Theo Nghị định 147/2024/ND-CP, bạn cần xác thực tài khoản trước khi sử dụng tính năng này. Chúng tôi sẽ gửi mã xác thực qua SMS hoặc Zalo tới số điện thoại mà bạn nhập dưới đây:
Người ta thường nói: sắc đẹp của Thúy Vân "mây thua nước tóc tuyết nhường màu da", còn sắc đẹp của Thúy Kiều "hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh" là dự báo số phận hai người. Chỉ với hai câu thơ đã đủ để thấy được số phận của hai người đã được định sẵn:
Cũng như khi miêu tả Thuý Vân, những nét riêng về tài và sắc của Thuý Kiều còn gợi ra những dự cảm về số phận, chỉ khác là những nét riêng về tài sắc của Kiều lại gợi ra cái nghiệt ngã, éo le của số phận (theo quan niệm “tài mệnh tương đố” của tư tưởng trung đại). Cho nên, nói: Sắc đẹp của Thuý Vân “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da",
Bên cạnh vẻ đẹp hình thức, nhan sắc, tác giả còn nhấn mạnh vẻ đẹp tài năng, tâm hồn của Kiều.
Ở Kiều hội tụ đầy đủ mọi tài năng theo quan niệm của tư tưởng phong kiến: cẩm - kì - thi - hoạ. Trong đó, tác giả đặc biệt nhấn mạnh tài đánh đàn của Kiều (Nghề riêng ăn đứt hổ cầm một trương) và gợi tả về tính cách đa sầu, đa cảm của Kiểu qua khúc nhạc nàng tự sáng tác - một thiên “bạc mệnh”.
- Vẻ đẹp của Thúy Kiều được miêu tả bằng những hình ảnh có tính ước lệ: thu thủy, xuân sơn, hoa liễu
+ Sắc sảo, mặn mà trí tuệ, tài trí
+ Đặc tả đôi mắt “làn thu thủy”: vẻ đẹp trong sáng như nước mùa thu, gợi vẻ lanh lợi, sắc sảo hơn người
- Tác giả không tả chi tiết nhân vật Thúy Kiều như khi tả Thúy Vân
→ Kiều mang đẹp của trang tuyệt thế giai nhân.
Tác giả sử dụng biện pháp ước lệ tượng trưng gợi tả vẻ đẹp Thúy Vân:
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
- Đó là những hình ảnh thường xuất hiện trong văn học trung đại
- Vẻ đẹp của sự hòa hợp êm đêm với thiên nhiên, vạn vật xung quanh, báo hiệu cuộc đời bình lặng, suôn sẻ
→ Diễn tả vẻ đẹp phúc hậu, quý phái của thiếu nữ
- Kết cấu của đoạn thơ là:
+ Bốn câu thơ đầu: giới thiệu về khái quát về hai chị em Thuý Kiều;
+ Bốn câu thơ tiếp: vẻ đẹp của Thuý Vân;
+ Mười sáu câu thơ còn lại: vẻ đẹp của Thuý Kiều.
- Trình tự miêu tả các nhân vật:
+ Bốn câu đầu khái quát vẻ đẹp chung và riêng của từng người. Sau đó mới đi sâu miêu tả vẻ đẹp từng nhân vật.
+ Bốn câu tiếp khắc họa rõ hơn vẻ đẹp Thúy Vấn từ khuôn mặt, đôi mày, mái tóc, làn da,... đều cho thấy vẻ đẹp đầy đặn, phúc hậu.
- Bức chân dung Thúy Vân miêu tả trước có tác dụng làm nền để nổi bật lên vẻ đẹp Thúy Kiều ở mười hai câu thơ tiếp theo.
+ Mười hai câu tiếp khắc họa vẻ đẹp Thúy Kiều với cả sắc, tài, tình. Đó là vẻ đẹp toàn diện.
+ Bốn câu cuối khái quát cuộc sống phong lưu, nền nếp, đức hạnh của chị em Kiều
=> Một kết cấu như trên vừa chặt chẽ, vừa hợp lí, vừa góp phần làm nổi bật vẻ đẹp chung và riêng của hai chị em Thúy Kiều.
- Gặp gỡ và đính ước :
Thúy Kiều là thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, con gái đầu lòng gia đình trung lưu, sống trong cảnh êm đềm cùng hai em Thúy Vân, Vương Quan. Trong buổi du xuân Thúy Kiều gặp Kim Trọng và đem lòng yêu chàng, hai người đã tự ý thề nguyền, đính ước với nhau.
- Gia biến và lưu lạc:
Khi Kim Trọng về quê chịu tang chú thì gia đình Kiều gặp nạn, Kiều phải bán mình chuộc cha. Kiều bị bọn buôn người Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa gạt, đẩy vào lầu xanh. Sau đó nàng được Thúc Sinh, cứu khỏi lầu xanh, nhưng sau đó nàng bị Hoạn Thư ghen, đày đọa. Kiều tới nương tựa nơi cửa Phật. Sư giác Duyên đẩy vô tình gửi nàng cho Bạc Bà, Kiều lần hai rơi vào lầu xanh được Từ Hải cứu, giúp nàng báo ân, báo oán. Thúy Kiều mắc mưu Hồ Tôn Hiến ép gả cho viên thổ quan, Kiều đau đớn nên trẫm mình xuống sông tiền Đường tự tử. Nàng được sư Giác Duyên cứu giúp.
- Đoàn tụ:
Sau nửa năm chịu tang chú, Kim Trọng trở về, dù kết duyên với em gái Thúy Kiều, nhưng trong lòng chàng vẫn khôn nguôi nhớ Kiều. Nhờ sư Giác Duyên, Kim Kiều đoàn tụ cùng vui duyên “bạn bầy”.
Nguyễn Du (1766 - 1820) là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới, tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
- Nguyễn Du sinh trưởng trong một thời đại có nhiều biến động dữ dội: xã hội phong kiến Việt Nam bước vào thời kì khủng hoảng sâu sắc, phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra liên tục mà đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã “một phen đổi sơn hà”. Phong trào Tây Sơn thất bại, chế độ phong kiến triều Nguyễn được thiết lập. Những thay đổi kinh thiên động địa ấy đã tác động mạnh tới tình cảm, nhận thức của Nguyễn Du để ông hướng ngòi bút vào hiện thực ("Trải qua một cuộc bể dâu - Những điều trông thấy mà đau đớn lòng").
- Gia đình Nguyễn Du là một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống về văn học, cha đỗ tiến sĩ, từng làm tể tướng, anh là Nguyễn Nghiễm từng làm quan to và say mê nghệ thuật. Nhưng cuộc sống êm đềm trướng rủ màn che” với Nguyễn Du không kéo dài được bao lâu. Nhà thơ mồ côi cha năm 9 tuổi và mồ côi mẹ năm 12 tuổi. Hoàn cảnh gia đình cũng có tác động lớn tới cuộc đời Nguyễn Du.
- Nguyễn Du là người có hiểu biết sâu rộng, có vốn sống phong phú. Trong những biến động dữ dội của lịch sử, nhà thơ đã nhiều năm lưu lạc, tiếp xúc với nhiều cảnh đời, những con người, những số phận khác nhau. Khi ra làm quan với nhà Nguyễn, ông đã từng đi sứ Trung Quốc, qua nhiều vùng đất Trung Hoa rộng lớn với nền văn hoá rực rỡ. Đi nhiều, tiếp xúc nhiều, từng trải trong cuộc sống... tất cả những điều đó đã có ảnh hưởng lớn đến sáng tác của nhà thơ.
- Nguyễn Du là con người có trái tim giàu yêu thương. Chính nhà thơ đã từng viết trong Truyện Kiều: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tà. Mộng Liên Đường chủ nhân trong lời tựa Truyện Kiều cũng đề cao tấm lòng của Nguyễn Du đối với con người, với cuộc đời: “Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía, ngậm ngùi đau đớn đến đứt ruột. Tố Như dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hết, đậm tình đã thiết. Nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy”. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du. Ông là một thiên tài văn học ở cả sáng tác chủ Hán và chữ Nôm, ở giá trị kiệt tác của Truyện Kiều. Về chữ Hán, Nguyễn Du có ba tập thơ Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tại ngâm, Bắc hành tạp lục) với tổng số 243 bài. Về chữ Nôm, ngoài Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh), còn có Văn chiêu hồn,...
• Năm 1802, ông được với ra làm quan nhà Nguyễn, chức tri phủ Thường Tín, Cai bạ Quảng Bình. 1813 làm Cần Chánh điện đại học sĩ, đi sứ Trung Quốc, giữ chức Tham trị bộ Lễ.

Do tự nhiên, xã hội luôn vận động, phát triển không ngừng. Nhận thức của con người về thế giới cũng phát triển thay đổi theo. Nếu từ vựng của một ngôn ngữ không thay đổi thì ngôn ngữ đó không thể đáp ứng nhu cầu giao tiếp, nhận thức của con người bản ngữ.
Dựa vào kiến thức đã học ở lớp 6 (bài Từ mượn, trong Ngữ văn 6, tập một, tr.24) và lớp 7 (bài Từ Hán Việt, trong Ngữ văn 7, tập một, tr.69 và 81), hãy chỉ rõ trong các từ sau đây, từ nào được mượn của tiếng Hán, từ nào mượn của các ngôn ngữ châu Âu: mãng xà, xà phòng, biên phòng, ô tô, tham ô, tô thuế, ra-đi-ô, ô xi, cà phê, phê bình, phê phán, ca nô, ca sĩ, nô lệ.
Trả lời:
- Từ mượn tiếng Hán : mãng xà, biên phòng, tham ô, tô thuế, phê bình, phê phán, ca sĩ, nô lệ.
- Từ mượn ngôn ngữ Châu Âu : xà phòng, ô tô, ôxi, rađiô, càphê, canô
Mô hình có khả năng tạo từ ngữ mới như kiểu x + tặc là:
X + trường: nông trường, công trường, ngư trường, thương trường, chiến trường...
X + viên: giáo viên, học viên, sinh viên, đoàn viên, nhân viên,...
X + học: sinh học, nhân chủng học, hoá học, sử học,văn học, địa lí học, kinh tế học...
X + hoá: ô xi hoá, công nghiệp hoá, kiên cố hoá, hiện đại hóa, đô thị hóa,...
X + nghiệp: công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp,...
X + điện tử: thư điện tử, thương mại điện tử.....
Tuy cùng miêu tả cuộc tháo chạy, các chi tiết đều là tả thực nhưng âm hưởng khác nhau:
● Đoạn văn miêu tả cuộc tháo chạy của quân tướng nhà Thanh có nhịp điệu nhanh, mạnh, hối hả “ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp”, “tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau…”, ngòi bút miêu tả khách quan nhưng vẫn hàm chứa tâm trạng hả hê, sung sướng trước sự thảm bại của lũ cướp nước.
● Đoạn văn miêu tả cuộc tháo chạy của vua tôi Lê Chiêu Thống có nhịp điệu chậm rãi hơn, tác giả miêu tả tỉ mỉ những giọt nước mắt thương cảm của người thổ hào, nước mắt tủi hổ của vua tôi Lê Chiêu Thống, cuộc thết đãi thịnh tình “giết gà, làm cơm” của kẻ bề tôi… âm hưởng có phần ngậm ngùi, chua xót.
Có sự khác biệt trên là do các tác giả là những cựu thần của nhà Lê, trước sự sụp đổ của một vương triều mình từng phụng thờ nay đã sụp đổ, dù biết đây là kết cục không thể tránh khỏi nhưng cũng không tránh khỏi sự mủi lòng, thương cảm.