nhô ẩn trong sương mờ. Không gian mênh mông, hoang vắng, rợn ngợp cô đơn không một bóng người.
- Thời gian: từ sáng (mây sớm) đến đêm khuya (đèn khuya) chỉ có một mình nàng thui thủi cô đơn, bẽ bàng thương thân, tủi phận.
- Qua khung cảnh thiên nhiên có thể thấy Kiều đang ở trong hoàn cảnh trơ trợ bị giam hãm, mất tự do, cô độc giữa lầu Ngưng Bích hoang vắng. Tâm trạng của nàng trống trải, cô đơn, ngao ngán thật tội nghiệp…. (những từ ngữ diễn tả hoàn cảnh và tâm trạng ấy : bẽ bàng, như chia tấm lòng…). Có thể nói nàng đã rơi vào hoàn cảnh cô đơn tuyệt đối. Cảnh lầu Ngưng Bích rất hữu tình thơ mộng, nhưng hoang vắng rợn ngợp thiếu hơi ấm con người, đúng như tên gọi của nó, khoá xuân nơi giam hãm tuổi xuân của con người.
Tham khảo thêm: Cảm nhận về 8 câu thơ cuối của bài Kiều ở lầu Ngưng Bích