Theo Nghị định 147/2024/ND-CP, bạn cần xác thực tài khoản trước khi sử dụng tính năng này. Chúng tôi sẽ gửi mã xác thực qua SMS hoặc Zalo tới số điện thoại mà bạn nhập dưới đây:
Trong truyện cười Có nuôi được không? với câu nói “Rồi có nuôi được không?”, người nói không tuân thủ phương châm về lượng trong hội thoại. Vì bố của người nói với anh ta đẻ non không nuôi được thì làm sao có anh ta (người nói).
Trả lời:
Hãy chọn các từ ngữ cho bên dưới để điền vào chỗ trống – (…) – trong các câu sau cho thích hợp:
a) Nói có căn cứ chắc chắn là: nói có sách, mách có chứng.
b) Nói sai sự thật một cách cố ý nhằm che giấu điều gì đó là: nói dối.
c) Nói một cách hú họa, không có căn cứ là: nói mò.
d) Nói nhảm nhí, vu vơ là: nói nhăng nói cuội.
e) Nói khoác lác, làm ra vẻ tài giỏi… là: nói trạng.
Các câu sau vi phạm phương châm về lượng như thế nào?
a) Trâu là một loài gia súc nuôi ở nhà. Câu này thừa “nuôi ở nhà” bởi vì từ “gia súc” đã hàm chứa “thú nuôi trong nhà”.
b) Én là một loài chim có hai cánh. Câu này thừa tổ hợp từ “có hai cánh” vì tất cả các loài chim đều có hai cánh.
Truyện này gây cười vì hai nhân vật nói thừa những gì mà giao tiếp yêu cầu. Lẽ ra anh tìm lợn cưới chỉ cần hỏi: “Bác có thấy con lợn nào chạy qua đây không?" và anh mặc áo mới chỉ cần đáp: “(Nãy giờ) tôi chẳng thấy con lợn nào chạy qua đây cả” là đủ. Như vậy, không nên nói nhiều hơn những gì cần nói.
Câu trả lời của Ba: ...Dĩ nhiên là ở dưới nước... không mang đầy đủ nội dung mà An cần biết. Vì từ “bơi” hàm nghĩa “bơi ở dưới nước”. Điều mà An cần biết là địa điểm học bơi của Ba.
Nói mà không có nội dung là một hiện tượng không bình thường trong giao tiếp vì câu nói trong giao tiếp bao giờ cũng truyền tải một nội dung nhất định.
Như vậy câu nói phải có nội dung đúng như yêu cầu của giao tiếp, không nói thiếu những gì mà giao tiếp yêu cầu
- Con người Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa, trọn vẹn giữa truyền thống văn hóa dân tộc với văn hóa tinh hoa nhân loại.
- Lối sống rất dân tộc, rất Việt Nam của Bác gợi cho ta nhớ đến các vị hiền triết trong lịch sử như Nguyễn Trãi ở Côn Sơn với lối sống giản dị, thanh cao:
"Ao cạn vớt bèo cấy muống
Đìa thanh phát cỏ ương sen"
Có thể nói nếp sống giản dị mà thanh cao vì ta thấy Bác không quan tâm đến sự hưởng thụ cá nhân như miếng ăn, cái mặc hay chỗ ở: “Và chủ nhân chiếc nhà sản này cũng trang phục hết sức giản dị với bộ quần áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp thô sơ như của các chiến sĩ Trường Sơn" mà Bác chỉ quan. trọng nghĩ đến những tư tưởng hi sinh cho quốc gia dân tộc và lí tưởng của mình.
Lối sống rất bình dị, rất Việt Nam, rất phương Đông của Bác Hồ được biểu hiện
- Nơi ở và làm việc mộc mạc, đơn sơ: "chiếc nhà sàn nhỏ bằng gỗ bên cạnh chiếc ao", chiếc nhà sàn "chỉ vẻn vẹn có vài phòng tiếp khách, họp Bộ Chính trị, làm việc và ngủ, với những đồ đạc rất mộc mạc đơn sơ".
- Trang phục hết sức giản dị: bộ quần áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp thô sơ.
- Ăn uống rất đạm bạc cá kho, rau luộc, dua ghém, cà muối, cháo hoa...
Gợi ta nhớ đến các hiền triết xưa: Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Trãi
- Vốn tri thức văn hóa sâu rộng của Chủ tịch Hồ Chí Minh được biểu hiện:
+ Nói và viết thành thạo nhiều thứ tiếng ngoại quốc: Anh, Pháp, Hoa, Nga
+ Am hiểu về dân tộc, nhân dân thế giới, văn hóa thế giới sâu sắc
- Người có được vốn tri thức sâu rộng đó là vì:
+ Đến đâu Người cũng học hỏi, tìm hiểu văn hóa, nghệ thuật đến mức uyên thâm
+ Tiếp thu mọi cái đẹp cái hay nhưng đồng thời cũng phê phán những tiêu cực của chủ nghĩa tư bản. Tiếp thu có chọn lọc, không thụ động
+ Đi nhiều nơi, làm nhiều nghề
- Trong phần cuối đoạn thơ, người cha nói đến cái thế bất lực của mình (tuổi già sức yếu, lỡ sa cơ, dành chịu hố tay, thân lươn) và sự nghiệp của tổ tông nhằm mục đích khơi dậy trách nhiệm, ý chí gánh vác non sông của người con, khích lệ để người con nối gót tổ tông làm nên nghiệp lớn.
- Bài thơ không mang tính chất hoài cổ mà mượn cổ để nói nay. Khép lại đoạn thơ là hình ảnh ngọn cờ độc lập vừa là của cha ông dặn dò con cháu phải kế tục truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm, vừa là niềm tin vào thế hệ trẻ và tương lai của đất nước.
- Tác giả nhập vai vào người cha (Nguyễn Phi Khanh) khuyên con mình (Nguyễn Trãi) để gợi nhắc về truyền thống đánh giặc của cha ông, nói về hiện tình của đất nước và kể tội ác của quân xâm lược. Qua đó, tác giả đã thể hiện được những tình cảm:
+ Lòng tự hào về truyền thống của dân tộc, đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
+ Căm phẫn trước tội ác tàn bạo của kẻ thù: tội ác tày trời của bọn giặc Minh gây ra thảm cảnh núi sông xương máu, , gia đình li tán, vợ con chia lìa xiết bao thảm họa xương rừng máu sông…
+ Nỗi đau đớn khi quê hương bị giặc tàn phá: Đó là nỗi đau đớn vò xé tâm can, những lời thơ như được viết ra từ gan ruột.
- Sức gợi cảm của đoạn thơ: tác giả sử dụng biện pháp tu từ như ẩn dụ, nhiều hình ảnh, từ ngữ diễn tà cảm xúc mạnh, diễn tả nỗi đau thương. Các từ ngữ như vong quốc, cơ đồ, đất khóc, giời than, nòi giống... đã góp phần nâng tầm vóc của nỗi đau thương này.