Theo Nghị định 147/2024/ND-CP, bạn cần xác thực tài khoản trước khi sử dụng tính năng này. Chúng tôi sẽ gửi mã xác thực qua SMS hoặc Zalo tới số điện thoại mà bạn nhập dưới đây:
1. Hình tượng Quang Trung- Nguyễn Huệ được xây dựng chân thực, sinh động với hành động trí tuệ, tài điều binh khiển tướng, mưu lược của vị anh hùng dân tộc
- Hành động mạnh mẽ, dứt khoát:
Nhận được tin báo quân Thanh chiếm đóng Thăng Long, liền họp tướng sĩ, định thân chinh cầm quân đi ngay
+ Lên ngôi hoàng đế, đốc xuất đại binh ra Bắc dẹp giặc
+ Trưng cầu ý kiến của người hiền tài (hỏi Nguyễn Thiếp)
+ Tuyển mộ quân lính ở Nghệ An, duyệt binh, ra phủ dụ, chỉ ra kế hoạch đánh giặc
- Trí tuệ sáng suốt, mẫn cán, điều binh khiển tướng tài tình
+ Chỉ ra tình thế, quyết định tiến quân tiêu diệt giặc
+ Lời lẽ chặt chẽ, sắc bén, kích thích được tinh thần tự tôn dân tộc của tướng sĩ
+ Vạch kế hoạch đánh giặc, sử dụng chiến lược, chiến thuật hợp lí, độc đáo (cách hành quân thần tốc, cách chống lại súng giặc…)
+ Biết dùng người dùng sở trường, ở đoản, đối đãi công bằng
- Ý chí độc lập, tầm nhìn xa trông rộng: mạnh bạo, tự tin trong kế sách đánh giặc
- Hình tượng vua Quang Trung được miêu tả với đầy đủ phẩm chất của vị anh hùng, mang vẻ đẹp oai phong lẫm liệt
- Tác giả Ngô gia trung thành với nhà Lê, nhưng vẫn ca ngợi vua Quang Trung bởi tinh thần dân tộc, sự tài tình, tấm lòng yêu nước của Nguyễn Huệ.
2. Qua đoạn trích tác phẩm, hình ảnh người anh hùng dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ được phác họa là:
- Con người hành động mạnh mẽ, quyết đoán.
+ Trí tuệ sáng suốt, nhạy bén:
+ Ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng.
+ Tài dụng binh như thần.
- Nguồn cảm hứng: Với ý thức tôn trọng lịch sử, các tác giả Ngô gia văn phái – những trí thức, những cựu thần của nhà Lê đã không thể bỏ qua sự thực vua Lê hèn nhát cõng rắn cắn gà nhà và chiến công lừng lẫy của nghĩa quân Tây Sơn. Với ý thức và tinh thần dân tộc, là những trí thức yêu nước, họ không thể không ngợi ca chiến thắng vĩ đại của dân tộc mà linh hồn chiến thắng đó là Quang Trung Nguyễn Huệ. Thể loại tiểu thuyết lịch sử chương hồi cũng góp phần tạo nên cảm hứng cho các tác giả viết nên những trang văn thực mà đẹp đến như vậy.
- Đại ý của đoạn trích: Bài văn trích Hồi thứ mười bốn (Đánh Ngọc Hồi, quận Thanh bị thua trận - bỏ Thăng Long Chiêu Thống trốn ra ngoài) trong Hoàng Lê nhất thống chí. Sau khi Lê Chiêu Thống chạy sang Tàu cầu viện, quận Thanh kéo sang xâm lược nước ta, đóng ở Thăng Long. Hay tin này, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, điều quân ra Bắc, đánh tan quân Thanh.
- Bố cục đoạn trích
+ “Nhắc lại, Ngô Văn Sở sau khi đem các đạo quân rút lui... Nhằm vào ngày 25 tháng chạp năm Mậu Thân (1788): Được tin báo quân Thanh tiến chiếm Thăng Long, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đẻ, tập hợp tưởng sĩ, tiến quân ra Bắc.
+ “Vua Quang Trung tự mình đốc suất đại binh... rồi kéo vào thành”: cuộc hành quân thần tốc của vua Quang Trung: đánh tan quân Thanh, giải phóng Thăng Long.
+ “Lại nói, Tôn Sĩ Nghị và vua Lê ở Thăng Long... Tôn Sĩ Nghị cũng lấy làm xấu hổ”: Sự đại bại của quân tướng nhà Thanh và tình trạng thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống.
a. Vì … nên…(Biểu thị quan hệ nguyên nhân – kết quả).
b. Tuy … nhưng… (biểu thị quan hệ tương phản)
Theo em, sự khác nhau giữa thể tùy bút và thể truyện là:
- Thể truyện: thường phải có cốt truyện và nhân vật, có thể là thật hoặc do tác giả tưởng tượng. Nhân vật trong truyện được xây dựng qua ngoại hình, tính cách, tâm lí,… Truyện thường phản ánh hiện thực qua bức tranh mở rộng của đời sống qua những sự kiện, biến cố xảy ra trong cuộc đời của nhân vật.
- Thể tùy bút: ghi chép tùy hứng, tản mạn những sự việc có thật, nhưng không theo một cốt truyện nào. Qua đó, người viết chú trọng bộc lộ thái độ, cảm xúc, suy tư, nhận thức, đánh giá của mình về con người và cuộc sống.
a) và, của, rằng là quan hệ từ.
và dùng để nối "Chim, Mây, Nước" với "Hoa"
của dùng để nối "tiếng hót kì diệu" với "Họa Mi"
rằng nối cho với bộ phận đứng sau
b) và, như là quan hệ từ.
- và nối to với nặng
- như nối rơi xuống với ai ném đá
b) với, về là quan hệ từ.
- với nối ngồi với ông nội
- về nối giảng với từng loại cây
"Trong lòng mẹ" trích "Những thời thơ ấu" của Nguyên Hồng là một bài ca về tình mẫu tử bất diệt. Tại sao lại nói như vậy? Nhìn nhận sâu xa trong thời kì những năm 1930-1945 là thời kì mà cái "khái niệm" "Trọng nam khinh nữ" đặt nặng nhất. Người phụ nữ không được đi lấy chồng khác, ai đi lấy chồng khác thì bị thả trôi sông, cạo đầu bôi vôi,.. thoát nạn được là quá giỏi. Nhìn lại những gì trong văn bản, người phụ nữ - mẹ của bé Hồng đi lấy chồng khác, chịu những thành kiến "thối nát" của xã hội, tiêu biểu là bà cô của bé Hồng, bà mang ra nhiều thứ để nói, cố làm bé Hồng buồn. Bà ấy không tha cả một đứa con nít, không nghĩ đến cảm nhận của cháu mình, giả vờ tốt bụng mà như đâm một vạt dao vậy, bà ta có cay nghiệt trong ẩn ý khiến bé Hồng phải ghét bỏ mẹ của mình. Nhưng, tình mẫu tử luôn cao quý và thiêng liêng, đâu chỉ một hai lời nói "cay nghiệt" của một con người mà chia cắt được, bé Hồng không những không trách móc, ghét thù mẹ mình mà càng yêu quý mẹ nhiều, trong suy nghĩ mới "trưởng thành" chỉ nghĩ "Tại sao xã hội đầy rẫy bất công lại đặt ra thành kiến cho người phụ nữ như vậy?". Rồi khi gặp được mẹ, bé Hồng cảm động, như bao đứa trẻ khác, sà vào lòng mẹ, tựa vào bầu sữa ấm áp của mẹ, mẹ của bé Hồng cũng thế, âu yếm, yêu thương con hết mực. Nhìn lại như thế, ta thấy được tình mẫu tử nào dễ dập tắt, hỏi thử chăng đây phải chăng là một bài ca?
Bọn quan hầu cận trong phủ chúa tác oai tác quái trong nhân dân. Thủ đoạn của chúng là hành động vừa ăn cắp vừa la làng, người dân như thế là bị cướp của tới hai lần, bằng không thì phải tự tay hủy đi những gì quý giá trong nhà. Đó là điều hết sức vô lí, bất công.
Trong đoạn văn tác giả kể lại một sự việc đã xảy ra ngay tại gia đình mình để tăng sức thuyết phục cho những chi tiết chân thực mà tác giả đã ghi chép ở trên, đồng thời cũng làm cho cách viết phong phú, sinh động. Cảm xúc của tác giả được gửi gắm qua sự việc một cách kín đáo.
Thói ăn chơi xa xỉ, vô độ của chúa Trịnh và các quan lại hầu cận được miêu tả qua những chi tiết cụ thể, gây ấn tượng mạnh.
Chúa Trịnh cho xây dựng nhiều cung điện đình đài ở khắp nơi , hao tiền tốn của không biết bao nhiêu mà kể…
+ Những cuộc dạo chơi của chúa được miêu tả tỉ mị; diễn da thường xuyên, đông người hầu hạ, bày đặt nhiều trò giải trí, lố lăng, tốn kém…
+ Miêu tả tỉ mỉ những cuộc bài trí dạo chơi của chúa Trịnh
+ Cướp đoạt những của quý trong thiên hạ về tô điểm phủ chúa. Lời văn ghi chép sự việc rất chân thực, cụ thể, khách quan, có liệt kê và miêu tả tỉ mị vài sự việc nổi bật để khắc họa ấn tượng…
+Kết thúc đoạn miêu tả, tác giả nói: “Kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”. Đó là những từ ngữ bộc lộ kín đáo cảm xúc, thái độ chủ quan của tác giả. Cảnh thưc được miêu tả ở những khu vườn trong phủ chúa được bày vẽ, tô điểm, những âm thanh lại gợi cảm giác ghê rợn trước một cái gì đang tan tác, đau thương.
Tác giả kín đáo bộc lộ thái độ chủ quan của mình trước việc ăn chơi xa xỉ của chúa Trịnh khi miêu tả cảnh vườn trong phủ Chúa: "Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ đổ tan tành, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường.". Cảm nhận của tác giả về cái "triệu bất tường" mang ý nghĩa như sự phê phán, cảnh báo về thói ăn chơi, hưởng lạc sa hoa trên mồ hôi, xương máu của nhân dân sẽ dẫn đến cảnh suy tàn, tan vỡ tang thương.
Mở đoạn: Giới thiệu khái quát về câu chuyện kể đó (thời gian, địa điểm, nhân vật tham gia)
Thân đoạn: Trình bày nội dung của câu chuyện
– Nguyên nhân dẫn đến sự việc
– Sự việc đó diễn ra như thế nào
– Kết quả của sự việc đó ra sao
Kết đoạn:
– Suy nghĩ của em về sự việc đó
– Liên hệ bản thân
- Tóm tắt văn bản Lão Hạc
Lão Hạc có một người con trai, một mảnh vườn và một con chó. Con trai lão đi phu đồn điền cao su, lão chỉ còn lại “cậu Vàng". Vì muốn để lại mảnh vườn cho con, lão phải bán con chó. Lão mang tiền dành dụm được gửi ông giáo và nhờ trông coi mảnh vườn. Cuộc sống mỗi ngày một khó khăn, lão kiếm được gì ăn nấy và bị ốm một trận khủng khiếp. Một hôm lão xin Binh Tư ít bả chó. Ông giáo rất buồn cho lão khi nghe Binh Tư kể chuyện ấy. Nhưng rồi lão bỗng nhiên chết - cái chết thật dữ dội. Cả làng không hiểu vì sao lão chết, trừ Binh Tư và ông giáo.
Tham khảo thêm: Tóm tắt văn bản Lão Hạc
Tóm tắt ngắn gọn hơn :
Chàng Trương Sinh hay ghen phải đi lính khi vừa cưới Vũ Nương. Lúc trở về, chàng nghe lời con dại nghi oan vợ không chung thuỷ. Vũ Nương bị oan bèn gieo mình tự vẫn ở sông Hoàng Giang. Một đêm khi ngồi với con trai bên đèn, đứa con chỉ chiếc bóng nói đấy là cha nó vẫn đến đêm đêm. Trương Sinh vỡ lẽ ra là vợ mình bị oan ức. Phan Lang là người cùng làng gặp Vũ Nương dưới thuỷ cung, khi trở về trần gian, kể lại lời nhắn của Vũ Nương. Trương Sinh lập đàn giải oan cho vợ bên sông Hoàng Giang. Vũ Nương hiện lên nhưng không về trần gian nữa.